TÓM TẮT
Chương trình giáo dục phổ thông (chương trình tổng thể) 2018 đã chỉ rõ năng lực mô hình hóa toán học
là một trong năm năng lực mà giáo viên toán cần phải hình thành và phát triển cho học sinh. Bài báo
trình bày một nghiên cứu cụ thể tại Trường Trung học phổ thông Bà Điểm (gồm 44 học sinh) đã được
thực hiện 3 biện pháp: hình thành tri thức mới cho học sinh thông qua hoạt động khảo sát một hay nhiều
trường hợp riêng lấy từ thực tiễn; tăng cường xây dựng các tình huống gắn với đời sống thực tiễn để học
sinh giải quyết; tổ chức cho học sinh khai thác, vận dụng kiến thức đã học dựa trên các đồ dùng được
làm từ vật liệu có sẵn trong cuộc sống thường ngày. Kết quả nghiên cứu cho thấy học sinh phát huy
được khả năng sáng tạo và vận dụng được vào thực tiễn hay nói cách khác, năng lực mô hình hóa toán
học của học sinh đã được cải thiện. Các biện pháp này hoàn toàn có thể ứng dụng cho lớp 10.
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 208 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển năng lực mô hình Hóa toán học cho học sinh thông qua dạy học nội dung Hình học 10, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 71 (05/2020) No. 71 (05/2020)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website:
97
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC MÔ HÌNH HÓA TOÁN HỌC CHO
HỌC SINH THÔNG QUA DẠY HỌC NỘI DUNG HÌNH HỌC 10
Developing mathematical modeling competence for students through teaching
geometry content grade 10
TS. Phạm Thị Thanh Tú(1), Trần Thị Hồng Nhung(2)
(1)Trường Đại học Sài Gòn
(2)Học viên cao học Trường Đại học Sài Gòn
TÓM TẮT
Chương trình giáo dục phổ thông (chương trình tổng thể) 2018 đã chỉ rõ năng lực mô hình hóa toán học
là một trong năm năng lực mà giáo viên toán cần phải hình thành và phát triển cho học sinh. Bài báo
trình bày một nghiên cứu cụ thể tại Trường Trung học phổ thông Bà Điểm (gồm 44 học sinh) đã được
thực hiện 3 biện pháp: hình thành tri thức mới cho học sinh thông qua hoạt động khảo sát một hay nhiều
trường hợp riêng lấy từ thực tiễn; tăng cường xây dựng các tình huống gắn với đời sống thực tiễn để học
sinh giải quyết; tổ chức cho học sinh khai thác, vận dụng kiến thức đã học dựa trên các đồ dùng được
làm từ vật liệu có sẵn trong cuộc sống thường ngày. Kết quả nghiên cứu cho thấy học sinh phát huy
được khả năng sáng tạo và vận dụng được vào thực tiễn hay nói cách khác, năng lực mô hình hóa toán
học của học sinh đã được cải thiện. Các biện pháp này hoàn toàn có thể ứng dụng cho lớp 10.
Từ khóa: mô hình hóa toán học, năng lực mô hình hóa toán học, hình học 10
ABSTRACT
General education program (master program) 2018 has shown that mathematical modeling competence
is one of the five competencies that math teachers need to shape and develop for students. A specific
study at Bà Điểm High School with 44 students has taken 3 measures: creating new knowledge for
students through surveying activities of one or many separate cases taken from Practice; strengthen the
construction of real-life situations for students to solve; organize for students to exploit and apply the
learned knowledge based on the utensils made from materials available in daily life. The results show
that the application of the measures above has improved the mathematical modeling capacity for
students. These measures are perfectly applicable for grade 10.
Keywords: geometry grade 10, mathematical modeling, mathematical modeling competency
1. Mở đầu
Toán học đã xuất hiện ngay từ những
ngày đầu bình minh của lịch sử nhân loại.
Trải qua nhiều thập kỷ, toán học vẫn không
ngừng vận động và phát triển. Ngày nay,
toán học đã phát triển một cách mạnh mẽ
và có nhiều ứng dụng sâu sắc. Những phát
minh mới của toán học xuất hiện hàng
ngày, hàng giờ với rất nhiều ngành mới ra
đời, nhiều quan niệm cũ bị đảo lộn. Ngày
nay toán học không chỉ áp dụng trong thiên
văn, vật lý, cơ học mà còn xâm nhập vào
Email: tranthihongnhung.1771995@gmail.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 71 (05/2020)
98
hoá học, sinh học và nhiều ngành khoa học
xã hội nữa. Ở nước ta, cố Thủ tướng Phạm
Văn Đồng từng nói: “Trong phương hướng
phát triển khoa học kỹ thuật ở nước ta có
những ngành có thể và cần phải làm sớm,
mà làm sớm được thì rất tốt. Ví dụ như
ngành toán học, trong đó có vận trù học, có
phương pháp PERT” [1].
Trong Thông báo khoa học Trường
Đại học Văn Hóa Hà Nội (04/1999) với bài
viết có tiêu đề “Toán học và thực tiễn đời
sống” [1], Đoàn Phan Tân khẳng định:
“Toán học là một khoa học rất trừu tượng
lại có tác dụng to lớn với thực tiễn, tác
dụng của nó đối với đời sống sản xuất và
khoa học kỹ thuật là vô cùng to lớn”.
Tuy nhiên, việc chuyển đổi các vấn đề
thực tiễn sang toán và ngược lại, sử dụng
kết quả toán để giải quyết các vấn đề thực
tiễn trên thực tế là rất khó thực hiện, đặc
biệt là đối với học sinh (HS) lớp 10 vì ở
thời điểm này các em chưa được tiếp xúc
nhiều với các dạng toán thực tế. Thực trạng
này được nghiên cứu và phân tích cụ thể
với công trình về thực trạng năng lực mô
hình hóa (MHH) toán học của HS trung
học phổ thông (THPT) của tác giả Lê Hồng
Quang [2]. Trong đó, tác giả đưa ra nhận
định rằng: “Dạy học MHH toán học trong
nhà trường phổ thông tại Việt Nam giai
đoạn tới là đầy triển vọng”. Do đó, để hỗ
trợ cho HS trong việc chuyển đổi này
chúng tôi đặc biệt quan tâm đến việc phát
triển năng lực MHH toán học thông qua
các tiết dạy hình thành tri thức mới thuộc
chương trình Hình học 10. Ở đây, chúng
tôi chọn làm MHH Hình học 10 thay vì
Hình học 11 hay Hình học 12, vì ở lớp 10
HS không bị áp lực về thời gian và thi cử,
hơn nữa Hình học 10 cũng có nhiều nội
dụng thuận lợi để chúng tôi thực hiện các
biện pháp.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Mô hình hóa toán học
Tại hội nghị của Freudental năm 1968,
MHH toán học trong giáo dục lần đầu tiên
được xuất hiện một cách chính thức.
Nhưng một cột mốc quan trọng của việc
đưa MHH vào nhà trường phải kể đến
chính là nghiên cứu của Pollak năm 1979.
Theo đó, ông cho rằng giáo dục toán học
trước hết phải có nhiệm vụ dạy cho HS
cách sử dụng toán trong cuộc sống hàng
ngày. Chính vì lí do đó mà hội nghị quốc tế
về dạy học MHH toán học và áp dụng
International Commission on Mathematical
Instruction (ICTMA) được tổ chức hai năm
một lần với mục đích thúc đẩy khả năng
vận dụng phương pháp MHH trong dạy
học toán ở trường phổ thông. MHH giúp
rèn luyện cho HS những kĩ năng toán học
cần thiết, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ
năng hợp tác và nghiên cứu, phát triển tư
duy logic và nhận thức ở mức độ cao. Hoạt
động này giúp tăng cường sự gắn kết giữa
không gian lớp học với các vấn đề của thế
giới bên ngoài, từ đó giúp HS thấy được vẻ
đẹp, cấu trúc và ứng dụng của toán học
trong thực tiễn. Nhằm giúp HS hiểu sâu và
nắm chắc kiến thức toán học trong nhà
trường [3].
Có nhiều định nghĩa và mô tả khác
nhau về khái niệm MHH toán học, tùy
thuộc vào quan điểm lý thuyết mà mỗi tác
giả có sự lựa chọn khác nhau. Trong phạm
vi bài viết này, chúng tôi sử dụng khái
niệm MHH toán học theo Lâm Thùy
Dương [4] và Xviregiev [5]: “MHH toán
học là quá trình chuyển đổi từ vấn đề thực
tế sang vấn đề toán học bằng cách thiết lập
và giải quyết các mô hình toán học. Cụ thể,
MHH toán học là toàn bộ quá trình chuyển
đổi từ vấn đề thực tiễn sang vấn đề toán
học và ngược lại, cùng với các yếu tố liên
PHẠM THỊ THANH TÚ - TRẦN THỊ HỒNG NHUNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
99
quan đến quá trình đó: từ bước xây dựng
lại tình huống thực tiễn, lựa chọn mô hình
toán học phù hợp, làm việc trong một môi
trường toán học, giải thích, đánh giá kết
quả liên quan đến tình huống thực tiễn và
điều chỉnh mô hình cho đến khi có được
kết quả hợp lí”.
Quá trình MHH toán học được trình
bày trong chương trình đánh giá HS quốc tế
PISA theo sơ đồ gồm các bước sau đây [4]:
Bước 1, bắt đầu từ một vấn đề thực tế
được đặt ra trong thế giới thực;
Bước 2, nhận ra các kiến thức toán học
phù hợp với vấn đề, tổ chức lại vấn đề theo
các khái niệm toán học;
Bước 3, không ngừng cắt tỉa, chọn lọc
các yếu tố thực tế để chuyển vấn đề thành
một bài toán thể hiện cho tình huống;
Bước 4, giải quyết bài toán;
Bước 5, làm cho lời giải bài toán có ý
nghĩa đối với tình huống thực tế, xác định
những hạn chế của lời giải.
Sơ đồ thể hiện rất rõ mối liên hệ giữa
thế giới thực và thế giới toán học thông qua
việc chuyển từ tình huống thực tiễn thành
một vấn đề toán học và việc chuyển lời giải
toán học thành lời giải thực tiễn. Do đó,
việc dạy học gắn liền với thực tiễn về thực
chất là dạy cho học sinh tự mình thực hiện
được 4 giai đoạn gồm: Chuyển tình huống
thực tiễn thành tình huống toán học; giải
quyết bài tập toán học; chuyển các kết quả
của bài tập toán thành kết quả của lời giải
thực tiễn; kết luận cho vấn đề thực tiễn
ban đầu.
2.3. Năng lực mô hình hoá toán học
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa và
quan điểm khác nhau về năng lực MHH
toán học được chia sẻ trong lĩnh vực giáo
dục. Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng
quan điểm về năng lực MHH toán học của
Bloomhoj và Jensen như sau: Năng lực
MHH là khả năng thực hiện đầy đủ các giai
đoạn của quá trình MHH trong một tình
huống cho trước [6]. Các biểu hiện của
năng lực MHH được thể hiện qua việc: [7]
+ Xác định được mô hình toán học
(gồm công thức, phương trình, bảng biểu,
đồ thị, v.v.) cho tình huống xuất hiện trong
bài toán thực tiễn.
+ Giải quyết được những vấn đề toán
học trong mô hình được thiết lập;
+ Thể hiện và đánh giá được lời giải
trong ngữ cảnh thực tế và cải tiến được mô
hình nếu cách giải quyết không phù hợp.
Từ khái niệm trên theo chúng tôi thấy,
đối với HS trung học phổ thông, năng lực
MHH thể hiện thông qua việc:
Thế giới thực tế
Lời giải thực tế Lời giải toán học
Vấn đề thực tế Vấn đề toán học
Thế giới toán học
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 71 (05/2020)
100
+ Thiết lập được mô hình toán học
(gồm công thức, phương trình, sơ đồ, bảng
biểu, hình vẽ...) để mô tả tình huống đặt ra
trong một số bài toán thực tiễn;
+ Giải quyết được những vấn đề toán
học trong mô hình được thiết lập;
+ Lí giải được tính đúng đắn của lời
giải (những kết luận thu được từ các tính
toán là có ý nghĩa, phù hợp với thực tiễn
hay không). Đặc biệt, nhận biết được cách
đơn giản hóa, cách điều chỉnh những yêu
cầu thực tiễn (xấp xỉ, bổ sung thêm giả
thiết, tổng quát hóa...) để đưa đến những
bài toán giải được.
Từ những mô tả trên, theo chúng tôi,
để bồi dưỡng và phát triển năng lực MHH
toán học trong dạy học Hình học 10, giáo
viên (GV) cần chú trọng vào những thành
tố cơ bản sau để bồi dưỡng và phát triển
cho HS:
+ Kiến thức, kỹ năng liên quan đến
toán học để giúp HS phát triển kỹ năng kết
nối chúng nhằm giải quyết những vấn đề
thực tế;
+ Sử dụng các biểu diễn toán;
+ Phân tích các biểu diễn;
+ Thấu hiểu được sự kết nối giữa toán
học và thực tế.
8 kỹ năng thành phần của năng lực
MHH toán học bao gồm:
(1) Đơn giản hóa giả thiết;
(2) Làm rõ mục tiêu (yêu cầu của đề
bài);
(3) Thiết lập vấn đề toán học;
(4) Xác lập biến số, hằng số (kèm
theo điều kiện);
(5) Thiết lập mệnh đề toán học;
(6) Lựa chọn mô hình;
(7) Biểu diễn mô hình bằng đồ thị;
(8) Liên hệ lại vấn đề trong thực tiễn.
Các cấp độ trong năng lực mô hình hóa của học sinh (theo Ludwig và Xu [6])
Mức Các kỹ năng có thể thực hiện Biểu hiện của HS
Mức 0
HS đọc không hiểu tình huống, không thể viết, vẽ
hay phác thảo những gì liên quan tới vấn đề, ngộ
nhận bởi các tình huống gây nhiễu.
Mức 1
HS chỉ hiểu được tình huống thực tiễn theo bối cảnh,
nhưng không cấu trúc lại hoặc chưa tìm ra được mối
liên hệ giữa các giả thiết với nhau, không thể tìm
được sự kết nối với một ý tưởng toán học nào.
Mức 2
HS cần đạt 2 kỹ năng MHH (1)
và (2)
Sau khi tìm hiểu vấn đề thực tiễn, học sinh biết tìm
mô hình thật qua cấu trúc và đơn giản hóa, nhưng
chưa biết chuyển đổi thành vấn đề toán học.
Mức 3
HS cần đạt được các kỹ năng
(1), (2), (3) và (4)
Không chỉ tìm ra mô hình thật mà còn phiên dịch nó
thành vấn đề toán học, nhưng vẫn chưa thể làm việc
với nó một cách rõ ràng trong thế giới toán học.
Mức 4
HS cần đạt được các kỹ năng
(1), (2), (3), (4), (5), (6) và (7)
HS có thể thiết lập vấn đề toán học từ các tình
huống thực tiễn, làm việc với bài toán đó với các
kiến thức toán học và có cho ra được kết quả cụ thể.
Mức 5
HS cần đạt được tất cả 8 kỹ
năng thành phần nói trên
HS có thể trải nghiệm quá trình MHH toán học và
kiểm nghiệm lời giải bài toán trong mối quan hệ với
tình huống đã cho.
PHẠM THỊ THANH TÚ - TRẦN THỊ HỒNG NHUNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
101
Theo các căn cứ ở trên, chúng tôi cho
rằng cách tốt nhất để phát triển năng lực
MHH cho học sinh là tạo cơ hội để học
sinh được thường xuyên rèn luyện các kỹ
năng thành phần của năng lực này. Từ đó,
chúng tôi đề xuất các biện pháp phát triển
năng lực MHH toán học cho HS thông qua
dạy học nội dung Hình học 10.
2.3. Một số biện pháp phát triển năng
lực mô hình hoá toán học cho học sinh
thông qua dạy học nội dung hình học
lớp 10
Nghiên cứu được tiến hành ở lớp 10A4
(44 HS) Trường THPT Bà Điểm. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, có 38/44 HS cảm
thấy tiết học hứng thú, 34/44 HS có tiến bộ
về năng lực mô hình hóa và khả năng vận
dụng vào thực tiễn, 20/44 HS phát huy
được khả năng sáng tạo. Qua nghiên cứu,
chúng tôi nhận thấy có ba biện pháp đạt
hiệu quả nổi trội hơn hẳn chưa từng được
đề xuất trước đây.
2.3.1. Biện pháp 1, hình thành tri thức
mới cho học sinh thông qua khảo sát một
hay nhiều trường hợp riêng lấy từ thực tiễn
Toán học có nguồn gốc từ thực tiễn và
phản ánh thực tiễn. Những nội dung toán
thường có tính trừu tượng, khái quát, nên
khi học các tri thức mới, HS lớp 10 ít thấy
sự liên hệ của chúng với thực tế. Do đó, tổ
chức dạy học thông qua việc khảo sát một
hay nhiều trường hợp riêng lấy từ thực tiễn
sẽ giúp HS thấy được mối liên hệ giữa toán
và thực tế, qua đó tạo nguồn cảm hứng và
động lực cho họ tiếp cận kiến thức và hình
thành tri thức mới.
Với đề xuất này, chúng tôi đưa ra các
trường hợp riêng từ thực tiễn nhằm đơn
giản hóa những tri thức trừu tượng, thu hẹp
khoảng cách giữa lý thuyết và thực tiễn, từ
đó hình thành tri thức mới cho HS.
Ví dụ 1. Để dạy định lí côsin trong tam
giác cho HS, GV có thể tổ chức như sau:
Hoạt động 1, GV đưa ra một tình
huống gắn với thực tiễn:
Hai chiếc tàu đánh cá cùng xuất phát
từ một bến cảng A, đi thẳng theo hai hướng
tạo với nhau thành góc 600. Tàu B chạy với
tốc độ 20 hải lí một giờ. Tàu C chạy với
tốc độ 15 hải lí một giờ. Sau 2 giờ, hai tàu
cách nhau bao nhiêu hải lí? (1 hải lí
1,852 km).
Để giúp HS giải quyết tình huống trên,
GV có thể hướng dẫn HS thực hiện các
hoạt động sau:
Câu hỏi gợi ý 1, mô tả tình huống trên
thông qua hình vẽ.
Câu trả lời mong đợi (CTLMĐ): sau 2
giờ tàu B đi được 40 hải lí, tàu C đi được
30 hải lí. Khi đó, tình huống được mô tả lại
như Hình 1.
Hình 1
Câu hỏi gợi ý 2, quan sát hình vẽ trên,
các em cho biết đã từng giải bài toán nào
tương tự bài toán này chưa?
CTLMĐ: bài toán trong [9]. Cho tam
giác ABC vuông tại A (Hình 2), khi đó áp
dụng định lí Py-ta-go ta có:
2 2 2BC AC AB
hay
2 2 2
.BC AC AB (*)
Ta có thể chứng minh đẳng thức (*)
như sau:
2 2 2
2( ) 2 .BC AC AB AC AB AC AB
2 2
.AC AB
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 71 (05/2020)
102
Hình 2
Trong chứng minh chúng ta vừa thực
hiện, giả thiết góc A vuông được sử dụng
như thế nào?
CTLMĐ:
Â
0=90 cos  =0 2 . 0 AC AB
Câu hỏi gợi ý 3, trong bài giải trên, ta
đã sử dụng phương pháp nào để giải?
CTLMĐ: phương pháp vectơ
Câu hỏi gợi ý 4, tương tự bài toán
trên, các em hãy giải bài toán đã đưa ra ở
trên và CTLMĐ như sau:
Ta có
2
2
2
2 2
2 2
2 .
30 40 2.600
1300.
BC BC
AC AB
AC AB AC AB
Suy ra 1300 36 BC (hải lí).
Vậy sau 2 giờ hai tàu cách nhau 36 hải
lí.
Phân tích:
- Câu hỏi gợi ý 1 giúp HS sử dụng các
biểu diễn toán, nhận ra biến số và cấu trúc
toán ẩn sau tình huống để thiết lập mô hình.
- Câu hỏi gợi ý 2, 3 và 4 nhằm dẫn dắt
HS hướng đến việc sử dụng phương pháp
vectơ để tính độ dài cạnh BC. Thông qua
việc tính độ dài cạnh BC bằng phương
pháp vectơ, HS khám phá ra tri thức mới
tổng quát hơn là “tính độ dài một cạnh của
tam giác theo hai cạnh còn lại và côsin của
góc xen giữa hai cạnh đó. Tuy nhiên, lúc
này bài toán mới dừng lại ở một trường
hợp riêng là “tính độ dài cạnh BC khi biết
2 cạnh còn lại AB = 40, AC =30 và Â =
600” nên sau đó, GV cần tổ chức thêm khái
quát hóa để nâng lên thành bài toán tổng
quát. Hoạt động khái quát hóa được tổ
chức như sau:
Hoạt động 2, các em hãy giải bài toán
tổng quát sau:
“Cho tam giác ABC, biết hai cạnh
,AB c AC b và Â . Tính độ dài
cạnh BC”.
CTLMĐ: tương tự hoạt động 1, ta có
2
2
2
2 2
2 2
2 .
2 . . os .
BC BC
AC AB
AC AB AC AB
b c b c c
Suy ra 2 2 2 . . os .BC b c b c c
Trên cơ sở giải quyết bài toán trong
trường hợp tổng quát trên, GV đề nghị HS
làm các bài tương tự như:
Bài 1, “cho tam giác ABC, biết hai
cạnh ,AB c ,BC a và . Tính độ
dài cạnh AC ”.
Bài 2, “cho tam giác ABC, biết hai
cạnh ,BC a AC b và . Tính độ dài
cạnh AB”.
Sau khi HS giải quyết hết các bài toán
tổng quát đã nêu, GV tiếp tục tổ chức cho
HS hoạt động sau:
Hoạt động 3, thiết lập công thức tổng
quát tính một cạnh của tam giác theo hai
cạnh còn lại và côsin của góc xen giữa hai
cạnh đó.
Hoàn thành hoạt động 3, HS hình
thành tri thức mới là định lí côsin trong
tam giác ABC với BC = a, CA = b và AB =
c, ta có:
PHẠM THỊ THANH TÚ - TRẦN THỊ HỒNG NHUNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
103
2 2 2 2 cos ;a b c bc A
2 2 2 2 cos ;b c a ca B
2 2 2 2 cos .c a b ab C
Hoạt động 4, phát biểu bằng lời công
thức tính một cạnh của tam giác theo hai
cạnh còn lại và côsin của góc xen giữa hai
cạnh đó và CTLMĐ: “Trong tam giác, bình
phương một cạnh thì bằng tổng bình
phương hai cạnh còn lại trừ cho hai lần tích
của hai cạnh đó nhân với côsin của góc xen
giữa hai cạnh đó”.
Nhận xét:
Thông qua hoạt động khảo sát một
trường hợp riêng (tình huống lấy từ thực
tiễn là tình huống tính khoảng cách giữa 2
tàu đánh cá sau 2 giờ rời bến cảng A) của
bài toán: “Tính độ dài cạnh BC của tam
giác ABC khi biết hai cạnh 40,AB
30AC và 0”, GV giúp HS tự
hình thành tri thức mới là định lí côsin
trong tam giác bằng cách tổ chức cho họ
hoạt động khái quát hóa bài toán từ trường
hợp riêng thành bài toán tổng quát: “Cho
tam giác ABC, biết hai cạnh ,AB c AC b
và . Tính độ dài cạnh BC ”. Sau yêu
cầu “thiết lập công thức tổng quát tính một
cạnh của tam giác theo hai cạnh còn lại và
côsin của góc xen giữa hai cạnh đó”, hoạt
động cuối cùng là GV đề nghị HS phát
biểu bằng lời công thức tính một cạnh của
tam giác theo hai cạnh còn lại và côsin của
góc xen giữa hai cạnh đó để củng cố kiến
thức mới học.
2.3.2. Biện pháp 2, tăng cường xây
dựng các tình huống gắn với thực tế để học
sinh giải quyết
Để phát triển năng lực MHH toán học
cho HS, GV cần tạo điều kiện cho họ thực
hiện các hoạt động có liên quan thông qua
quá trình dạy học khái niệm mới, dạy học
định lý, các công thức, quy tắc, giải bài tập
toán.v.v.
Việc thường xuyên tổ chức cho HS
thực hiện các hoạt động chuyển đổi từ tình
huống thực tế sang tình huống toán sẽ tác
động lên nhận thức và thói quen sử dụng
công cụ toán học để giải quyết các vấn đề
từ đơn giản đến phức tạp nảy sinh trong
cuộc sống hàng ngày.
Chẳng hạn, khi dạy học nội dung về
phương trình đường tròn, chúng tôi cho
học sinh thực hiện hoạt động MHH toán
học thông qua bài toán sau:
Ví dụ 2. Một nhà hàng tiệc cưới ở Bến
Tre có cổng chính ra vào là một phần
đường tròn có trang trí hoa rất đẹp (Hình
3). Bạn An rất thích cái cổng này, nên dự
định khi về nhà sẽ làm một cái tương tự.
Nhân tiện có cái thước dây của anh thợ sửa
chữa nào đó để quên ở nhà hàng, sử dụng
nó để đo đạc và nhận thấy: độ rộng trên
mặt đất của cổng là 4m (khoảng cách giữa
hai chân cổng). Đứng cách một chân cổng
khoảng 0