Tóm tắt: Dựa vào nguồn tài liệu thứ cấp và quan sát thu thập được, bài viết tổng quan sơ
lược chặng đường phát triển của nền xã hội học trong khu vực nhà nước ở Việt Nam suốt
hơn bốn thập kỷ qua; phân tích chỉ ra một số thành công, cơ hội và thách thức đặt ra trong
hoạt động nghiên cứu và đào tạo lĩnh vực xã hội học ở Việt Nam hiện nay. Dựa vào bằng
chứng thu thập được và kết quả phân tích, bài viết đưa ra một số bàn luận và khuyến nghị
nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, góp phần vào phát
triển bền vững và thịnh vượng của nền xã hội học Việt Nam trong bối cảnh xã hội chuyển
đổi và hội nhập quốc tế.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 29 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển xã hội học trong khu vực nhà nước: Phác thảo về cơ hội và thách thức đặt ra trong bối cảnh hội nhập quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”
15
PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC TRONG KHU VỰC NHÀ NƢỚC: PHÁC THẢO VỀ
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐẶT RA TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
PGS. TS Nguyễn Đức Chiện
Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Email: xhhchien@yahoo.com
Tóm tắt: Dựa vào nguồn tài liệu thứ cấp và quan sát thu thập được, bài viết tổng quan sơ
lược chặng đường phát triển của nền xã hội học trong khu vực nhà nước ở Việt Nam suốt
hơn bốn thập kỷ qua; phân tích chỉ ra một số thành công, cơ hội và thách thức đặt ra trong
hoạt động nghiên cứu và đào tạo lĩnh vực xã hội học ở Việt Nam hiện nay. Dựa vào bằng
chứng thu thập được và kết quả phân tích, bài viết đưa ra một số bàn luận và khuyến nghị
nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, góp phần vào phát
triển bền vững và thịnh vượng của nền xã hội học Việt Nam trong bối cảnh xã hội chuyển
đổi và hội nhập quốc tế.
Từ khóa: phát triển xã hội học, khu vực Nhà nước, cơ hội, thách thức
1. Đặt vấn đề
Xã hội học là một chuyên ngành khoa học xã hội đƣợc hình thành từ những biến đổi sâu
sắc về chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học ở các nƣớc Tây Âu vào nửa sau thế kỷ XIX (Tony
Bilton và các tác giả khác, 1993:19). Ngay từ ban đầu, các nhà xã hội học tiền bối đã nỗ lực
vận dụng những thành tựu phƣơng pháp nghiên cứu trong khoa học tự nhiên để nghiên cứu
các vấn đề xã hội mới nảy sinh, đƣa ra cách lý giải thuyết phục về các hiện tƣợng, sự kiện xã
hội, tính quy luật và mối quan hệ nhân quả của nó trong đời sống xã hội ở các quốc gia
phƣơng Tây. Với góc nhìn khoa học mới giúp xã hội học giải thích thấu đáo các vấn đề xã
hội nảy sinh trong đời sống xã hội. Mặc dù là chuyên ngành ra đời muộn nhƣng với tính sát
thực và hiệu quả, xã hội học nhanh chóng trƣởng thành cuốn hút quan tâm của toàn xã hội.
Nhƣ lời Peter Berger - một học giả có uy tín trong giới xã hội học quốc tế đã nhận xét về
tính ƣu trội của ngành khoa học này “Sức quyền rũ của xã hội học là ở chỗ cách nhìn (giải
thích vấn đề) của nó giúp ta phát hiện ra dƣới ánh sáng mới chính thế giới mà chúng ta sống
suốt đời (...) sự thông thái của xã hội học chính là ở chỗ các sự vật không đúng nhƣ vẻ ngoài
của chúng” (Tony Bilton và các tác giả khác, 1993:21).
Ở Việt Nam, chính thức xã hội học du nhập muộn hơn so với các ngành khoa học xã hội
khác. Ngƣợc dòng thời gian, qua các tƣ liệu cho thấy từ thập niên đầu đến thập niên 60 của
thế kỷ XX Xã hội học thế giới đã phát triển mạnh mẽ ở một số quốc gia châu Âu, Châu Mỹ,
nhƣng Xã hội học Việt Nam vẫn chƣa đƣợc xác lập một cách chính thức. Phải đến những
năm cuối của thập niên 70 (thế kỷ XX) trƣớc yêu cầu cấp bách của xã hội và những nỗ lực
chung của xã hội, đặc biệt là các nhà khoa học xã hội, Xã hội học Việt Nam chính thức định
hình với tính chất là một tổ chức nghiên cứu. Năm 1977, Ban Xã hội học đƣợc thành lập
HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”
16
thuộc Viện Khoa học xã hội (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) với lực lƣợng
nghiên cứu rất mỏng (10 cán bộ), chủ yếu từ các chuyên ngành khoa học khác chuyển sang,
nhƣ Triết học, Toán, Văn học, Sử học, Kinh tế chính trị. Sự ra đời Ban Xã hội học đánh dấu
một mốc quan trọng trong việc định hình và phát triển của bộ môn khoa học này.
Cuối năm 1983, Hội đồng Bộ trƣởng (nay là Chính phủ) đã ký Quyết định thành lập Viện
Xã hội học trên cơ sở Ban Xã hội học. Quyết định này có ý nghĩa quan trọng đối với những
ngƣời làm nghiên cứu Xã hội học. Bộ máy lãnh đạo, cơ cấu phòng và lực lƣợng nghiên cứu
đƣợc bổ sung sau khi thành lập viện. Do ở Việt Nam lúc đó chƣa có cơ sở đào tạo xã hội học
nên Viện Xã hội học tuyển chọn các sinh viên tốt nghiệp đại học, nhà nghiên cứu từ các
ngành khoa học tự nhiên và nhân văn vào làm công tác nghiên cứu. Đây cũng là một khó
khăn đặt lên vai lãnh đạo và các cán bộ nghiên cứu khi phải bắt đầu làm quen với ngành
khoa học mới mẻ này. Đầu thập niên 90 (thế kỷ XX), trƣớc nhu cầu cấp bách của xã hội
trong thời kỳ Đổi mới, Chính phủ đã quyết định thành lập nhiều cơ sở đào tạo chuyên ngành
xã hội học bậc đại học và sau đại học ở viện và trƣờng đại học khu vực nhà nƣớc1 (Cơ sở
đào tạo Sau đại học thuộc Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Khoa
Tâm lý học - Xã hội học ở Đại học Tổng hợp Hà Nội, Khoa Xã hội học ở Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh, Cơ sở đào tạo Sau đại học thuộc Viện Xã hội học, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Khoa Xã hội học ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền; Khoa Xã
hội học ở Đại học Công đoàn, v.v). Có thể nói, giai đoạn này đánh dấu sự mở rộng và lớn
mạnh của nền xã hội học Việt Nam với sự ra đời hàng loạt cơ sở nghiên cứu và đào tạo xã
hội học chuyên nghiệp, chủ yếu là trong các trƣờng đại học và các viện nghiên cứu ở Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh, việc ra đời các cơ sở này đã đóng góp thiết thực vào công tác
đào tạo các thế hệ sinh viên, học viên có kiến thức chuyên môn sâu về chuyên ngành xã hội
học ở Việt Nam2.
Trải qua hơn 40 năm xây dựng và phát triển, từng bƣớc khắc phục khó khăn, vừa làm vừa
học, các thế hệ tiền bối “thế hệ vàng3” đã không ngừng phấn đấu cho sự lớn mạnh của nền
xã hội học Việt Nam. Kết quả, xã hội học ở Việt Nam đã có nhiều nhà khoa học đầu ngành
về lĩnh vực lý thuyết xã hội học và chuyên ngành, nhƣ: Xã hội học An sinh xã hội, Xã hội
học Đô thị, Xã hội học Nông thôn, Xã hội học Gia đình, Xã hội học Dân số, Xã hội học Văn
hóa, Xã hội học Dƣ luận xã hội và Truyền thông đại chúng, Xã hội học Quản lý, Xã hội học
Tôn giáo, Xã hội học Giới, v.v Các nhà khoa học đầu đàn của xã hội học đã và đang có
đóng góp quan trọng vào công tác giảng dạy và nghiên cứu đề tài/ dự án trong nƣớc và quốc
tế. Thực tế hoạt động nghiên cứu xã hội học trong thời gian qua đƣợc phát triển không
1 Xã hội học khu vực nhà nƣớc đƣợc hiểu là các cơ sở nghiên cứu và đào tạo xã hội học thuộc nhà nƣớc, do (chính phủ
hoặc địa phƣơng) đầu tƣ về kinh phí và cơ sở vật chất (đất đai, nhà cửa) và hoạt động chủ yếu bằng kinh phí từ các
nguồn tài chính công.
2 Giới hạn xã hội học khu vực nhà nƣớc trong bài viết này quan tâm đến công tác đào tạo và nghiên cứu xã hội học ở các
trƣờng đại học và viện nghiên cứu của nhà nƣớc. Bài viết không bàn về “Xã hội học công” hay “Xã hội học công cộng”.
3 GS. TS Bùi Thế Cƣờng, Nguyên Viện trƣởng Viện KHXH vùng Nam Bộ đề cập cụm từ này trong bài viết “Có hay
không một thế hệ vàng của Viện Xã hội”, đƣợc in trong Kỷ yếu Viện Xã hội học 40 năm phát triển và hội nhập (1977-
2017). Nxb KHXH 2017.
HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”
17
ngừng với số lƣợng đề tài, dự án ở các cấp độ trong nƣớc và quốc tế gia tăng. Công tác đào
tạo cũng có sự phát triển nở rộ theo chiều rộng. Mỗi năm, các cơ sở đào tạo xã hội học đã
cung cấp một lực lƣợng nhân lực hùng hậu với hàng nghìn sinh viên, hàng trăm học viên cao
học và nghiên cứu sinh ngành xã hội học. Thông qua các dự án nghiên cứu và chƣơng trình
giảng dạy, các cán bộ đã xuất bản hàng trăm đầu sách và hàng nghìn bài báo, công trình
nghiên cứu khoa học; đề tài cấp Nhà nƣớc, cấp Bộ, dự án quốc tế đạt kết quả nhất định, đƣợc
ứng dụng vào công tác giảng dạy và hoạch định chính sách phát triển ở nƣớc ta. Có thể nói,
cở sở xã hội học khu vực nhà nƣớc đã và đang có đóng góp quan trọng trong việc cung cấp
nguồn nhân lực cho công cuộc đổi mới, phát triển đất nƣớc.
Tuy nhiên, nhìn lại chặng đƣờng phát triển của nền xã hội học ở Việt Nam, các cơ sở đào
tạo và nghiên cứu thuộc khu vực nhà nƣớc trong thời gian qua cũng không tránh khỏi hạn
chế; cơ hội và thách thức mới4 vẫn đang tiếp diễn đối với quá trình phát triển nền xã hội học
nƣớc ta, đặt ra nhiều câu hỏi cần nghiên cứu trả lời, nhƣ: trong hơn 40 năm qua các cơ sở xã
hội học khu vực nhà nƣớc đã đạt đƣợc những thành tựu gì trong bức tranh phát triển xã hội
học khu vực và thế giới? Cơ hội, bất cập và thách thức nào đang tiếp tục đặt ra đối với sự
phát triển nền xã hội học Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế? Dựa vào nguồn tài liệu
thứ cấp và quan sát của tác giả thu thập đƣợc, bài viết tổng quan phác thảo sơ lƣợc chặng
đƣờng phát triển của nền xã hội học ở Việt Nam trong suốt hơn bốn thập kỷ qua; phân tích
chỉ ra một số thành công, cơ hội và thách thức trong hoạt động nghiên cứu và đào tạo lĩnh
vực xã hội học ở Việt Nam thời gian qua; bài viết cũng đƣa ra một số bàn luận và khuyến
nghị giải pháp nhằm cải thiện nâng cao chất lƣợng đào tạo và nghiên cứu khoa học, góp
phần vào quá trình phát triển và sự thịnh vƣợng của nền xã hội học ở nƣớc ta trong bối cảnh
xã hội Việt Nam chuyển đổi và hội nhập quốc tế5.
2. Cơ hội, thách thức trong đào tạo và nghiên cứu khoa học ở các cơ sở xã hội học
khu vực nhà nƣớc
Cơ hội và thách thức trong hoạt động đào tạo xã hội học
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nƣớc ta rất chú trọng đến công tác đào tạo nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng giảng dạy, nghiên cứu cho cán bộ ở các viện nghiên
cứu chuyên ngành và các cơ sở đào tạo. Đào tạo nƣớc ngoài với các đề án nhƣ: Đề án 322,
Đề án 911, Đề án 165, và các đề án khác đƣợc ra đời nhằm tạo cơ hội cho các cán bộ giảng
dạy và nghiên cứu trẻ tham gia học tập nâng cao trình độ chuyên môn. Bên cạnh đó, bằng
các mối quan hệ độc lập, các viện và trƣờng cũng có nhiều chƣơng trình hợp tác song
4 Phát triển xã hội học trong khu vực nhà nƣớc ở bài viết này muốn nói đến sự đời và phát triển các cơ sở nghiên cứu và
giảng dạy xã hội học ở Việt Nam; số lƣợng các đề tài/ dự án nghiên cứu; số lƣợng ngƣời tốt nghiệp các bậc cử nhân,
thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành xã hội học. Còn thuật ngữ cơ hội trong phát triển xã hội học khu vực nhà nƣớc ở Việt Nam
đƣợc bài này đề cập đến những cơ hội tham gia đào tạo, tham gia các đề tài nghiên cứu; thách thức là những khó khăn
trong công tác đào tạo và nghiên cứu mà các cơ sở này đang phải đối diện, thách thức này có thề cản trở tiến trình phát
triển và hội nhập xã hội học Việt Nam.
5 Hạn chế nguồn dữ liệu bài viết quan tâm phân tích mang tính định tính về cơ hội và thách thức trong phát triển xã hội
học khu vực nhà nƣớc ở các viện nghiên cứu và trƣờng đào tạo chuyên ngành xã hội học.
HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”
18
phƣơng với các viện, trƣờng đại học nƣớc ngoài, trong đó có các học bổng ngắn và dài hạn
cho cán bộ trẻ tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn, thạc sĩ, tiến sĩ, sau tiến sĩ.
Công tác đào tạo chuyên ngành xã hội học ở trong nƣớc cũng đƣợc phát triển nở rộ với
việc Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo ký quyết định thành lập nhiều cơ sở đào tạo xã hội
học, có chức năng giảng dạy và cấp bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ xã hội học. Có thể nói, cơ
chế và môi trƣờng đào tạo đang tạo nhiều cơ hội tốt cho cán bộ, ngƣời học nâng cao trình độ
kiến thức và hiểu biết về tri thức xã hội học, nhằm nhanh chóng phát triển ngành xã hội học
và đóng góp thiết thực vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
Tuy nhiên, những bất cập và thách thức trong hoạt động đào tạo ở các viện nghiên cứu và
các trƣờng đại học ở nƣớc ta vẫn đang tiếp tục đặt ra đối với ngành xã hội học; chẳng hạn
nhƣ tình trạng cán bộ không nỗ lực quyết tâm tham gia khai thác các cơ hội đào tạo trong và
ngoài nƣớc để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiên cứu, kỹ năng tin học, ngoại
ngữ và điều này có thể dẫn đến nguy cơ tụt hậu về chuyên môn xã hội học của thế hệ trẻ so
với thế hệ trƣớc; tình trạng cán bộ đƣợc cử đi đào tạo trong và ngoài nƣớc nhƣng khi hoàn
thành khóa học không về nƣớc hoặc trở về thì xin chuyển ra bên ngoài làm việc cho các tổ
chức NGO, tổ chức quốc tế. Đây cũng đƣợc xem là vấn đề chảy máu chất xám diễn ra ở các
cơ sở nghiên cứu và đào tạo xã hội học khu vực nhà nƣớc.
Liên quan đến tình hình đào tạo ở các cơ sở xã hội học khu vực nhà nƣớc, một số bất cập
và thách thức đang đặt ra hiện nay là chất lƣợng đào tạo không đƣợc nhƣ mong muốn. Tình
trạng sinh viên, học viên sau đại học ít hứng thú với bài giảng, thiếu tích cực trong việc tra
cứu đọc các tài liệu trong và ngoài nƣớc có liên quan đến môn học, số môn học và chƣơng
trình đạo tạo môn học chƣa hợp lý, v.v... Thực tế này phần nào ảnh hƣởng đến kiến thức
chuyên ngành của ngƣời học bị thiếu hút nghiêm trọng. Hệ quả này tất yếu dẫn đến sinh
viên, học viên sau đại học lúng túng, gặp khó khăn trong thiết kế đề cƣơng nghiên cứu, triển
khai điền dã thu thập thông tin, xử lý số liệu và viết khóa luận, luận văn, luận án tốt nghiệp.
Cũng liên quan đến bất cập về chất lƣợng đào tạo hiện nay là ngƣời học tốt nghiệp về công
tác tại viện, trƣờng hay cơ quan bên ngoài gặp nhiều khó khăn với công việc đƣợc giao.
Thực tế nhiều sinh viên khi tốt nghiệp đại học ra trƣờng về một đơn vị công tác đều cho biết
những điều họ học trong trƣờng khác nhiều với thực tế, nhất là đối với cơ quan nghiên cứu.
Khi mới vào nghề, hầu hết họ đều thiếu hiểu biết về quy trình nghiên cứu và kỹ năng cần
thiết để triển khai một nghiên cứu. Bên cạnh đó, vẫn còn hạn chế về trình độ công nghệ
thông tin, khả năng ngoại ngữ, kỹ năng mềm, v.v.. phần nào dẫn khó khăn khi tham gia hoạt
động nghiên cứu. Một bất cập nữa là tình trạng ngƣời học xã hội học khi ra trƣờng khó xin
việc, hiện tƣợng không ít trƣờng hợp sinh viên phải “treo bằng xã hội học”, làm trái ngành
nghề đào tạo, thậm chí làm công nhân lao động hoặc đi xuất khẩu lao động.
Có thể khẳng định hoạt động xã hội học trong khu vực nhà nƣớc đã cung cấp lƣợng nhân
lực khoa học hùng hậu cho ngành xã hội học, khoa học xã hội và cho các lĩnh vực phát triển
của đất nƣớc. Hiện nay, nếu thống kê cơ cấu tuổi của nhân lực đƣợc đào tạo xã hội học ở các
cơ sở đào tạo thì có thể sẽ cho thấy bức tranh đậm nét về nhân lực trẻ, trình độ chuyên môn,
HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”
19
bằng cấp cao gia tăng. Tuy nhiên, vấn đề gây quan ngại nhất là chất lƣợng đào tạo ở nhiều
cơ sở đào tạo thời gian vừa qua là chƣa đƣợc nhƣ mong đợi của xã hội, hiện tƣợng đào tạo
chạy theo số lƣợng hơn là chất lƣợng. Thực tế có thể làm suy giảm niềm tin xã hội và uy tín
của ngành xã hội học Việt Nam, và hơn thế nữa ảnh hƣởng đến năng lực cạnh tranh trong
đào tạo xã hội học ở khu vực nhà nƣớc so với cơ sở đào tạo xã hội học khu vực tƣ, năng lực
cạnh tranh trong đào tạo với các trƣờng đào tạo xã hội học trong khu vực và thế giới.
Cơ hội và thách thức trong hoạt động nghiên cứu xã hội học
Đƣợc sự quan tâm của Chính phủ, các bộ ngành và nhu cầu của các địa phƣơng, các tổ
chức phi chính phủ và tổ chức quốc tế, hoạt động nghiên cứu và tƣ vấn xã hội học cũng có
sự phát triển nở rộ trong thời gian qua. Cho đến nay ngành xã hội học đã có nhiều đề tài cấp
nhà nƣớc, đề tài cấp bộ, cấp địa phƣơng, cấp cơ sở đã đƣợc các thế hệ cán bộ nghiên cứu và
giảng dạy thực hiện bằng nguồn ngân sách của Chính phủ, địa phƣơng. Kết quả các đề tài
nghiên cứu này đã có đóng góp khoa học trong việc phát hiện và lý giải thấu đáo quy luật
mối quan hệ xã hội nảy sinh trong đời sống xã hội, là cơ sở cho việc hoạch định đƣờng lối
của Đảng, xây dựng chính sách phát triển của Nhà nƣớc và các địa phƣơng. Kết quả quá
trình thực hiện một chuỗi các đề tài cũng đóng góp quan trọng vào công tác đào tạo cán bộ,
nhất là cán bộ trẻ ở các cơ sở nghiên cứu và giảng dạy xã hội học. Sản phẩm của các đề tài
cũng đƣợc xuất bản, bao gồm sách chuyên khảo, bài báo công trình khoa học, là nguồn tài
liệu tham khảo bổ ích cho sinh viên, học viên sau đại học, giới nghiên cứu và quản lý xã hội.
Các đề tài/ dự án nghiên cứu, tƣ vấn hợp tác với các viện, trƣờng, tổ chức quốc tế cũng
phát triển mạnh, đa dạng về cấp độ và quy mô hợp tác nghiên cứu trong những thập niên vừa
qua. Có thể thấy trong những thập niên vừa qua các cơ sở nghiên cứu và đào tạo xã hội khu
vực nhà nƣớc ở Việt Nam đã thực hiện nhiều đề tài/ dự án nghiên cứu hợp tác với các viện
nghiên cứu, trƣờng đại học có uy tín trên thế giới, hợp tác với các tổ chức quốc tế có quy mô
hoạt động toàn cầu nhƣ: UNDP, WB, UNFPA, JICA, ADB, HAI, và nhiều tổ chức quốc tế,
tổ chức phi chính phủ (NGO), v.v Các mối quan hệ hợp tác nghiên cứu này không chỉ có
ý nghĩa trong việc mở rộng đề tài nghiên cứu, tƣ vấn phát triển xã hội, đóng góp khuyến
nghị khoa học có giá trị đối với chính sách hỗ trợ phát triển của các tổ chức quốc tế cho Việt
Nam; bổ sung nguồn dữ liệu tham khảo hữu ích cho Chính phủ, bộ ngành và các địa phƣơng
trong quá trình phát triển; nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng tƣ vấn về phát triển xã
hội, phát triển cộng đồng cho cán bộ; nâng cao vị thế của các cơ sở xã hội học ở Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tế phát triển xã hội học trong khu vực nhà nƣớc thời gian qua còn tồn tại
nhiều bất cập và thách thức, kể cả thách thức vừa mới nảy sinh gần đây. Tình trạng một số
đề tài kết quả nghiên cứu tốt, có phát hiện khoa học và hàm ý chính sách nhƣng chƣa đƣợc
xã hội đón nhận sử dụng vào thực tiễn đời sống xã hội, v.v Ở phần trên vừa cho thấy các
cơ sở đào tạo và nghiên cứu xã hội học công thời gian qua đã thực hiện nhiều hệ đề tài trong
và ngoài nƣớc, nhƣng theo đánh giá của một số chuyên gia thì phần lớn đề tài đạt chất lƣợng
chuyên môn chƣa đƣợc nhƣ kỳ vọng, cho dù đề tài/ dự án đã nỗ lực công bố sản phẩm sách
và bài tạp chí đƣợc xuất bản ở trong nƣớc. Điểm hạn chế nổi bật là kết quả đề tài thiếu đóng
HỘI THẢO KHOA HỌC “PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC CÔNG Ở VIỆT NAM”
20
góp lý luận và phƣơng pháp cho sự phát triển tri thức chuyên ngành xã hội học; các phát
hiện và khuyến nghị khoa học của đề tài thiếu tính khả thi, ứng dụng trong thực tiễn quản lý
phát triển xã hội ở Việt Nam. Nguyên nhân của thực tế này có thể xuất phát từ các giả định
khác nhau: do hạn chế trong thiết kế đề cƣơng nghiên cứu, quy trình khảo sát theo phƣơng
pháp xã hội học chƣa tốt, chƣa biết kết hợp phƣơng pháp liên ngành, xuyên ngành trong
nghiên cứu; xử lý và phân tích các dữ liệu khảo sát thực nghiệm theo kinh nghiệm, không
vận dụng triệt để tính ƣu việt của phƣơng pháp và lý thuyết xã hội học, vấn đề tuyển chọn và
xét duyệt các đề tài/ dự án nghiên cứu, v.v
3. Bàn luận
Một vài phân tích trên đã phác thảo sơ bộ về quá trình hình thành và phát triển của nền xã
hội học ở Việt Nam hơn 40 năm qua. Mặc dù là chuyên ngành khoa học ra đời muộn hơn so
với các chuyên ngành khoa học xã hội khác, nhƣng các cơ sở nghiên cứu và đào tạo xã hội
học khu vực nhà nƣớc nhanh chóng trƣởng thành khẳng định vị thế quan trọng trong giới
khoa học xã hội trong nƣớc và khu vực. Xã hội học Việt Nam khi mới ra đời với vỏn vẹn 10
cán bộ thì đến nay nền xã hội học này đã có một lực lƣợng đông đảo cán bộ nghiên cứu,
giảng dạy ở các cơ sở nghiên cứu và đào tạo, và nhiều cán bộ có chuyên môn xã hội học
đang công tác ở các bộ ngành, địa phƣơng và các tổ chức NGO, tổ chức quốc tế.
Hoạt động đào tạo ở các cơ sở xã hội học khu vực nhà nƣớc trong những thập niên vừa
qua đã đạt đƣợc những thành quả quan trọng. Nhiều lƣợt cán bộ nghiên cứu và giảng dạy đã
khai thác triệt để các chƣơng trình học bổng trong và ngoài nƣớc để tham gia các khóa đào
tạo thạc sĩ, tiến sĩ, sau tiến sĩ. Kết thúc khóa học trở về cơ quan, có những đóng góp quan
trọng đối với công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, hoạt động nghiên cứu,
tƣ vấn xã hội học cũng đã khai thác tốt các đề tài, dự án đƣợc đặt hàng từ Chính phủ, các bộ
ngành, địa phƣơng, các viện nghiên cứu, đại học nƣớc ngoài và các tổ chức NGO, tổ chức
quốc tế. Kết quả các công trình nghiên cứu, tƣ vấn đã có một số đóng góp tham mƣu cho
Đảng và Nhà nƣớc ta hoạch định, xây dựng mô hình quản lý phát triển xã hội bền vững;
nghiên cứu tƣ vấn đã giúp nhiều địa phƣơng định hƣớng quy hoạch hƣớng đến phát triển hài
hóa; nghiên cứu tƣ vấn gợi ý cho các tổ chức quốc tế có định hƣớng chính sách hỗ trợ phát
triển bao trùm. Kết quả nhiều đề tài nghiên cứu đƣợc chắt lọc, xuất bản phẩm là tài liệu t