Tóm tắt. Phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng ở các trường mầm non thành phố
Hà Nội đã được làm thường xuyên và có hiệu quả. Phối hợp nhà trường với gia đình tốt hơn
với cộng đồng nhưng chênh lệch không nhiều. Bên cạnh những thuận lợi như nhận thức
của gia đình và cộng đồng về tầm quan trọng của giáo dục mầm non tăng lên, có nhiều tài
liệu và phương tiện phổ biến kiến thức chăm sóc - giáo dục trẻ, giáo viên yêu nghề, mến
trẻ. . . thì vẫn còn những khó khăn như cha mẹ ít thời gian quan tâm đến con, một số tổ
chức, đoàn thể phối hợp chưa thường xuyên, công tác tuyên truyền chưa thật tốt, kinh phí
hạn hẹp, số trẻ đông.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 190 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng ở các trường mầm non thành phố Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0013
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 1, pp. 103-111
This paper is available online at
PHỐI HỢP NHÀ TRƯỜNG VỚI GIA ĐÌNH VÀ CỘNG ĐỒNG
Ở CÁC TRƯỜNGMẦM NON THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Nguyễn Thị Như Mai
Khoa Giáo dục Mầm non, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng ở các trường mầm non thành phố
Hà Nội đã được làm thường xuyên và có hiệu quả. Phối hợp nhà trường với gia đình tốt hơn
với cộng đồng nhưng chênh lệch không nhiều. Bên cạnh những thuận lợi như nhận thức
của gia đình và cộng đồng về tầm quan trọng của giáo dục mầm non tăng lên, có nhiều tài
liệu và phương tiện phổ biến kiến thức chăm sóc - giáo dục trẻ, giáo viên yêu nghề, mến
trẻ. . . thì vẫn còn những khó khăn như cha mẹ ít thời gian quan tâm đến con, một số tổ
chức, đoàn thể phối hợp chưa thường xuyên, công tác tuyên truyền chưa thật tốt, kinh phí
hạn hẹp, số trẻ đông.
Từ khóa: Trường mầm non, phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng, thành phố
Hà Nội.
1. Mở đầu
Giáo dục trẻ em không chỉ là nhiệm vụ của nhà trường. Để các em trở thành một công dân
tốt, có ích, rất cần thiết phải phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng trong giáo dục trẻ.
Phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng trong giáo dục từ lâu đã được quan tâm.
Làm sao để gia đình và cộng đồng cùng chung tay với nhà trường nâng cao hiệu quả giáo dục trẻ?
Nhiều nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam đã được tiến hành, có thể tóm tắt thành các hướng
chính sau:
Nghiên cứu cơ sở lí luận của sự phối hợp: H. Kirschenbaum, A. Henward, K.Ratliffe (Mỹ),
J.-C. Bareau (Pháp), M.-C.Andres (Thụy Sĩ), J.-C Kalubi (Canada). . . [5, 6].
Nghiên cứu các cách thức phối hợp để nâng cao hiệu quả giáo dục: M.Warner
(Mỹ), F.Beauregard, C.Marchand (Canada), J.L.Auduc (Pháp), Phạm Thị Tâm, Trần Thị Bích
Trà. . . [3, 5].
Nghiên cứu làm rõ hiệu quả của sự phối hợp: S.J.Larivee, F.Beauregard (Canada), P.Stein,
H. Kirschenbaum (Mỹ), M.-C.Rolland, (Pháp). . . [6].
Những nghiên cứu này làm nền móng và củng cố việc phối hợp giữa ba lực lượng giáo dục
trở thành những quy định có tính pháp lí ở nhiều quốc gia.
Thấy được tầm quan trọng của sự phối hợp, Luật Giáo dục Việt Nam, điều 12, đã quy định:
“Mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà
Ngày nhận bài: 15/6/2014. Ngày nhận đăng: 10/2/2015.
Liên hệ: Nguyễn Thị Như Mai, e-mail: nhumai0907@yahoo.ca
103
Nguyễn Thị Như Mai
trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn” [1].Từ
lâu giáo dục Việt Nam đã thực hiện phối hợp và ngày càng thấy cần thiết phải tăng cường. “Chỉ thị
về Tăng cường phối hợp nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác giáo dục trẻ em, học sinh và
sinh viên.” được Bộ Giáo dục và Đào tạo kí ngày 23/12/2008 [2] đã thể hiện rõ điều đó.
Giáo dục Mầm non Việt Nam đã thực hiện kết hợp nhà trường - gia đình - cộng đồng và thu
được nhiều kết quả. Thành phố Hà Nội là nơi giáo dục mầm non được các tầng lớp xã hội quan
tâm, đã thực hiện việc phối hợp này trong nhiều năm qua. Để thấy rõ hơn thực tế phối hợp, nghiên
cứu được thực hiện trên các giáo viên mầm non, những người trực tiếp thực hiện kết nối giữa nhà
trường với gia đình và cộng đồng trong chăm sóc - giáo dục trẻ.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Quan niệm về phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng trong chăm
sóc - giáo dục trẻ em
“Phối hợp” được hiểu là sự liên kết những yếu tố khác nhau một cách chặt chẽ để tạo nên
một chỉnh thể đồng bộ và hài hòa nhằm đạt được một kết quả xác định.
Với ý nghĩa này, phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng trong chăm sóc - giáo dục
(CS - GD) trẻ em là sự liên kết chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và cộng đồng để tạo nên lực
lượng giáo dục rộng lớn, hoạt động đồng bộ nhằm giúp cho công tác chăm sóc - giáo dục trẻ em
đạt được hiệu quả cao nhất.
Hiểu đơn giản hơn, phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng trong chăm sóc - giáo
dục trẻ là việc gia đình và xã hội cùng tham gia với nhà trường chăm sóc - giáo dục trẻ em để công
việc này có kết quả tốt [4].
2.2. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng ở các
trường mầm non thành phố Hà Nội.
- Khách thể khảo sát: Điều tra, khảo sát 132 giáo viên ở 98 trường mầm non công lập và
tư thục thuộc các quận và huyện của thành phố Hà Nội (Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà
Trưng, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Hoàng Mai, Hà Đông, Bắc Từ Liêm, Nam Từ Liêm, Thanh
Trì, Đông Anh, Chương Mỹ, Đan Phượng, Mỹ Đức, Quốc Oai, Sóc Sơn, Phúc Thọ). Các giáo viên
này đã làm việc từ 1,5 năm đến 23 năm và có một số người làm công tác quản lí nhà trường.
- Thời gian khảo sát: Tháng 3 đến tháng 6 năm 2014.
2.3. Kết quả nghiên cứu
Ý kiến của giáo viên về thực trạng phối hợp được phân thành 4 mức:
- Rất thường xuyên/ Rất hiệu quả/ Tốt.
- Thường xuyên/Hiệu quả/Khá.
- Ít thường xuyên/Ít hiệu quả/Trung bình.
- Không thường xuyên/Không hiệu quả/Yếu.
Quy ước về cách xác định mức độ đánh giá theo thang điểm trung bình (TB) khảo sát:
- Từ trên 3 đến 4: Rất thường xuyên/ Rất hiệu quả/ Tốt.
104
Phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng ở các trường mầm non thành phố Hà Nội
- Từ trên 2 đến 3: Thường xuyên/Hiệu quả/Khá.
- Từ trên 1 đến 2: Ít thường xuyên/Ít hiệu quả/Trung bình.
- Điểm 1: Không thường xuyên/Không hiệu quả/Yếu.
2.3.1. Nhận thức về sự cần thiết của việc phối hợp giữa nhà trường với gia đình và cộng
đồng
Điều tra về nhận thức của giáo viên về sự cần thiết của việc phối hợp giữa nhà trường với
gia đình và cộng đồng thu được kết quả:
Hầu hết giáo viên mầm non đều thấy Rất cần thiết (91,7%) phải phối hợp giữa nhà trường
với gia đình và cộng đồng trong chăm sóc - giáo dục trẻ. Không có giáo viên nào thấy Không cần
thiết. Nhận thức tốt về sự cần thiết của hoạt động này là cơ sở để giáo viên thực hiện các công việc
phối hợp tích cực và hiệu quả.
2.3.2. Thực trạng phối hợp giữa nhà trường và gia đình
a/. Về nội dung phối hợp giữa trường mầm non và gia đình.
Phối hợp giữa trường MN với gia đình được thực hiện ở nhiều nội dung khác nhau và tiến
hành trong suốt năm học. Kết quả điều tra thể hiện ở Bảng 1.
Bảng 1: Mức độ thực hiện và hiệu quả
của các nội dung phối hợp giữa trường MN với gia đình
STT Nội dung phối hợp
Mức độ thực hiện Mức độ hiệu quả
TB Thứ bậc TB Thứ bậc
Nội dung phối hợp giữa trường MN
và gia đình 2,85 2,84
1 Phối hợp thực hiện chương trình chăm
sóc, bảo vệ sức khỏe cho trẻ:
3,12 1 2,97 1
2 Phối hợp thực hiện chương trình giáo
dục trẻ:
2,89 2 2,84 2
3
Phối hợp kiểm tra, đánh giá công tác
CS – GD trẻ:
2,8 3 2,84 2
4 Tham gia xây dựng cơ sở vật chất: 2,58 4 2,71 4
Số liệu cho thấy: Nhìn chung, sự phối hợp nhà trường với gia đình là Thường xuyên và Hiệu
quả (Điểm TB: 2,85 và 2,84), thứ bậc lần lượt là:
1- Phối hợp thực hiện chương trình chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho trẻ
2- Phối hợp thực hiện chương trình giáo dục trẻ.
3- Phối hợp kiểm tra, đánh giá công tác CS – GD trẻ.
4- Tham gia xây dựng cơ sở vật chất.
Trong 4 nội dung trên, nội dung phối hợp nhà trường với gia đình để “Tạo môi trường an
toàn về tình cảm” cho trẻ (thuộc nội dung 2) được thực hiện thường xuyên nhất và có hiệu quả nhất
(Rất thường xuyên và Rất hiệu quả: Điểm TB: 3,26; 3,19 ). Gia đình tham gia đóng góp hiện vật
cho nhóm, lớp, trường mầm non (thuộc nội dung 4) ở mức thường xuyên nhưng thấp hơn các nội
dung khác (Điểm TB: 2,42). Gia đình cũng tham gia đóng góp ý kiến có hiệu quả với nhà trường
105
Nguyễn Thị Như Mai
về chương trình và phương pháp chăm sóc - giáo dục trẻ (thuộc nội dung 3) nhưng mức độ hiệu
quả ít hơn các nội dung khác (ĐiểmTB: 2,54).
b/. Về hình thức phối hợp của trường mầm non với gia đình.
Các hình thức phối hợp giữa trường MN và gia đình cũng được sử dụng thường xuyên và
hiệu quả. Kết quả thể hiện ở Bảng 2.
Bảng 2. Mức độ thực hiện và hiệu quả
của các hình thức phối hợp giữa trường MN với gia đình
STT Nội dung
Mức độ thực hiện Mức độ hiệu quả
TB Thứ bậc TB Thứ bậc
Hình thức phối hợp giữa trường MN
và gia đình 2,65 2,71
1
Qua bảng thông báo hoặc qua góc
“Tuyên truyền cho cha mẹ”. 3,45 2 3,31 3
2 Trao đổi thường xuyên, hàng ngày
trong các giờ đón, trả trẻ.
3,55 1 3,51 1
3 Tổ chức họp phụ huynh định kì. 3,33 3 3,32 2
4
Tổ chức những buổi sinh hoạt, phổ biến
kiến thức CS-GD trẻ. 2,27 7 2,42 7
5
Thông qua các đợt kiểm tra sức khỏe
của trẻ. 2,87 4 2,99 4
6
Thông qua các hội thi, văn hóa văn
nghệ.
2,84 5 2,90 5
7 Đến thăm trẻ tại nhà. 1,80 10 2,06 8
8 Hòm thư cha mẹ. 1,88 9 2,05 9
9
Phụ huynh tham quan hoạt động của
trường MN. 2,35 6 2,50 6
10
Thông qua đài truyền hình, truyền
thanh. . . 2,16 8 2,0 10
Các giáo viên MN sử dụng thường xuyên nhất và hiệu quả nhất hình thức “Trao đổi thường
xuyên, hàng ngày với gia đình của trẻ trong các giờ đón, trả” các em. “Đến thăm trẻ tại nhà” ít
được thực hiện nhất. Trao đổi với giáo viên các cô cho biết chỉ đến thăm được tại nhà những trẻ có
hoàn cảnh hoặc yêu cầu đặc biệt.
Hình thức phối hợp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài truyền hình,
truyền thanh. . . hiệu quả không bằng các hình thức khác.
c/.Về công việc mà các giáo viên mầm non đã làm để thu hút sự tham gia, phối hợp của phụ
huynh.
Các giáo viên MN đã làm nhiều việc để thu hút sự tham gia, phối hợp của cha mẹ và gia
đình của trẻ đối với công tác chăm sóc- giáo dục các em với mức độ Rất thường xuyên và Thường
xuyên. Hiệu quả các việc làm này ở mức Rất hiệu quả và Hiệu quả.
Thường xuyên và hiệu quả nhất là “Lắng nghe ý kiến của cha mẹ trẻ, chủ động xây dựng
mối quan hệ tốt với phụ huynh”, “Có nhận xét, đánh giá về công tác phối hợp với gia đình trong
CS-GD trẻ” mặc dù vẫn được giáo viên làm thường xuyên và có hiệu quả nhưng ít hơn.
106
Phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng ở các trường mầm non thành phố Hà Nội
Bảng 3. Mức độ thực hiện và hiệu quả của các công việc
giáo viên MN đã làm để thu hút sự tham gia, phối hợp của phụ huynh
STT Nội dung
Mức độ thực hiện Mức độ hiệu quả
TB Thứ bậc TB Thứ bậc
1
Lắng nghe ý kiến của cha mẹ trẻ, chủ
động xây dựng mối quan hệ tốt với phụ
huynh.
3,33 1 3,30 1
2
Sẵn sàng tư vấn và giúp đỡ các kiến
thức CS-GD trẻ khi gia đình có yêu cầu.
3,10 5 3,20 3
3
Thông tin đầy đủ cho cha mẹ trẻ về
chương trình CS-GD trẻ em ở trường,
nhóm bằng các hình thức khác nhau
3,18 2 3,04 5
4
Trao đổi cụ thể chế độ sinh hoạt của
trẻ ở trường, nắm bắt các thông tin, đặc
điểm của trẻ, cho bố mẹ làm quen trẻ
với cô giáo và các bạn.
3,12 4 3,24 2
5
Liên lạc thường xuyên với gia đình để
kịp thời có những biện pháp CS-GD
phù hợp.
3,06 6 3,02 6
6
Thống nhất với cha mẹ về nội quy, các
hình thức và biện pháp phối hợp giữa
phụ huynh và nhà trường.
3,18 2 3,09 4
7
Căn cứ vào điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể từng gia đình để có hình thức phối
hợp phù hợp và hiệu quả.
2,81 7 2,81 7
8 Đưa nội dung phối hợp, yêu cầu phối
hợp cụ thể vào kế hoạch tuần, tháng.
2,88 8 2,78 8
9
Có nhận xét, đánh giá về công tác
phối hợp với gia đình trong CS-GD trẻ
(những gì đã thực hiện và còn tồn tại,
hướng giải quyết?. . . )
2,74 9 2,76 9
Như vậy, có nhận xét chung: Việc phối hợp giữa trường MN với gia đình được làm thường
xuyên và có hiệu quả. Giáo viên MN đã có nhiều nỗ lực thực hiện các công việc để thu hút gia
đình cùng chăm sóc- giáo dục trẻ.
2.3.3. Thực trạng phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng
a/. Về nội dung phối hợp giữa trường mầm non với cộng đồng
Không chỉ thu hút sự tham gia của gia đình vào quá trình chăm sóc - giáo dục trẻ, các trường
mầm non của thành phố Hà Nội còn tích cực phối hợp với cộng đồng.
107
Nguyễn Thị Như Mai
Bảng 4. Mức độ thực hiện và hiệu quả
của các nội dung phối hợp giữa trường MN với cộng đồng
STT Nội dung
Mức độ thực hiện Mức độ hiệu quả
TB Thứ bậc TB Thứ bậc
Nội dung phối hợp giữa trường MN
với cộng đồng 2,09 2,19
1 Phối hợp với chính quyền địa phương. 3,18 1 2,31 3
2 Phối hợp với Hội phụ nữ. 2,24 5 2,21 5
3 Phối hợp với các cơ sở y tế. 2,95 2 2,94 1
4 Phối hợp với Ban dân số - gia đình vàtrẻ em. 2,32 4 2,31 3
5 Phối hợp với Đoàn thanh niên. 2,59 3 2,57 2
6 Phối hợp với Hội nông dân. 1,80 6 1,79 6
7
Phối hợp với Hội chữ thập đỏ, Hội cựu
chiến binh, Hội người cao tuổi. . .
1,64 8 1,62 8
8 Phối hợp với những tổ chức, cơ sở khác 1,74 7 1,79 6
Nhìn chung các trường mầm non Hà Nội phối hợp Thường xuyên và Hiệu quả với cộng
đồng, tuy vậy so với phối hợp với gia đình thì không bằng: điểm TB thấp hơn lần lượt là 0,76 và
0,65 về sự thường xuyên và hiệu quả.
Trong 8 nội dung phối hợp chính, phối hợp với chính quyền địa phương được làm thường
xuyên nhất nhưng hiệu quả thứ 3. Phối hợp với các cơ sở y tế có hiệu quả cao nhất. Phối hợp với
Hội chữ thập đỏ, Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi. . . ít được làm hơn cả và hiệu quả cũng ít
nhất (điểm TB: 1,64 và 1,62).
Những tổ chức, cơ sở khác mà trường mầm non cũng có phối hợp là:
- Cụm dân cư phường.
- An ninh trật tự địa phương.
- Tổ chức từ thiện.
- Khoa Giáo dục Đặc biệt, trường ĐHSP Hà Nội.
- Chuyên gia tư vấn giáo dục mầm non.
- Làng trẻ SOS.
- Các “Mái ấm tình thương”.
- Các cơ sở sản xuất, Hội làng nghề xã.
- Cơ sở trang thiết bị đồ dùng đồ chơi cho trẻ mầm non.
- Cơ sở kinh doanh thực phẩm sạch.
- Các hãng sữa.
b/. Về hình thức phối hợp giữa trường mầm non với cộng đồng.
Kết quả thể hiện ở Bảng 5.
108
Phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng ở các trường mầm non thành phố Hà Nội
Bảng 5. Mức độ thực hiện và hiệu quả
của các hình thức phối hợp giữa trường MN với cộng
STT Nội dung
Mức độ thực hiện Mức độ hiệu quả
TB Thứ bậc TB Thứ bậc
Hình thức phối hợp giữa trường MN
với cộng đồng 2,41 2,41
1
Thông qua các đại hội, hội nghị, các
cuộc họp thường kì của địa phương mà
nhà trường được tham gia.
2,44 4 2,41 4
Qua các góc tuyên truyền cho cha mẹ
của trường MN.
3,08 2 3,12 2
3 Qua các buổi họp phụ huynh. 3,20 1 3,23 1
4
Thông qua các phương tiện truyền
thông đại chúng: đài phát thanh, truyền
hình, sách, báo. . .
2,36 5 2,40 5
5 Qua các buổi họp của Hội phụ nữ. 2,0 6 1,91 6
6 Qua các buổi họp của tổ dân phố,
phường, xã, thôn, xóm. . .
1,95 7 1,83 7
7 Tổ chức các hội thi. 2,70 3 2,74 3
8 Thành lập các câu lạc bộ tư vấn về
CS-GD trẻ thơ.
1,54 8 1,60 8
Mức độ thực hiện tương đương với mức độ hiệu quả. Hình thức Rất thường xuyên và Rất
hiệu quả là “Qua các buổi họp phụ huynh”, đứng đầu trong các hình thức phối hợp. “Thành lập
các câu lạc bộ tư vấn về CS-GD trẻ thơ” ít thường xuyên và ít hiệu quả nhất.
Như vậy, phối hợp trường mầm non với cộng đồng ở thành phố Hà Nội cũng diễn ra thường
xuyên và có hiệu quả. Tuy vậy, có sự khác biệt nhất định với phối hợp nhà trường và gia đình.
2.3.4. So sánh mức độ thực hiện và mức độ hiệu quả của phối hợp trường MN với gia đình
và cộng đồng
So sánh kết quả ở Bảng 1 và 2; 4 và 5 cho thấy có sự khác biệt trong phối hợp giữa trường
mầm non với gia đình và trường mầm non với cộng đồng. Phối hợp giữa nhà trường và gia đình
thường xuyên và hiệu quả hơn phối hợp giữa nhà trường với cộng đồng cả về hình thức và nội
dung, nhưng chênh lệch không nhiều. Độ chênh về nội dung phối hợp cao hơn về hình thức phối
hợp.
2.3.5. Đánh giá chung về thực trạng phối hợp giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng trong
chăm sóc - giáo dục trẻ hiện nay
Đánh giá chung của giáo viên về thực trạng phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng
là Thường xuyên và đạt kết quả Khá. Tuy nhiên, điểm trung bình phối hợp nhà trường với gia đình
cao hơn cho thấy sự kết hợp chặt chẽ và có kết quả hơn. Cụ thể: Phối hợp trường mầm non với
gia đình: điểm trung bình mức độ thực hiện 2,75; điểm trung bình mức độ kết quả: 2,92. Phối hợp
trường mầm non với cộng đồng: điểm trung bình lần lượt là: 2,25 và 2,26.
109
Nguyễn Thị Như Mai
2.3.6. Những thuận lợi và khó khăn trong phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng
Trong quá trình thực hiện phối hợp giữa nhà trường với gia đình và cộng đồng giáo viên
thấy có những thuận lợi và khó khăn chính sau đây:
Thuận lợi:
- Nhận thức của gia đình và cộng đồng về giáo dục mầm non đã có chuyển biến tích cực
trong thời gian gần đây. Gia đình thường xuyên tham gia đóng góp ý kiến với nhà trường về chương
trình chăm sóc- giáo dục trẻ. Nhà trường thường xuyên tổ chức các buổi trao đổi về tình hình chăm
sóc- giáo dục trẻ với phụ huynh để từ đó phối hợp cùng đạt hiệu quả cao.
- Gia đình và các cơ quan, tổ chức trên địa bàn tham gia xây dựng, ủng hộ cơ sở vật chất
cho trường lớp.
- Nhà trường làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, tạo điều kiện cho giáo viên trong quá
trình phối hợp. Giáo viên có hiểu biết, nhiệt tình và tâm huyết với trẻ, được nhà trường chú ý bồi
dưỡng chuyên môn.
- Phương tiện thông tin đại chúng ngày càng hiện đại. Internet, facebook giúp mối liên hệ
nhà trường - gia đình - cộng đồng lan rộng, tin tưởng hơn. Có tài liệu, kiến thức về công tác chăm
sóc - giáo dục trẻ.
- Điều kiện sống tốt hơn, nhiều gia đình, tổ chức (tổ dân phố, Hội phụ nữ, Hội chữ thập đỏ,
Hội cựu chiến binh) chú ý đến việc chăm sóc – giáo dục trẻ. Gia đình và cộng đồng tạo điều kiện
để trường mầm non tổ chức các hoạt động cho trẻ.
- Nhà trường nắm bắt kịp thời những thông tin của nhà nước, địa phương đưa ra về chăm
sóc - giáo dục trẻ.
Khó khăn:
- Nhà trường chưa nhận được sự quan tâm sát sao của chính quyền địa phương. Có tổ chức,
đoàn thể ở địa phương chưa chú trọng đúng mức đến công tác chăm sóc - giáo dục trẻ. Công tác
tuyên truyền qua đài và truyền hình địa phương chưa thường xuyên.
- Một số giáo viên, người quản lí chưa có kinh nghiệm và kiến thức sâu sắc để làm tốt công
tác phối hợp. Cộng đồng còn tạo nhiều áp lực với giáo viên mầm non.
- Phụ huynh ít thời gian tham gia các hoạt động cùng với con ở trường; nhiều người chưa
thực sự quan tâm đến phối hợp chăm sóc - giáo dục trẻ. Gia đình có tâm lí ỷ lại giáo viên, ít hoặc
không hướng dẫn trẻ thêm khi ở nhà. Một số cha mẹ không thống nhất quan điểm với nhà trường
nên dễ xảy ra mâu thuẫn khi phối hợp. Phụ huynh bao bọc con quá mức.
- Kinh tế một số địa phương ngoại thành khó khăn nên kinh phí hạn hẹp, ảnh hưởng đến
công tác phối hợp. Ở vùng nông thôn ngoại thành, người dân làm nghề nông, hiểu biết còn hạn
chế, bậc học mầm non chưa được quan tâm thích đáng.
- Số lượng trẻ ở trường mầm non nội thành đông, làm hạn chế thời gian thực hiện phối hợp.
- Còn nhiều trường sính thành tích, sợ lộ mặt yếu kém nên chưa tích cực phối hợp.
2.3.7. Một số đề xuất của giáo viên mầm non giúp nâng cao hiệu quả phối hợp nhà trường
- gia đình - cộng đồng
Để việc phối hợp nhà trường - gia đình - cộng đồng được tốt hơn, các giáo viên đã đưa ra
các đề xuất sau:
- Cha mẹ nên dành nhiều thời gian quan tâm đến con hơn, chịu khó đọc thông tin, thông
báo của trường và hỏi han tình hình con em.
- Gia đình và giáo viên chủ động hơn nữa, sâu sát hơn đối với tình hình của trẻ.
- Tăng cường cơ sở vật chất cho nhà trường, chăm sóc đời sống giáo viên.
- Tổ chức gặp mặt gia đình và cộng đồng trong các dịp lễ, Tết để gần nhau hơn.
- Tăng cường phối hợp với các cơ sở y tế để giúp cha mẹ phòng bệnh và chăm sóc trẻ tốt
hơn nữa.
110
Phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng ở các trường mầm non thành phố Hà Nội
- Các ban ngành địa phương, các tổ chức nên tổ chức các lớp học miễn phí bổ sung kiến
thức chăm sóc – giáo dục trẻ cho phụ huynh.
- Tuyên truyền tốt hơn nữa về tầm quan trọng của phối hợp.
- Không nên sính thành tích, phải đặt lợi ích của trẻ lên hàng đầu.
3. Kết luận
Nhìn chung việc phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng ở các trường mầm non
thành phố Hà Nội đã được làm thường xuyên và có hiệu quả. Phối hợp nhà trường với gia đình
tốt hơn với cộng đồng nhưng chênh lệch không nhiều. Bên cạnh những thuận lợi như nhận thức
của gia đình và cộng đồng về tầm quan trọng của giáo dục mầm non tăng lên, có nhiều tài liệu và
phương tiện phổ biến kiến thức chăm sóc - giáo dục trẻ, giáo viên yêu nghề, mến trẻ. . . thì vẫn còn
nh