Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng cho người khuyết tật về xã hội: Mô hình và thách thức khi ứng dụng tại Việt Nam

Tóm tắt Chương trình Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng (PHCNDVCĐ) được khởi xướng sau Tuyên bố Alma-Alta (1978) đang phát triển thành một chiến lược đa ngành của Công ước về Quyền của Người khuyết tật (NKT)tại gần 90 quốc gia với mục tiêu giải quyết nhu cầu đa dạng của người khuyết tật trên cơ sở tận dụng tối đa nguồn lực địa phương kết hợp các ngành nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và tăng cường sự tham gia, hòa nhập xã hội của NKT. Quá trình triển khai chương trình PHCNDVCĐ cho NKT tại Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhất định, tuy nhiên, còn chưa hài hòa khi tập trung chủ yếu vào các hoạt động y tế và gần đây là một số hoạt động sinh kế và giáo dục nhưng gần như bỏ ngỏ nhu cầu xã hội của NKT. Dựa trên những nghiên cứu, bài viết tập trung phân tích thực trạng khuyết tật, khó khăn của NKT về mặt xã hội, giới thiệu mô hình được đúc kết bởi Tổ chức Y tế Thế giới cũng như bàn luận về thách thức và gợi ý hướng ứng dụng tại Việt Nam.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 26 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng cho người khuyết tật về xã hội: Mô hình và thách thức khi ứng dụng tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI CHUYÊN NGHIỆP HÓA DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI 231 ISBN: 978-604-73-3841-2 PHỤC HỒI CHỨC NĂNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT VỀ XÃ HỘI: MÔ HÌNH VÀ THÁCH THỨC KHI ỨNG DỤNG TẠI VIỆT NAM Lê Thị Nhung* Tóm tắt Chương trình Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng (PHCNDVCĐ) được khởi xướng sau Tuyên bố Alma-Alta (1978) đang phát triển thành một chiến lược đa ngành của Công ước về Quyền của Người khuyết tật (NKT)tại gần 90 quốc gia với mục tiêu giải quyết nhu cầu đa dạng của người khuyết tật trên cơ sở tận dụng tối đa nguồn lực địa phương kết hợp các ngành nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và tăng cường sự tham gia, hòa nhập xã hội của NKT. Quá trình triển khai chương trình PHCNDVCĐ cho NKT tại Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhất định, tuy nhiên, còn chưa hài hòa khi tập trung chủ yếu vào các hoạt động y tế và gần đây là một số hoạt động sinh kế và giáo dục nhưng gần như bỏ ngỏ nhu cầu xã hội của NKT. Dựa trên những nghiên cứu, bài viết tập trung phân tích thực trạng khuyết tật, khó khăn của NKT về mặt xã hội, giới thiệu mô hình được đúc kết bởi Tổ chức Y tế Thế giới cũng như bàn luận về thách thức và gợi ý hướng ứng dụng tại Việt Nam. Từ khóa: người khuyết tật, phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng, Công ước về các Quyền của Người khuyết tật, mặt xã hội. Abstract Community-based rehabilitation (CBR) resulting of the Declaration of Alma-Ata (1978) has been promoted to be a multisectoral strategy for implementation of the Convention on the Rights of Persons with Disabilities (CRPD) in about 90 countries to solve broader needs of people with disabilities through rehabilitation services by making optimum use of local resources in collaboration of multi-parties for the purpose of improving their quality of life, ensuring their participation and promoting inclusion in society. Vietnam has been at one side developing the CBR program with much achievement but in the other side with certain limitations in unbalancing components. Much more effort has been put in medical care and recently livelihood and education but lesser attention to the social component. The writing comes up with introduction about current context of disability and in particular difficulties of persons with disability in social aspects, then about the model of CBR guidelines in social component based on WHO position paper and discussion about how to implement the model in Vietnam. Keywords: Persons with disability, community- based rehabilitation, Convention on the Rights of Persons with Disabilities, social component. 1. Giới thiệu Theo báo cáo về Khảo sát Sức khỏe Thế giới và Gánh nặng Toàn cầu về Bệnh tật (2002- 2004), thì cộng đồng người khuyết tật (NKT) là cộng đồng lớn nhất (WHO, 1981), với quy mô lên tới1 tỷ người, chiếm hơn 15,3% dân số thế giới (WHO, World Bank, 2011: 29), trong đó 80% NKT sống tại các nước đang phát triển (United Nations, 2006). Thống kê từ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009 (TĐTDS 2009)1 cho thấy Việt Nam có khoảng 6,1 triệu NKT (tương ứng với 7,8 % dân số từ 05 tuổi trở lên), trong đó có 385 nghìn NKTN. * Thạc sĩ, Phòng Khoa học & Hợp tác quốc tế, Trường Đại học Lao động - Xã hội Cơ sở II 1 Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009 là cuộc tổng điều tra dân số đầu tiên thu thập thông tin về tình trạng khuyết tật của người dân, sử dụng Khung phân loại Quốc tế về Chức năng, Khuyết tật và Sức khỏe (ICF) của Tổ chức Y tế Thế giới. RAISING THE STANDARD OF SOCIAL WORK EDUCATION TOWARDS THE PROFESSIONALIZATION OF SOCIAL WORK SERVICES 232 ISBN: 978-604-73-3841-2 Với quy mô dân số đã đạt 90,7 triệu người vào năm 2014 (ASEANStats, 2015), tác giả cho rằng trên thực tế tỷ lệ người khuyết tật tại Việt Nam có thể còn cao hơn. Người khuyết tật là một trong những nhóm dễ bị tổn thương và yếm thế nhất (WHO, 2010:9). NKT gặp nhiều khó khăn cả về kinh tế và xã hội. Tại các nước đang phát triển, 15- 20% NKT đồng thời là người nghèo; trong khi tại các nước có thu nhập thấp thì NKT là những người nghèo nhất (Elwan, 1999:15- 16). Họ cũng thường xuyên bị bệnh tật, phân biệt đối xử đồng thời bị hạn chế trong việc tiếp cận các cơ hội chăm sóc y tế, giáo dục và sinh kế (WHO, 2010:9). Tại Việt Nam, chương trình PHCNDVCĐ được giới thiệu lần đầu vào năm 1987. Từ đó đến nay, PHCNDVCĐ luôn là một trong những chiến lược quan trọng góp phần giải quyết những vấn đề liên quan đến khuyết tật. Hàng triệu lượt NKT đã được hỗ trợ để cải thiện chức năng, nâng cao chất lượng cuộc sống và hòa nhập xã hội (Bộ Lao động- Thương binh & Xã hội, 2013). Tuy chương trình PHCNDVCĐ không phải là mới ở Việt Nam nhưng còn bộc lộ nhiều hạn chế về nhận thức, về phối hợp liên ngành, thiếu thông tin... (Bộ LĐ-TB&XH, 2013). Theo tác giả, một hạn chế lớn, và cũng là nguyên nhân gốc rễ, đó là sự thiếu thống nhất trong nhận thức và quan điểm về PHCNDVCĐ, từ đó dẫn đến sự mất cân bằng, thiếu hài hòa theo khung can thiệp chung trên 5 phương diện (y tế, giáo dục, sinh kế, xã hội và trao quyền), làm cho chương trình nghiêng hẳn về mặt y tế (WHO, 2010:1). Gần đây, đã có một số chuyển biến trong việc thay đổi hướng tiếp cận khi có thêm các hoạt động hướng nghiệp, sinh kế. Tuy nhiên, các nhu cầu xã hội của người khuyết tật vẫn còn bị bỏ ngỏ (WHO, 2010:1). Bài viết tập trung phân tích thực trạng khó khăn của người khuyết tật về mặt xã hội, giới thiệu mô hình PHCNDVCĐ với hợp phần xã hội và đưa ra bàn luận một số vấn đề đặt ra trong ứng dụng thực tế tại Việt Nam. 2. Thực trạng khó khăn của người khuyết tật về mặt xã hội: Kết quả TĐTDS 2009 cho thấy NKT ở Việt Nam đặc biệt là NKTN rất dễ bị tổn thương trên hầu hết mọi mặt của cuộc sống (UNFPA, 2011:38). Trong sắp xếp cuộc sống và tình trạng hôn nhân, NKT sống độc thân chiếm đến 50% hoặc thường sống trong hộ gia đình có quy mô nhỏ (UNFPA, 2011: 26). Nhóm NKT và NKTN cao tuổi sống đơn thân lần lượt là 14% và 19% (Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội, 2013:36). Tỷ lệ góa ở người cao tuổi trong nhóm NKT (chiếm khoảng 50%) cao hơn rất nhiều so với nhóm NKKT (UNFPA, 2011: 26). Theo nghiên cứu tại Thụy Điển (1980), NKT đơn thân bị hạn chế về khả năng lao động và hoạt động trong cuộc sống nhiều hơn so với những người NKT sống với những thành viên khác (Elwan, 1999:9). Một nghiên cứu khác tại Việt Nam cho thấy NKT cao tuổi tuy có nhu cầu lớn về hỗ trợ từ những thành viên khác trong gia đình nhưng rất nhiều người trong số họ lại không có ai để giúp đỡ và, vì vậy, những khó khăn bất lợi của họ tăng lên gấp bội (Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội, 2013:6). Các chủ đề như các mối quan hệ, hôn nhân và nuôi dạy con cái được coi là quá nhạy cảm hay quá khó khăn để giải quyết (WHO, 2010:1). Trong một số trường hợp, duy trì gia đình với một bạn đời đột nhiên ốm nặng hay bị tai nạn là điều cực kì khó khăn (Peter, 2012). Bên cạnh đó, do NKT phải đối mặt với nhiều rào cản xã hội nên họ thường ít có cơ hội tiếp cận, tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí, và cả tư pháp (WHO, 2010:1). Phong trào văn hóa, thể thao của NKT mới chỉ phát triển bước đầu và chủ yếu ở khu vực thành thị, còn khu vực nông thôn, miền núi NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI CHUYÊN NGHIỆP HÓA DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI 233 ISBN: 978-604-73-3841-2 chưa được quan tâm đúng mức (Bộ LĐ- TB&XH, 2009). Một nghiên cứu khác của Tổ chức UNICEF tại tỉnh Đồng Nai và An Giang (2011) cho thấy trẻ khuyết tật bị hạn chế khi tiếp cận các dịch vụ giải trí và công cộng. Các hoạt động giải trí phổ biến cho trẻ khuyết tật gồm nhảy dây, bóng đá, và các trò chơi lăn bóng (cả ở trường và cộng đồng). Hầu hết các dịch vụ công cộng ở hai tỉnh nghiên cứu không có các đặc điểm phù hợp cho NKT trừ một công viên trung tâm ở An Giang và một chiếc xe buýt không phải mua vé cho trẻ khuyết tật ở Đồng Nai. 3. Mô hình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng cho người khuyết tật hợp về mặt xã hội Trước thực trạng mất cân bằng trong các hoạt động hỗ trợ NKT khi tập trung nhiều ở các mảng y tế và gần đây giáo dục và sinh kế (đã trình bày ở Mục 1) trong khi NKT còn gặp rất nhiều khó khăn về mặt xã hội (đã trình bày ở Mục 2), bài viết xin giới thiệu tóm lược các điểm chính về mô hình can thiệp đối với hợp phần xã hội (WHO, 2010). Các yếu tố trong hợp phần xã hội Trợ giúp cá nhân Trợ giúp cá nhân nhằm hỗ trợ NKT có thể đáp ứng nhu cầu bản thân, sống tích cực, đầy đủ và tự quyết định (WHO, 2010:9). Nhiệm vụ của trợ giúp cá nhân không chỉ hỗ trợ NKT thực hiện các công việc riêng tư (vệ sinh, ăn uống), tại nhà (làm việc nhà, chăm sóc, nuôi dạy con cái) mà còn hỗ trợ các hoạt động trong các môi trường khác nhau: trường học (học tập, hoạt động tập thể), nơi làm việc (công việc, giao lưu với đồng nghiệp), công cộng (mua sắm, sử dụng phương tiện). Các phương án hỗ trợ bao gồm chính thức từ các dịch vụ về sức khỏe, xã hội... cung cấp bởi các tổ chức chính phủ, phi chính phủ và tư nhân và phi chính thức từ các mạng lưới tự nhiên: bạn bè, gia đình, hàng xóm, đồng nghiệp, thành viên câu lạc bộ (Wilken, 2009: 2), tạo nên hệ thống trợ giúp tại cộng đồng. Mô hình trực tiếp can thiệp với NKT (Kham T., 2011) bao gồm: i) can thiệp khủng hoảng; ii) trao quyền, biện hộ; iii) quản lý ca; iv) kiến tạo xã hội. Tổ chức WHO (2010) nhấn mạnh thêm về các hoạt động: i) hợp tác với các tổ chức NKT nhằm tạo hiểu quả thay đổi hơn khi NKT làm việc chung; ii) xây dựng kế hoạch hỗ trợ cá nhân đáp ứng nhu cầu về giới tính, tuổi tác và phù hợp bối cảnh văn hóa - xã hội; iii) đào tạo với NKT giúp họ thêm tự tin và kỹ năng quản lý trợ giúp cá nhân của bản thân và với người trợ giúp cá nhân hỗ trợ NKT; iv) Chuẩn bị và quản lý các tình huống khủng hoảng cho NKT và gia đình NKT. Ở Vương quốc Anh, Serbia có dịch vụ trợ giúp cá nhân do NKT tự chi trả, tự kiểm soát. Những NKT tham gia chương trình này có thể điều hành một hiệp hội NKT hoặc trở thành tập huấn viên cho nhóm đồng đẳng dưới sự hỗ trợ của trợ lý cá nhân. Các mối quan hệ, hôn nhân và gia đình Vai trò của chương trình PHCNDVCĐ ở khía cạnh mối quan hệ, hôn nhân và gia đình nhằm hỗ trợ NKT có mối quan hệ tốt với các thành viên của gia đình và cộng đồng trên cơ sở nhận thức đầy đủ các vị trí và vai trò của NKT (WHO, 2010:19). RAISING THE STANDARD OF SOCIAL WORK EDUCATION TOWARDS THE PROFESSIONALIZATION OF SOCIAL WORK SERVICES 234 ISBN: 978-604-73-3841-2 Mối quan hệ cá nhân (bạn bè, người yêu và thành viên gia đình) đóng vai trò quan trọng trong quá trình trưởng thành và phát triển của mỗi cá nhân. Nhà triết học C.Mác (1845- 1847) nhận định “bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Các mối quan hệ xã hội của NKT thường hạn hẹp dẫn đến khó có thể hình thành các mối quan hệ mới (Sarah, 2012). Gia đình mang lại cảm giác an toàn cho các đối tượng dễ bị tổn thương (trong đó có NKT), đáp ứng nhu cầu theo thuyết của Maslow. Gia đình có 05 chức năng quan trọng bao gồm: thỏa mãn tình cảm giữa các thành viên, sinh sản, giáo dục, xã hội hóa và kinh tế (Lan N., Mai B., 2011). Như đã đề cập, gia đình còn là nguồn hỗ trợ phi chính thức và là tác nhân thay đổi mạnh mẽ để đảm bảo hòa nhập của NKT. Tình dục chiếm giữ vai trò quan trọng trong sức khỏe và hạnh phúc. NKT bị dán nhãn phi giới tính bởi vì họ thường bị xem là ngờ nghệch, xấu xí, không thể có mối quan hệ khác giới thân mật, có ít nhu cầu về tình dục (WHO, 2010:20). Ngược lại, vấn đề tình dục là rất thực tế, không thể làm ngơ (World Bank, 2004). Hôn nhân và làm cha mẹ là điều hiển nhiên và thậm chí được coi là nhiệm vụ của một người trưởng thành. Tuy nhiên, tồn tại quan niệm sai lầm và phổ biến cho rằng NKT sẽ sinh ra những đứa trẻ khuyết tật hoặc họ không có khả năng chăm sóc, hỗ trợ con cái một cách độc lập (WHO, 2010:20). Kết hôn và xây dựng gia đình riêng, tự do quyết định và có trách nhiệm trong việc sinh con là một trong các quyền của NKT được khẳng định tại Điều 23 trong Công ước về Quyền của người khuyết tật (CRPD). Các hoạt động trong chương trình PHCNDVCĐ bao gồm i) hỗ trợ và nâng cao nhận thức cho các bậc cha mẹ khuyết tật và cha mẹ của NKT thông qua các dịch vụ địa phương về kiến thức sinh sản và làm cha mẹ; ii) phối hợp gia đình thúc đẩy tính độc lập của NKT thông qua cung cấp thông tin, thay đổi nhận thức về vị trí, vai trò, khả năng của NKT, hỗ trợ NKT giao tiếp và tự biện hộ; iii) Giúp đỡ để ngăn chặn bạo lực thông qua nâng cao năng lực cán bộ, thiết lập mối liên kết giữ các bên liên quan, quản lý ca, hỗ trợ NKT chia sẻ tâm tư, tiếp cận các dịch vụ sức khỏe và xây dựng kế hoạch hành động; iv) hỗ trợ những người có mạng lưới xã hội hạn chế thông qua kết nối mạng lưới hỗ trợ thích hợp trong cộng đồng (nhóm tự lực, câu lạc bộ, các tổ chức NKT), phối hợp tổ dân để NKT được tham gia và hòa nhập trong đời sống cộng đồng, hỗ trợ NKT có nơi cư trú thích hợp. Tác giả cho rằng cần có thêm các hoạt động để hỗ trợ NKT trong lập gia đình và hôn nhân, mở rộng các mối quan hệ với bạn khác giới để giải quyết nhu cầu tình dục và quyền có gia đình riêng của NKT. Ở Hà Lan, nghề mại dâm được hợp pháp hóa, đã có chiến dịch kêu gọi cho những công dân bị khuyết tật có quyền nhận một khoản trợ cấp chính phủ đủ để sử dụng dịch vụ mại dâm 12 lần mỗi năm (Sarah, 2013). Văn hóa và nghệ thuật Vai trò của chương trình PHCNDVCĐ nhằm phối hợp với các bên liên quan để cho phép NKT thụ hưởng và tham gia các hoạt động văn hóa và nghệ thuật, thực thi Điều 30 của Công ước CRPD (WHO, 2010:5). Văn hóa bao gồm nhiều khía cạnh như trang phục, thực phẩm, ngôn ngữ, giá trị và niềm tin, tôn giáo, nghi lễ và thông lệ. Nghệ thuật thường gắn liền với văn hóa, bao gồm hội họa, âm nhạc, múa, văn hóa, điện ảnh và nhiếp ảnh (WHO, 2010:25). NKT có thể tham gia với vai trò tích cực như trực tiếp sản xuất, tổ chức, đạo diễn, viết hoặc với vai trò thụ hưởng, thưởng thức phim ảnh, ca kịch, mặc trang phục truyền thống (WHO, 2010:27). NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI CHUYÊN NGHIỆP HÓA DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI 235 ISBN: 978-604-73-3841-2 Các hoạt động trong chương trình PHCNDVGĐ bao gồm i) thúc đẩy sử dụng văn hóa, nghệ thuật cho sự thay đổi xã hội thông qua phương tiện truyền thông (sự kiện, phim ảnh, âm nhạc, hài.. với hình tượng tích cực về NKT); ii) hỗ trợ khuyến khích NKT và gia đình tham gia vào các sự kiện, địa điểm văn hóa (đám cưới, nhà hàng, rạp chiếu phim) thông qua các nhóm tự lực, đồng cảnh/ đồng đẳng; iii) làm việc với các tổ chức và các nhóm lồng ghép để phát triển kỹ năng và sự tự tin của NKT thông qua thay đổi về mặt thể chất, nơi ăn nghỉ, đi lại, sinh hoạt hợp lý mà NKT có thể tiếp cận được, khuyến khích NKT tham gia với vai trò tích cực trong các chương trình văn hóa nghệ thuật. Ví dụ, triển lãm nghệ thuật “Nhìn trong đêm” tại Bangladesh do nhóm người khiếm thị, khuyết tật thể chất và nghệ sĩ cùng tham gia, mô phỏng các rào cản đối với NKT trong cuộc sống hàng ngày; Palestine có chương trình trại hè cho trẻ em khuyết tật, sản xuất phim Cô bé Lọ lem (chuyển thể từ truyện cổ tích nổi tiếng) do một cô gái khuyết tật thủ vai chính. Vui chơi, giải trí và thể thao Mục tiêu của chương trình PHCNDVCĐ nhằm thúc đẩy sự tham gia chủ động của NKT vào các hoạt động vui chơi, giải trí và các hoạt động thể thao trên cơ sở bình đẳng với những người khác, đồng thời tăng năng lực cho các tổ chức cung ứng dịch vụ thích hợp và dễ tiếp cận, thực thi Điều 30 của Công ước CRPD (WHO, 2010:35). Các hoạt động giải trí (bơi lội, đi bộ, thiền, đọc sách, chơi trò chơi) giúp mọi người thư giãn, khiến cuộc sống trở nên thú vị khi không phải làm nhiệm vụ hàng ngày. Các hoạt động thể thao là các hoạt động thể chất có tổ chức (kéo co, thể dục nhịp điệu, bóng đá,). Các hoạt động vui chơi, giải trí giúp nâng cao sức khỏe, phòng chống bệnh tật, phát triển kỹ năng cá nhân, tập thể, giảm kỳ thị và trao quyền. Các hoạt động đề xuất bao gồm: i) xác định các hoạt động giải trí, thể thao đã có tại địa phương thông qua các nhóm, CLB (thanh niên, phụ nữ, NKT); ii) tạo điều kiện để NKT tham gia thông qua cung cấp thông tin, liên kết với các CLB, lựa chọn hỗ trợ cá nhân, phương tiện truyền thông và lồng ghép trong các chương trình chính thống; iii) sử dụng các hoạt động giải trí, thể thao để nâng cao nhận thức về hòa nhập của NKT với số lượng lớn khán giả thông qua các sự kiện lớn và phương tiện truyền thông; iv) phát triển các chương trình dành riêng đảm bảo NKT đóng vai trò lãnh đạo trong thiết kế, xây dựng và triển khai các chương trình vui chơi, giải trí, thể thao phù hợp nhu cầu của họ cũng như kết nối các địa phương để tổ chức các cuộc thi. Ví dụ, tại Eritrea, các thương binh khuyết tật được đào tạo để trở thành huấn luyện viên và quản lý các đội bóng của hơn 2.000 trẻ em; giải khúc côn cầu thế giới cho người mù tại Pakistan; CLB cờ vua Braille cho người khiếm thị tại Bangladesh. Tư pháp Chương trình PHCNDVCĐ có mục tiêu thúc đẩy NKT và gia đình được tiếp cận tư pháp trên cơ sở bình đẳng để đảm bảo được thụ hưởng và tôn trọng đầy đủ các quyền hợp pháp cũng như thay đổi nhận thức cộng đồng về quyền NKT (WHO, 2010:43). NKT là người nắm quyền hợp pháp (y tế, giáo dục, việc làm, nhà ở, vui chơi, giải trí, kết hôn,) và các tổ chức, cá nhân thuộc chính phủ và phi chính phủ là người thực hiện nghĩa vụ. NKT cần được thừa nhận về năng lực pháp lý, là chủ thể của quyền, được tự ra quyết định và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Tiếp cận tư pháp đề cập đến khả năng tiếp cận các hệ thống, thủ tục, thông tin và các địa điểm quản lý nhà nước (Lord và cộng sự, 2007). Các hoạt động đề xuất bao gồm: i) xác đính bối cảnh địa phương sinh sống của NKT (tìm hiểu pháp luật, cách thực thi pháp luật, nguồn RAISING THE STANDARD OF SOCIAL WORK EDUCATION TOWARDS THE PROFESSIONALIZATION OF SOCIAL WORK SERVICES 236 ISBN: 978-604-73-3841-2 lực có sẵn); ii) nâng cao nhận thức về quyền thông qua phổ biến thông tin, đào tạo vấn đề khuyết tật cho các ngành, người ra quyết định các cấp cộng đồng; iii) thúc đẩy tiếp cận tư pháp theo cơ chế không chính thức thông qua làm việc với trường học, lãnh đạo cộng đồng, tổ trưởng tổ dân, ngân hàng, bác sỹ địa phương; iv) hỗ trợ các hoạt động pháp lý (nếu thích hợp) thông qua xây dựng các mối quan hệ liên minh với các thành viên trong cộng đồng pháp lý, nhờ tư vấn pháp luật tìm pháp luật phù hợp, tôn trọng quyền quyết định của NKT. Ví dụ, chương trình phòng chống bệnh phong dựa vào cộng đồng đã phối hợp với người lớn tuổi và lãnh đạo tôn giáo để đưa một người bị bệnh phong trở lại sống với cộng đồng ở Ấn Độ; dự án thúc đẩy quyền hợp pháp của NKT, giảm thiểu rủi ro bạo lực tình dục và HIV/AIDS ở Ethiopia. 4. Các vấn đề đặt ra trong ứng dụng mô hình PHCNDVCĐ cho người khuyết tật về mặt xã hội tại Việt Nam Năm 2010, hướng dẫn chung về PHCNDVCĐ với 05 hợp phần trong đó có hợp phần xã hội được WHO, ILO và UNESCO phê chuẩn và dự kiến đưa vào thực tiễn năm 2020. Các chương trình PHCNDVCĐ không mong đợi sẽ thực hiện tất cả các hợp phần và thành tố của ma trận PHCNDVCĐ (WHO, 2010: 1: 22). Luật Người khuyết tật được Quốc hội thông qua năm 2010, Đề án Trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012-2020 của Thủ tướng Chính phủ (2012) cũng đã xác định PHCNDVCĐ là một chiến lược để đạt các mục tiêu đề ra. Khi áp dụng mô hình PHCNDVCĐ cho NKT về mặt xã hội nói chung, Việt Nam có thể gặp một số thách thức sau đây: Thứ nhất, một số văn bản hướng dẫn dưới Luật NKT chưa có sự thống nhất