1. MỞ ĐẦU (*) (**)
Bước vào thế kỉ 21, con người đang
phải đối mặt với tình huống khẩn cấp, đó là
cuộc khủng hoảng biến đổi khí hậu. Nó
đang tác động thay đổi một cách kịch tính
về các mục tiêu và nội dung phát triển của
nhân loại, đồng thời làm hạn chế phạm vi
lựa chọn của con người. Biến đổi khí hậu
toàn cầu có thể xảy ra do tác động của các
quá trình tự nhiên và nhân tạo, mà có thể
nhận dạng qua những biến đổi về điều kiện
khí tượng, thuỷ văn, mực nước biển dâng
và các hiện tượng thời tiết cực đoan.
Những biến đổi về điều kiện khí tượng,
thuỷ văn và hiện tượng thời tiết cực đoan
được gây ra trước hết từ sự nóng lên của
trái đất, mà chủ yếu do việc phát thải nhiều
khí gây hiệu ứng nhà kính. Theo Hội đồng
quốc tế về biến đổi khí hậu (IPCC, 2007),
nhiệt độ trái đất đã tăng 0,740C trong thế kỉ
vừa qua (1906 – 2005) và xu hướng này
vẫn tiếp tục tăng lên. Nếu trong thế kỉ 21
nhiệt độ trái đất tăng vượt qua ngưỡng 20C,
thì kết quả phát triển con người sẽ bị đẩy
lùi trên quy mô lớn, các thảm họa sinh thái
không thể đảo ngược sẽ xảy ra, trước hết là
các hệ lụy tích lũy kéo dài do mực nước
biển dâng.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 567 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quá trình biến đổi khí hậu tác động mạnh mẽ đến đới bờ biển và địa bàn các tỉnh, thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5 - Thaùng 01/2011
63
QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TÁC ĐỘNG MẠNH MẼ ĐẾN
ĐỚI BỜ BIỂN VÀ ĐỊA BÀN CÁC TỈNH, THÀNH
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
PHẠM NGUYỄN KIM TUYẾN (*)
ĐOÀN TUÂN (**)
TÓM TẮT
Biến đổi khí hậu (BĐKH) xảy ra gắn liền với các biến đổi về điều kiện khí tượng, thuỷ
văn, mực nước biển dâng và các hiện tượng thời tiết cực đoan. Đối với vùng đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL), BĐKH xảy ra trước hết gắn liền với mực nước biển dâng xâm
thực các vùng ven biển và đi sâu vào lục địa, gây xói lở bờ biển, gia tăng tổn thất về tài
nguyên, nông nghiệp, du lịch, đa dạng sinh học và sức khoẻ cộng đồng.
ABSTRACT
Climatic changes are connected to meteorological and hydrographical changes, to the
rise of the sea level and to other extreme climatic phenomena. In the Mekong Delta,
climatic changes will first be connected to the rise of the sea that erodes coastline regions
and then into the mainland. As a result, the coastlines will be eroded and the natural
resources, agriculture, tourism, varied organisms, and community health will be damaged.
1. MỞ ĐẦU (*) (**)
Bước vào thế kỉ 21, con người đang
phải đối mặt với tình huống khẩn cấp, đó là
cuộc khủng hoảng biến đổi khí hậu. Nó
đang tác động thay đổi một cách kịch tính
về các mục tiêu và nội dung phát triển của
nhân loại, đồng thời làm hạn chế phạm vi
lựa chọn của con người. Biến đổi khí hậu
toàn cầu có thể xảy ra do tác động của các
quá trình tự nhiên và nhân tạo, mà có thể
nhận dạng qua những biến đổi về điều kiện
khí tượng, thuỷ văn, mực nước biển dâng
và các hiện tượng thời tiết cực đoan.
Những biến đổi về điều kiện khí tượng,
thuỷ văn và hiện tượng thời tiết cực đoan
được gây ra trước hết từ sự nóng lên của
trái đất, mà chủ yếu do việc phát thải nhiều
khí gây hiệu ứng nhà kính. Theo Hội đồng
quốc tế về biến đổi khí hậu (IPCC, 2007),
(*)
TS, Trường Đại học Sài Gòn
(**)
ThS, Trường Đại học Sài Gòn
nhiệt độ trái đất đã tăng 0,740C trong thế kỉ
vừa qua (1906 – 2005) và xu hướng này
vẫn tiếp tục tăng lên. Nếu trong thế kỉ 21
nhiệt độ trái đất tăng vượt qua ngưỡng 20C,
thì kết quả phát triển con người sẽ bị đẩy
lùi trên quy mô lớn, các thảm họa sinh thái
không thể đảo ngược sẽ xảy ra, trước hết là
các hệ lụy tích lũy kéo dài do mực nước
biển dâng.
Mực nước biển dâng cao sẽ gây ra tác
động tiêu cực nhiều mặt đối với phát triển
kinh tế - xã hội, đặc biệt ở các vùng ven
biển và liên hệ. Các tác động không chỉ
gây ra ngập lụt, xói lở, mất đất, thay đổi hệ
sinh thái v.v. mà còn gây ra ăn mòn, ngập
mặn, phá hủy chất lượng đất, nước mặt,
nước ngầm,... và nhiều tác động tiêu cực
khác đến môi trường. Những tác động đó
gây thiệt hại đến phát triển kinh tế - xã hội,
đồng thời đe dọa an ninh lương thực do
phá hoại sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp,
lâm nghiệp,... Thêm vào đó, các giá trị văn
64
hoá, lịch sử cũng sẽ bị xâm hại, tác động
trực tiếp đến du lịch. Mặt khác, nước biển
dâng cao sẽ làm thay đổi mật độ, phân bố
và cấu trúc dân cư tại các vùng ven biển và
các vùng đất cao hơn chịu tác động do việc
di dân cơ học. Tóm lại, nước biển dâng sẽ
đe doạ trực tiếp đến an ninh quốc phòng và
phát triển kinh tế - xã hội của những khu
vực bị tác động.
Kết quả dự báo khoa học cho thấy:
Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Việt
Nam, Indonesia, Nhật Bản, Ai Cập, Hoa
Kì, Thái Lan và Philippines sẽ có mức độ
rủi ro cao về lãnh thổ bị thu hẹp do mực
nước biển dâng cao. Ở Đông Nam Á nói
chung và Việt Nam nói riêng, BĐKH gây
ra những tác động chính như: gia tăng nhiệt
độ; dâng cao mực nước biển; thay đổi chế
độ mưa; gia tăng hạn hán, lụt lội, dông bão;
gia tăng tần suất cháy rừng và giảm năng
suất nông nghiệp. Riêng Việt Nam, một
quốc gia có bờ biển dài 3.260 km và hàng
nghìn đảo lớn nhỏ khác nhau, được dự báo
là sẽ bị ảnh hưởng nặng nề bởi mực nước
biển dâng cao, cùng với các quốc đảo và
quốc gia có bờ biển khác.
Theo đánh giá của Chương trình phát
triển Liên Hiệp Quốc, (UNDP), Việt Nam
có thể trở thành một trong những quốc gia
bị ảnh hưởng nặng nề nhất trên thế giới,
nếu mực nước biển tiếp tục dâng cao theo
tốc độ hiện nay (bị ảnh hưởng thứ 2 sau
Bangladesh). Tổng thiệt hại từ các hậu quả
của việc nước biển dâng cao có thể lên đến
17 tỉ USD/năm. Theo dự báo, nếu mực
nước biển dâng cao 1 mét, Việt Nam sẽ
mất hơn 12% diện tích đất đai (trong đó
vùng Đồng bằng Sông Cửu Long có thể
mất tới 20% diện tích), nơi cư trú của 23%
số dân. Bên cạnh đó, BĐKH cũng làm cho
các trận bão lớn xảy ra thường xuyên hơn
và với mức độ tàn phá nghiêm trọng hơn.
Ngoài ra, nhiệt độ tăng và lượng mưa thay
đổi sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nông
nghiệp và nguồn nước của Việt Nam.
Hiện nay, vấn đề biến đổi khí hậu đã
có dấu hiệu ảnh hưởng đến đới bờ biển
Việt Nam, cũng như hàng loạt các cơn bão
có đường đi dị thường, khó dự báo đã
xuống hiện và có xu hướng chuyển dịch
dần xuống phía Nam. Hiện tượng lũ lụt,
hạn hán xảy ra với quy mô ngày càng
nghiêm trọng hơn và mức độ biến động
ngày càng cao.
2. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU - ẢNH HƯỞNG
ĐỚI BỜ BIỂN VÀ ĐỊA BÀN CÁC
TỈNH, THÀNH VÙNG ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
2.1. Quan niệm về đới bờ biển
Đới bờ biển (Coastal Zone), theo
Imann and Nordstrom, 1974, được xác
định trong mối tương tác lục địa - biển trên
một phạm vi rộng dọc theo bờ biển. Ở đó
bao gồm đồng bằng ven biển, đầm phá, cồn
cát, các hệ cửa sông, thềm lục địa và khối
nước bao phủ lên thềm, trong đó kể cả các
vũng vịnh và hải đảo (xem hình 1).
Đới bờ biển (đới bờ) là khu vực
chuyển tiếp giữa lục địa - biển, gồm 2
phần: phần đất liền ven biển và phần biển
ven bờ với nhiều hệ sinh thái đặc trưng.
Ranh giới về phía đất liền là nơi kết thúc
ảnh hưởng của biển, không còn sự nhiễm
mặn. Ranh giới về phía biển là nơi kết thúc
ảnh hưởng của các dòng chảy sông, không
còn lắng đọng trầm tích do sông. Tuy
nhiên, ranh giới của đới bờ còn phụ thuộc
vào khả năng quản lí hành chính. Nhìn
chung, ở nước ta hầu như còn chưa có sự
thống nhất trong quan niệm về xác định đới
bờ biển. Vùng biển ven bờ được giới hạn
đến đường cách bờ 6 hải lí (Viện chiến
lược phát triển, 2004), hoặc theo chiều sâu
ảnh hưởng của sóng biển tới đáy bằng nửa
65
độ dài bước sóng và biến thiên trong
khoảng từ 30 đến 50m.
Tuy nhiên, hiện nay BĐKH cũng đang
làm thay đổi cả quan niệm về đới bờ biển
nói chung do mực nước biển dâng cao sẽ
xâm thực các vùng ven biển và đi sâu vào
trong lục địa, mà kết quả là diện tích phần
lục địa sẽ bị ngập mặn và mất dần.
Vì vậy, có thể sử dụng quan niệm khá
thống nhất của Hội đồng Châu Âu về đới
bờ biển: “Đới bờ là một dải đất và lãnh hải
có độ rộng không ổn định, phụ thuộc vào
tự nhiên, môi trường và nhu cầu quản lí”.
Một hệ thống duyên hải tự nhiên với những
vùng mà hoạt động của con người liên
quan đến việc sử dụng tài nguyên có thể
mở rộng quá giới hạn lãnh hải và nhiều
kilomet sâu vào lục địa, trong đó ranh giới
của đới bờ phía đất liền có thể lấy theo
ranh giới hành chính các huyện, xã có biển.
Hình 1. Sự phân chia các phân bậc trong đới bờ biển (Iman &Nordstrom, 1974)
2.2. Tác động do mực nước biển dâng
cao đến đới bờ biển và địa bàn Vùng
ĐBSCL
Theo Báo cáo nghiên cứu đánh giá
bước đầu về BĐKH của Bộ Tài nguyên và
Môi trường (BTNMT), thì ở nước ta với
khoảng thời gian 50 năm qua nhiệt độ
trung bình đã tăng khoảng 0,5 – 0,70C và
mực nước biển đã dâng cao khoảng 20cm.
Nước ta đứng thứ 5 về khả năng dễ bị tổn
thương do các tác động của tình trạng
BĐKH và đã được Liên Hợp Quốc chọn là
quốc gia để tiến hành nghiên cứu điển hình
về nguy cơ BĐKH và phát triển con người.
Theo đó, đời sống của người dân ở các
tỉnh, thành nằm ven biển đang có nguy cơ
bị đe dọa nghiêm trọng bởi những thay đổi
khí hậu toàn cầu, từ đây đòi hỏi một tầm
nhìn dài hơn, một kế hoạch cụ thể và mang
tính chiến lược.
Nước ta giáp với biển Đông ở hai phía
Đông và Nam (vùng vịnh Thái Lan). Vùng
biển Việt Nam là một phần biển Đông, có
chiều dài bờ biển 3.260 km, với hơn ½ các
tỉnh, thành nằm tiếp giáp ven biển và là đối
tượng chịu ảnh hưởng lớn của các quá trình
thay đổi khí hậu, sự biến động trạng thái
trung bình của khí quyển toàn cầu hay khu
Đới bờ biển
Cồn,
đảo
Đầm, phá, vũng vịnh...
Cận bờ
Thềm lục địa
Dốc lục địa
Vùng bờ
Bờ biển
Đồng bằng
ven biển
Mực nước biển
66
vực theo thời gian từ vài thập kỉ đến hàng
triệu năm. Những biến đổi này được gây ra
do quá trình động lực của trái đất, bức xạ
mặt trời (kể cả các cơn bão mặt trời) và chủ
yếu là do các hoạt động của con người làm
phát sinh khí nhà kính (KNK) từ nhiên liệu
hóa thạch và phá rừng, gây ra sự nóng lên
toàn cầu, từ đó nước biển dâng sẽ làm mất
phần lớn diện tích. Nước mặn xâm nhập
sâu vào nội địa. Các quá trình động lực học
biển mạnh hơn do mực nước dâng cao sẽ
phá hủy đường bờ nghiêm trọng. Các hiện
tượng thiên tai xảy ra với cường độ lớn và
tần suất cao như bão, lũ lụt tàn phá khu
vực. Nhiệt độ và độ ẩm thay đổi thất
thường có thể dẫn đến hạn hán, cháy rừng
hoặc mưa với lượng lớn gây ngập lụt, phá
hoại sản xuất.
Tất cả các hậu quả do tình trạng
BĐKH được dự báo nêu trên là có cơ sở
khoa học và thực tế, bởi địa hình các tỉnh,
thành vùng ven biển thường khá thấp (nhất
là các tỉnh, thành trong vùng ĐBSCL),
trung bình dưới 2 - 3m, cá biệt ở khu vực
ven biển có nơi chỉ cao chừng 20-30cm so
với mực nước biển. Theo dự báo của Hội
đồng quốc tế về biến đổi khí hậu (IPCC),
khi nhiệt độ tăng 10C trong giai đoạn 2010-
2039, mực nước biển tăng khoảng 20cm;
giai đoạn 2070-2099, khi nhiệt độ tăng
khoảng 30C - 40C, mực nước biển dâng
thêm khoảng 1m. Như vậy, nếu diễn biến
mực nước biển theo đúng kịch bản nêu
trên, không bao lâu nữa, các tỉnh thành
nằm ven biển sẽ mất đi một phần diện tích
ven biển, và có thể lấn sâu hơn nữa vào
trong nội địa (trong đó vùng ĐBSCL sẽ bị
thiệt hại nặng).
Theo kịch bản BĐKH ở Việt Nam đã
được công bố tại Hội thảo biến đổi khí hậu
toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt
Nam tại Hà Nội, 2/2008, được trình bày
như sau:
Bảng 1. Thông báo Quốc gia về biến
đổi khí hậu ở Việt Nam (so với năm 1990)
Năm Nhiệt độ tăng
thêm (
0
C)
Mực nước biển
tăng thêm (cm)
2010 0,3-0,5 9
2050 1,1-1,8 33
2100 1,5-2,5 45
Nguồn: Nguyễn Khắc Hiếu, tháng
02/2008: Chú ý rằng số liệu trên chưa tính
đến tính ì của khí hậu và đặc điểm sụt hạ
địa chất địa phương.
Vùng ĐBSCL là vùng đồng bằng châu
thổ trẻ ở nước ta, được hình thành vào
khoảng 11.000 năm trở lại đây. Cao trình
mặt đất tương đối thấp. Nền đất yếu. Trên
nhiều vùng khá rộng, trong Đồng Tháp
Mười, Tứ giác Long Xuyên, Bán đảo Cà
Mau chẳng hạn, nhiều nơi độ cao so với
mực nước biển chỉ vào khoảng 20 – 30 cm.
Đồng bằng sông Cửu Long nằm ở cuối lưu
vực sông Mê-Kông, phụ thuộc nhiều vào
nguồn nước (lượng và chất) từ vùng
thượng nguồn đổ về. Hàng năm đồng bằng
chịu lũ vào mùa mưa, nhưng lại bị khô hạn
và xâm nhập mặn vào mùa kiệt do nước
biển dâng. Theo các kết quả dự báo khoa
học đưa ra, thì hiện nay Vùng ĐBSCL
ngày càng có xu hướng thiếu nước trầm
trọng và xâm nhập mặn ngày càng đi sâu
vào vùng lục địa do việc khai thác quá
nhiều nguồn nước sông Mê-Kông để làm
thuỷ lợi và thuỷ điện ở đầu nguồn, như ở
Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Việt Nam và
Campuchia.
Vùng biển đới bờ chịu sự tác động của
hai chế độ triều: Biển Đông bán nhật triều
và Vịnh Thái Lan nhật triều. Nhìn tổng thể,
ĐBSCL tiếp tục vươn ra biển, nhưng sự
bồi tụ, xâm thực và xói lở thay đổi nhiều
theo không gian và thời gian. Tuy nhiên,
67
tình huống này có thể sẽ khác đi khi mực
nước biển dâng cao sẽ làm thay đổi đường
bờ, gây xói lở bờ biển, bờ sông, phá hoại
đê biển và xâm chiếm từng phần diện tích
các vùng ven biển, cũng như theo triều đi
sâu vào sông Tiền, sông Hậu.
Những năm trở lại đây, tần suất và
cường độ của các cơn bão đổ bộ vào nước
ta tăng nhanh rõ rệt. Điều đó, theo các nhà
khoa học sẽ là một minh chứng cho sự thay
đổi khí hậu trái đất, hệ quả tất yếu của một
loạt thay đổi dây chuyền mà xuất phát là sự
nóng dần lên của Trái đất. Hai cơn bão
Linda (1997) và Durian (2006) là những
trận bão lịch sử đã ghi nhận bởi hậu quả
nặng nề mà chúng gây ra cho các tỉnh vùng
ĐBSCL như làm tăng tính cực đoan của
thời tiết, hậu quả làm tăng tính cực đoan
của lượng dòng chảy trong năm trên các
dòng sông.
Lũ lụt cũng không còn là một hiện
tượng tự nhiên theo quy luật trong vài năm
trở lại đây. Hơn nữa, các tỉnh, thành thuộc
vùng ĐBSCL lại là nơi giao thoa cân bằng
động trong thời gian lịch sử kiến tạo kéo
dài giữa hai quá trình biển và sông, giữa
sóng triều và dòng vật chất từ lục địa. Do
đó, bất kì một sự thay đổi thất thường nào
của quá trình biển hoặc sông cũng đều dẫn
đến sự biến đổi mạnh mẽ của một loạt các
vấn đề liên quan như: xâm nhập mặn, suy
giảm diện tích đất canh tác cũng như ảnh
hưởng đến quá trình sinh sống của nhân
dân, các hệ sinh thái đặc trưng Đáng báo
động thay, những sự thay đổi của các quá
trình sông và biển đó, phần lớn được cho là
xuất phát từ sự BĐKH toàn cầu. Thời gian
gần đây, sự biến đổi khí hậu còn được thể
hiện rõ rệt qua hai hiện tượng El Nino và
La Nina dẫn đến sự hạn hán và mưa không
theo quy luật, ảnh hưởng rõ nét đến quá
trình sản xuất nông nghiệp, không chỉ vùng
ĐBSCL mà còn của cả Việt Nam.
Theo dự báo của các chuyên gia nông
nghiệp, đồng bằng sông Cửu Long sẽ là
vùng bị ảnh hưởng nặng nề nhất do biến
đổi khí hậu (BÐKH) của nước ta, đặc biệt
là tác động do mực nước biển dâng cao, đất
đai bạc màu, tài nguyên và đa dạng sinh
học giảm mạnh. Diện tích đất bị xâm nhập
mặn, đất bị khô hạn, nhiễm phèn ngày càng
tăng. Hiện nay, toàn vùng đã có khoảng 2,1
triệu ha đất bị nhiễm mặn và 1,6 triệu ha
đất nhiễm phèn. Trước thực tế này, đòi hỏi
phải có chiến lược quản lí tài nguyên nước
và lưu vực sông, cụ thể là thúc đẩy việc
bảo vệ rừng, sử dụng hợp lí đất đai, quản lí
tốt các khu bảo tồn thiên nhiên, giảm ô
nhiễm môi trường.
Theo kịch bản của IPCC cho khu vực
Nam Bộ về mức tăng nhiệt độ trung bình
(
0C) so với thời kì 1980 – 1999 có 03 mức:
kịch bản phát thải thấp (B1), kịch bản phát
thải trung bình (B2) và kịch bản phát thải
cao nhất (A1) được trình bày ở bảng 2:
68
Bảng 2. Kịch bản của IPCC cho khu vực Nam Bộ về mức tăng nhiệt độ trung bình (0C)
so với thời kì 1980 – 1999.
Nam Bộ Các mốc thời gian của thế kỉ 21
Thời kì
trong năm
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
B1
Kịch bản phát thải thấp (B1)
XII-II 0,3 0,5 0,6 0,8 0,9 1,1 1,1 1,1 1,1
III-V 0,4 0,6 0,8 0,9 1,0 1,2 1,2 1,3 1,3
VI-VIII 0,5 0,7 0,9 1,1 1,3 1,4 1,5 1,5 1,5
IX-XI 0,5 0,6 0,9 1,2 1,2 1,4 1,5 1,5 1,5
B2
Kịch bản phát thải trung bình (B2)
XII-II 0,3 0,5 0,6 0,8 1,0 1,3 1,5 1,5 1,7
III-V 0,4 0,6 0,8 0,9 1,2 1,4 1,7 1,8 1,9
VI-VIII 0,5 0,7 0,9 1,2 1,5 1,8 2,0 2,1 2,1
IX-XI 0,5 0,6 0,9 1,2 1,4 1,8 1,9 2,1 2,3
A1
Kịch bản phát thải cao nhất (A2)
XII-II 0,3 0,5 0,7 0,8 1,0 1,3 1,5 1,8 2,1
III-V 0,4 0,6 0,8 0,9 1,2 1,5 1,9 2,1 2,7
VI-VIII 0,6 0,7 0,9 1,2 1,5 1,8 2,2 2,6 2,9
IX-XI 0,5 0,7 1,0 1,2 1,5 1,8 2,1 2,5 2,9
Tương ứng với mức nhiệt độ tăng ở
bảng trên (bảng 2) thì mức nước biển
dâng (cm) tại khu vực ĐBSCL so với
thờii2 1980 – 1999 được trình bày ở
bảng 3:
Bảng 3. Mức nước biển dâng (cm) tại
ĐBSCL so với thời kì 1980 – 1999.
Phạm vi vùng
bị ngập
Mức nước
biển dâng
(cm)
Diện tích
ngập
(km
2
)
Khu vực đồng
bằng sông Cửu
Long
65 5133
75 7580
100 15116
Kết quả dự báo như trình diễn trên
bản đồ mực nước biển dâng ở vùng
ĐBSCL.
Theo số liệu điều tra của PGS. TS.
Dương Văn Viện thì ĐBSCL có khoảng
790.000 ha đất mặn (20%) trong tổng số
gần 2 triệu ha tự nhiên bị ảnh hưởng mặn,
phân bố chủ yếu dọc bờ biển Đông và vùng
bán đảo Cà Mau. Trong đó, đất bị mặn dưới 2
tháng khoảng 100.000 ha (đều đã được sử
dụng cho nông nghiệp), đất mặn từ 2-4 tháng
520.000 ha (88% sử dụng cho nông nghiệp,
9% cho rừng và 3% đất hoang), và đất mặn
quanh năm chiếm khoảng 170.000 ha (34%
cho rừng, 25% nuôi tôm và 36% đất hoang).
Trước đây, khi công trình thuỷ lợi chưa phát
triển, diện tích bị ảnh hưởng mặn 1g/l trở lên
khoảng 2,1 triệu ha. Nếu tính với độ mặn
0,4g/l (tiêu chuẩn cho phép của nước sinh
hoạt) thì phạm vi ảnh hưởng mặn còn rộng
hơn. Đến nay do công trình thuỷ lợi phát triển
nhiều, vùng ven biển được ngọt hóa nên diện
tích bị ảnh hưởng giảm xuống còn 1,5 triệu
ha. Tuy nhiên, ranh giới hưởng mặn giảm
đáng kể, chỉ còn khoảng 1,3 mặn trên sông
chính, sông Vàm Cỏ Tây và các kênh nối
thông ra biển lại có xu thế càng ngày gia tăng.
69
2.3. Đánh giá sự tổn thất môi trường
Đánh giá tổn thất môi trường
(TTMT) luôn được đề cập song hành với
phát triển bền vững, vì nó không chỉ tập
trung đánh giá những rủi ro, thiệt hại ở
hiện tại mà còn xem xét các nguy cơ có
thể xảy ra ở tương lai. Để phát triển bền
vững một vùng, cần tiến hành đánh giá
tổn thương tất cả các yếu tố của vùng đó.
Theo US-EPA, đánh giá TTMT của một
vùng là đánh giá sự thiệt hại, tổn thất về
sức khỏe con người và môi trường vùng
đó do tác động ô nhiễm và suy thoái môi
trường sống. Khi đánh giá mức độ tổn
thương, cần đánh giá tổng hợp mức độ
tổn thất, thiệt hại về chất lượng và giá trị của
hệ thống tự nhiên - kinh tế - xã hội - môi
trường, cùng với đánh giá khả năng thích
nghi, chống chịu, phục hồi của hệ thống đó
trước các tác động của tai biến tự nhiên và
nhân sinh.
Để đánh giá mức độ TTMT vùng đới bờ,
tiến hành xác định được các yếu tố gây tổn
thương, các đối tượng bị tổn thương và khả
năng chống chịu, thích ứng của chúng, để
đưa vào tính toán Chỉ số tổn thương môi
trường (EVI). Ví dụ, đối với vùng đới bờ
biển tại khu vực miền Trung đã có những đề
xuất tính toán Chỉ số tổn thương môi trường
(EVI) như trình bày dưới đây:
+ Các yếu tố gây tổn thương:
(1). Nhóm yếu tố thiên nhiên
- Bão, áp thấp nhiệt đới
- Ngập lũ
- Nước biển dâng
- Xói lở, đổ lở bờ biển
- Động đất, núi lửa, sóng thần
- Xâm nhập mặn
- Bồi lắng
(2). Nhóm yếu tố nhân sinh
- Khai thác khoáng sản
- Công nghiệp lọc dầu
- Khai thác, đánh bắt thuỷ sản
- Đô thị hóa, gia tăng dân số
- Ô nhiễm do hoạt động du lịch
- Hoạt động cảng biển
- Vận tải biển
+ Các đối tượng bị tổn thương:
(1.) Thiên nhiên
- Bờ biển
- Cảnh quan
- Rừng phòng hộ ven biển
(2). Môi trường
- Suy giảm chất lượng môi trường
- Suy thoái tài nguyên
- Suy thoái đa dạng sinh học
(3). Xã hội
- Cư dân sống ven biển
- Xáo trộn nơi ở và sinh kế
- Cơ sở y tế, giáo dục, an sinh xã hội
- Trụ sở cơ quan
- Thất nghiệp, nghèo đói
- Mâu thuẩn, xung đột
(4). Kinh tế
- Cơ sở hạ tầng: đường giao thông, cấp
thoát nước, điện, viễn thông
- Đê biển, đê chắn sóng, cầu cảng
- Khu công nghiệp, nhà máy lọc dầu
- Đánh bắt thuỷ hải sản
- Hạ tầng du lịch
- Canh tác nông nghiệp
- Công trình thuỷ lợi
- Phương tiện vận tải biển, tàu thuyền
- Sân bay
+ Khả năng chống chịu, thích ứng và phục hồi:
70
(1). Rừng phòng hộ ven biển (rừng phòng
hộ, rừng ngập mặn)
(2). Hệ thống đê (đê biển, đê chắn sóng)
(3). Cơ sở hạ tầng
(4). Công tác đánh giá, xây dựng và dự
báo, phòng chống bão lũ
(5). Nhận thức của cộng đồng về tổn
thương
(6). Sự hỗ trợ chính quyền địa phương,
trung ương
(6). Sự hỗ trợ từ bên ngoài (các nước, các
tổ chức phi chính phủ).
Nguồn: Đặng Trung Tú, Nguyễn Thùy Dương, Hoàng Thị Minh Thảo, Đặng Trung
Thuận (2009), Biến đổi khí hậu và vấn đề tổn thương môi trường ở đới bờ miền Trung.
Tuy nhiên, theo chúng tôi cần đơn
giản hóa các thông số này trên cơ sở lựa
chọn các yếu tố đánh giá cơ bản nhất để
tính toán ra chỉ số EVI, bởi vì ở trên có
nhiều