TÓM TẮT
Quá trình hiện đại hoá văn học ở Trung Quốc và Việt Nam diễn ra gần như đồng thời,
từ cuối thế kỉ XIX đến những thập niên đầu thế kỉ XX.
Bài viết khảo sát sự tiếp nhận quá trình hiện đại hoá văn học Trung Quốc ở Việt Nam
giai đoạn cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX nhằm góp phần hiểu thêm quan hệ văn hoá giữa
hai nước trong bối cảnh mới, tìm hiểu những điểm tương đồng và khác biệt trong quá trình
hiện đại hoá văn học giữa hai nước và góp phần rút ra một số bài học về hiện đại hoá văn
học trong thời kì hiện đại.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 454 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quá trình hiện đại hoá văn học Trung Quốc trong tiếp nhận ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
15
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 9 - Thaùng 4/2012
QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HOÁ VĂN HỌC TRUNG QUỐC
TRONG TIẾP NHẬN Ở VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
NGUYỄN VĂN HIỆU(*)
TÓM TẮT
Quá trình hiện đại hoá văn học ở Trung Quốc và Việt Nam diễn ra gần như đồng thời,
từ cuối thế kỉ XIX đến những thập niên đầu thế kỉ XX.
Bài viết khảo sát sự tiếp nhận quá trình hiện đại hoá văn học Trung Quốc ở Việt Nam
giai đoạn cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX nhằm góp phần hiểu thêm quan hệ văn hoá giữa
hai nước trong bối cảnh mới, tìm hiểu những điểm tương đồng và khác biệt trong quá trình
hiện đại hoá văn học giữa hai nước và góp phần rút ra một số bài học về hiện đại hoá văn
học trong thời kì hiện đại.
Từ khoá: hiện đại hoá, văn học, thế kỉ, quá trình, tiếp nhận, Trung Quốc
ABSTRACT
The process of literary modernization in China and in Vietnam took place almost
simultaneously from the end of the 19th century to the early decades of the 20th century.
The research paper aims to investigate the reception of Chinese literary modernization
process in Vietnam in the period from the end of the 19th century to the beginning of the
20th century so as to get a better understanding of the cultural relationship between the
two countries in the new context as well as to find out the differences and similarities of the
process of literary modernization of the two countries. The paper also expects to draw
some lessons on the literary modernization in modern time.
Key words: modernization, literature, century, process, reception, China
1. DẪN NHẬP
Trong nửa đầu thế kỉ XX, quá trình
hiện đại hoá văn học ở Trung Quốc diễn ra
khá sôi nổi, gắn với bối cảnh chung của
văn hoá khu vực dưới sức tác động ngày
càng mạnh mẽ của văn hoá, văn minh
phương Tây từ nửa sau thế kỉ XIX. Trong
tính lịch sử cụ thể của nó, quá trình này
được hiểu là quá trình xây dựng nền văn
học mới theo hướng thoát khỏi phạm trù
văn học trung đại để từng bước đi vào
phạm trù văn học hiện đại.
(*)
TS, Trường Đại học KHXH & NV - Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Những biểu hiện đầu tiên của quá trình
hiện đại hoá văn học ở Trung Quốc xuất
hiện từ những năm cuối thế kỉ XIX – đầu
thế kỉ XX, khi một số trí thức Trung Quốc
bắt đầu quan tâm đến vai trò của đại chúng,
chủ trương cải cách văn tự, đổi mới tiểu
thuyết, dịch thuật tinh hoa văn hoá, văn
học nước ngoài. Đến giữa thập niên thứ hai
của thế kỉ XX, quá trình này thể hiện rõ nét
qua chủ trương của tờ Tân Thanh niên do
Trần Độc Tú sáng lập (1915) với tôn chỉ
“dân chủ”, “khoa học”, phản đối nền văn
học cũ, đề xướng văn học mới và nhất là
sau các cuộc vận động: Tân văn học (Hồ
Thích chủ xướng, 1917)(1) và Ngũ Tứ vận
16
động (1919)(2). Từ các cuộc vận động này,
nền văn học mới Trung Quốc xuất hiện
nhiều tên tuổi lớn có tiếng vang trên văn
đàn thế giới như Lỗ Tấn, Quách Mạt
Nhược, Tào Ngu...
Là một nước có quan hệ văn hoá, văn
học lâu đời với Trung Quốc và cũng đang
trong tiến trình hiện đại hoá văn học dân
tộc, văn học nước ta trong giai đoạn này
tiếp nhận như thế nào và tiếp nhận được
những gì từ những cuộc vận động văn hoá,
văn học ở Trung Quốc? Nghiên cứu quá
trình hiện đại hoá văn học Trung Quốc
trong việc tiếp nhận ở Việt Nam sẽ góp
phần làm rõ đặc điểm của quá trình hiện
đại hoá văn học ở hai nước trong bối cảnh
hiện đại hoá văn hoá ở khu vực, đồng thời
góp phần tìm hiểu sự chuyển biến về văn
hoá, văn học giữa hai nước trong bối cảnh
mới. Chúng tôi giới hạn vấn đề trong
khoảng nửa đầu thế kỉ XX vì quan hệ văn
hoá, văn học giữa hai nước từ nửa sau thế
kỉ XX, đúng hơn là từ 1945, đã có những
chuyển biến mới về chất và quá trình hiện
đại hoá văn học của hai nước, hiểu theo
nghĩa là quá trình vận động theo hướng học
theo mô hình văn học phương Tây, cũng
kết thúc vào khoảng thời gian này.
2. TỪ NHỮNG TIẾNG VỌNG MƠ HỒ
Trong khoảng thời gian văn học Trung
Quốc có những chuyển biến mạnh mẽ với
sự phát triển của nền văn học mới, ở ta
cũng có phong trào vận động xây dựng nền
“Quốc văn mới” lấy quốc ngữ làm phương
tiện, chú trọng khảo cứu, dịch thuật tinh
hoa văn hoá Đông – Tây. Riêng đối với
văn học Trung Quốc, chúng ta đã dịch hầu
hết các tác phẩm văn học cổ điển Trung
Quốc, dịch cả tác phẩm của Từ Trẩm Á –
một tác giả viết theo lối diễm tình có ảnh
hưởng khá sâu đậm đến sáng tác và đời
sống tiếp nhận văn học ở nước ta trong
thập niên 1920. Tuy nhiên suốt thời gian
khá dài, quá trình hiện đại hoá văn học
Trung Quốc hầu như không được biết đến
ở nước ta. Có chăng cũng chỉ là những
tiếng vọng mơ hồ.
Theo hồi ức của Vũ Ngọc Phan, năm
1931 ông có dịch in truyện Khổng Ất Kỉ
của Lỗ Tấn trên tạp chí Pháp Việt số 59 (1-
12-1931). Tuy vậy, bấy giờ ông không biết
Lỗ Tấn là ai và không phiên âm được tên
tác giả Lousin thành Lỗ Tấn, còn tên
truyện thì phiên âm thành Khổng Sĩ Khí.
Có tình trạng như vậy vì Vũ Ngọc Phan
chuyển dịch từ một bản Pháp văn trong
Anthologie des conteurs Chinois (Tuyển
tập truyện ngắn Trung Quốc) xuất bản ở
Paris năm 1930(3).
Trong những năm 30 và đầu những
năm 40 của thế kỉ XX, cũng xuất hiện một
số bài viết nói đến nền văn học mới Trung
Quốc như: Nguồn gốc văn học nước nhà và
nền văn học mới của Lê Dư trên Nam
Phong tạp chí số 190 (1933), Cuộc vận
động Tân văn hoá ở Trung Quốc của Trực
Tâm trên Phụ nữ tân văn số 248 (1934),
Văn mới của người Tàu của Nguyễn Tiến
Lãng trên Nam Phong tạp chí số 210
(1934), Trên đàn văn học thế giới, văn học
Trung Hoa ở địa vị nào? của Phan Khôi
trên Đông Dương tạp chí số 28 (1937),
Nhớ lại Lỗ Tấn và lối văn bạch thoại nước
Tàu của Quán Chi trên Trung Bắc chủ nhật
số 61 (1941) Các bài viết trên chỉ giới
thiệu sơ bộ về cái lợi của việc dùng văn
bạch thoại thay cho văn ngôn, đánh dấu
bước chuyển biến mới trong văn học Trung
Quốc. Lê Dư trong bài viết kể trên, cho
rằng cuộc vận động văn học ở Trung Quốc
chỉ là chuyện ngôn ngữ, văn tự nên coi đó
là “cha ông ta đã làm trước Tàu ngót nghìn
năm rồi” và ông không thể chịu được “lối
thơ mới của Hồ Thích không vần, không
17
luật”(4) ; Nguyễn Tiến Lãng trong bài viết
của mình có nhắc đến Từ Chi Ma, Quách
Mạt Nhược, Lão Xá, Mao Thuẫn, Đinh
Linh và tác phẩm “Đời Ahy” (tức AQ
chính truyện của Lỗ Tấn) nhưng cũng chỉ ở
mức nêu tên tác giả, tên tác phẩm, xác định
cái lợi của việc dùng văn bạch thoại và giới
thiệu để người đọc “Xem qua đủ thấy
người Tàu biết nhận cái ảnh hưởng của
Thái Tây về hình thức cũng như về tinh
thần”(5). Các bài viết của Trực Tâm, Phan
Khôi, Quán Chi cũng không vượt quá việc
nhìn nhận tiến bộ của văn học Trung Quốc
về phương diện ngôn ngữ, văn tự. Phan
Khôi điểm qua cái lợi của văn bạch thoại ở
chỗ “viết và nói có một” và văn bạch thoại
là “văn học sống” để từ đó dự báo văn học
Trung Quốc từ một vị trí kém cỏi hẳn sẽ có
một địa vị trên văn đàn thế giới(6), còn
Quán Chi ghi nhận sự thắng lợi của lối văn
bạch thoại của Trung Quốc nhờ công “của
Lỗ Tấn với các bạn đồng chí đối với văn
học và dân gian giáo dục nước Tàu”(7).
Quả thật, đến đầu thập niên 1940, nước
ta không có nhiều thông tin và cũng không
nắm được thực chất của quá trình hiện đại
hoá văn học Trung Quốc với tư cách là
cuộc “vận động đấu tranh về nội dung văn
học trong thời kì 1917 – 1927 bắt đầu với
cuộc “cách mạng văn học” và chuyển lần
tới vận động “văn học cách mạng”(8). Thậm
chí, có người như Hoài Thanh còn cho
rằng: “Trung Quốc hiện đại không có gì
nữa, chỉ có cách phải quay về những cái
đẹp cổ xưa như sứ Giang Tây, thơ
Đường”(9).
3. ĐẾN Ý THỨC NGHIÊN CỨU, GIỚI
THIỆU
Trước tình hình như có một “khoảng
trắng” trong quan hệ văn hoá, văn học Việt
– Trung đương đại, Đặng Thai Mai – một
trí thức yêu nước vốn có nhiều “cơ duyên”
với văn hoá Trung Quốc qua nhịp cầu Lỗ
Tấn(10) - đã quyết định giới thiệu nền văn
học mới Trung Quốc, để qua đó, góp phần
tác động đến lớp thanh niên và cả giới sáng
tác văn học “đang đi vào lĩnh vực cá nhân
chủ nghĩa, than khóc, mơ mộng, bi lụy, an
bài”(11). Ông nêu rõ điều này trong Lời giới
thiệu cuốn Tạp văn trong văn học Trung
Quốc ngày nay (1945) : “Giới thiệu “Tạp
văn trong văn học Trung Quốc ngày nay”
cùng các độc giả nước ta, chúng tôi rất
mong rằng các bạn thanh niên nếu ai có chí
hướng “từ đời sống đại chúng bước vào
lĩnh vực văn nghệ” sau này, sẽ nhận rõ mục
đích và ý nghĩa văn học đại chúng trong
một thời kì lịch sử Trung Quốc. Một nền
„nghệ thuật vị nhân sinh‟ không bao giờ
khinh miệt tính cách thời sự của văn
nghệ”(12).
Đặng Thai Mai mở đầu cho việc
nghiên cứu, giới thiệu văn hoá, văn học
hiện đại Trung Quốc bằng hiện tượng Lỗ
Tấn, bởi theo ông, Lỗ Tấn không chỉ là
người có tâm hồn đồng điệu mà “đằng sau
Lỗ Tấn còn có cả một tư trào văn học, một
cuộc đấu tranh, một thời đại oanh liệt với
nhiều nhà văn khác nữa”(13). Tác phẩm đầu
tiên của Lỗ Tấn được ông chọn giới thiệu
là bài thơ Người với thời gian, in trong
mục Danh văn ngoại quốc, báo Thanh nghị
số 23/1942. Ông giới thiệu Lỗ Tấn là “một
nhà nghệ thuật tân tiến của nước Tàu” và
hẹn sẽ dịch, giới thiệu AQ chính truyện,
giảng văn thơ Lỗ Tấn để người đọc Việt
Nam có dịp “hiểu” và “gặp” một văn hào
lớn của thế giới(14).
Sau Người với thời gian, trong năm
1942 và 1943, cũng trên Thanh nghị, Đặng
Thai Mai giới thiệu Lỗ Tấn khá đều đặn
với nhiều thể loại như Bóng từ giã người
(thơ – Thanh nghị số/1942), Người qua
đường (kịch – Thanh nghị số 26/1942),
18
Khổng Ất Kỉ (truyện ngắn – Thanh nghị số
28/1943), AQ chính truyện (tiểu thuyết –
Thanh nghị số từ số 33 đến 44/1943, Vì sao
tôi viết truyện AQ chính truyện (tạp văn –
Thanh nghị số 48/1943), Chó, mèo, chuột
(tạp văn – Thanh nghị số 50/1943). Nhà
nghiên cứu còn viết một khảo luận công
phu về Lỗ Tấn (Thanh nghị các số 45, 46,
47/1943). Năm 1944, ông tập hợp lại thành
tập sách dày dặn Lỗ Tấn – Thân thế, văn
nghệ, gồm 220 trang. Trong đó, phần khảo
luận về thân thế, địa vị Lỗ Tấn trên văn đàn
Trung Quốc 50 trang, còn lại là tác phẩm
Lỗ Tấn tuyển dịch.
Ngoài Lỗ Tấn, Đặng Thai Mai còn
dịch và giới thiệu kịch của Trần Lâm, Tào
Ngu (hai vở nổi tiếng Lôi vũ và Nhật xuất)
trên Thanh nghị; viết bài giới thiệu về
Những bước đầu tiên trong cuộc vận động
Tân văn hoá của Trung Quốc (Văn mới số
1/1944), khảo luận về Địa vị văn hoá
Trung Quốc trong học thuật của nước ta
sau này (Thanh Nghị đặc san, số 2/1945)...
Về mặt tiếp nhận, Đặng Thai Mai nhận
thức sâu sắc về các cuộc vận động tân văn
hoá, văn học và địa vị của nền văn học mới
Trung Quốc dẫn đến ý thức giới thiệu nền
văn học này ở nước ta. Ngoài ra, có thể
thấy, những nghiên cứu, giới thiệu của nhà
nghiên cứu này đã đem đến một luồng sinh
khí mới trong đời sống tiếp nhận văn hoá,
văn học ở nước ta. Trương Chính ghi nhận:
“Lúc này trên thị trường sách đang lưu
hành các bản dịch của Tản Đà, Đào Trinh
Nhất, Trúc Khê, Nhượng Tống về văn học
Trung Quốc ở những thời đại xa xưa, thực
tình chúng tôi không mấy thiết tha với
những tác phẩm đượm mùi phục cổ ấy.
Còn như Lỗ Tấn, Tào Ngu, là những nhà
văn hiện đại mà lại tiến bộ, tác phẩm của
họ chứa chan sinh khí”(15). Cũng theo
Trương Chính, vào khoảng 1945 – 1946,
nhờ bản dịch Lôi vũ của Đặng Thai Mai,
“làng kịch của ta vốn rời rạc, bỗng hoạt
động hẳn lên như con bệnh được tiếp máu.
Tôi vẫn thường tự nói với mình rằng, sở dĩ
công chúng Việt Nam hoan nghênh nhiệt
liệt Tào Ngu như thế là có phần đóng góp
của ông Đặng Thai Mai. Và phần đóng góp
đó không phải là nhỏ”(16). Trong Lời nói
đầu bản dịch kịch Lôi Vũ viết vào tháng 6
năm 1945, sau in trong cuốn Lôi vũ do nhà
sách Đại Chúng xuất bản năm 1946, Đặng
Thai Mai cũng viết: “Trong lúc phiên dịch
tác phẩm đầu tiên của Tào Ngu, chúng tôi
đã được nhiều bạn đọc tỏ ý hoan nghênh.
Nhiều bạn thanh niên ngỏ ý muốn đem Tào
Ngu để giới thiệu lên sân khấu nước ta
nữa”(17).
Ý kiến của Trương Chính và Đặng
Thai Mai phần nào cho thấy tác động tích
cực về nhiều phương diện của việc giới
thiệu văn học Trung Quốc và tình hình tiếp
nhận quá trình hiện đại hoá của nền văn
học mới Trung Quốc ở nước ta trong thập
niên cuối của nửa đầu thế kỉ XX.
4. MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình
trạng thiếu thông tin hoặc không quan tâm
đến quá trình hiện đại hoá văn hoá, văn học
trong đời sống tiếp nhận ở Việt Nam trong
thời gian khá dài, tính đến đầu thập kỉ 40
của thế kỉ XX.
Trước hết là chuyện ngôn ngữ, văn tự.
Nhận định của Lê Dư thật ra không phải
không có cơ sở. Vận động Tân văn học ở
Trung Quốc khởi đầu bằng việc cải cách
văn tự, điều mà ở nước ta đã thực hiện khá
sớm ở Nam Kì lục tỉnh và đặc biệt sôi nổi,
có tính cách mạng trong phong trào Duy
Tân đầu thế kỉ XX. Đến thập niên thứ hai
của thế kỉ XX, chữ quốc ngữ đã thực sự có
vị trí chính thức trên phạm vi toàn quốc và
thể hiện ưu thế rõ rệt của mình trong sáng
19
tác văn chương, sinh hoạt học thuật. Mặt
khác, nền văn học mới của Trung Quốc
được viết bằng bạch thoại trong khi người
Việt trước đó chỉ học cổ văn. Bạch thoại
hiện đại cũng không giống hẳn bạch thoại
đời trước như lối văn trong Thuỷ hử,
Tây du...
Thứ hai là tình trạng kiểm duyệt. Ở
nước ta từ rất sớm, chính quyền thực dân
đã đặc biệt chú ý đến kiểm duyệt thông tin
từ Trung Quốc, nhất là từ sau bài học thời
kì “Tân thư”. Theo Đặng Thai Mai, “từ đầu
năm 1910 trở đi, chúng đã rào đón rất gắt
không cho tư tưởng mới của Trung Quốc
lọt vào đất nước Việt Nam này nữa. Chúng
đã kiểm duyệt từng tờ báo, từng tạp chí mà
người Hoa kiều mang theo để đọc Bộ
sách Cộng hoà quốc văn là một cuốn sách
dạy cho học sinh Trung Quốc tập đọc và
tập viết văn “mới”. Nhưng chính phủ Đông
Dương cũng cấm lưu hành một tập trong số
đó, chỉ vì trong đó có bài tập đọc có mấy
câu về vận động giải phóng dân tộc bị áp
bức”(18).
Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa hơn cả,
theo chúng tôi, xuất phát từ nhận thức của
trí thức Việt Nam về “Trung Hoa đương
đại” và về quá trình hiện đại hoá văn hoá,
văn học dân tộc. Từ cuối thế kỉ XIX, Trung
Quốc không còn là “mẫu hình” trong nhận
thức của người Việt, nếu không nói đó là
biểu hiện của một thế giới cũ kĩ, già nua
khi so sánh với mẫu hình phương Tây. Đến
đầu thập kỉ 40 của thế kỉ XX, quan niệm
hiện đại hoá học thuật ở nước ta vẫn là
“mượn cái phương pháp khoa học của Tây
phương mà nghiên cứu các vấn đề có liên
lạc đến nền văn hoá của nước mình” như
Dương Quảng Hàm xác định(19). Những
thành tựu của nền văn học mới ở nước ta
cũng được nhìn nhận chủ yếu từ ảnh hưởng
của văn học phương Tây chứ không phải từ
Trung Quốc như ý kiến của Hội Thống Vũ
Văn Lợi: “Theo ngu ý, thì những tiểu
thuyết xuất bản từ 1924 đến nay (Cảnh thu
di hận, Kim Anh lệ sử, Tố Tâm v.v) đều
do những cây bút mới viết ra, chịu ảnh
hưởng của văn chương Pháp thì có, chứ
không hề chịu một chút ảnh hưởng nào của
những cuốn truyện dịch của Tàu”(20). Thêm
vào đó, từ đầu những năm 1930, văn học
nước ta đã tương đối hội đủ những điều
kiện để trở thành một nền văn học hiện đại.
Chủ trương “Tự lực mình làm ra những
sách có giá trị về văn chứ không phiên dịch
sách nước ngoài, nếu những sách này có
tính cách văn chương thôi”(21) của nhóm
Tự lực văn đoàn cũng là tinh thần chung
của nhiều cây bút đương thời và là chủ
trương hợp lí, phù hợp với yêu cầu khẳng
định mình của một nền văn học mới, hiện
đại. Năm 1942, Hoài Thanh – Hoài Chân
đã cho ra mắt Thi nhân Việt Nam, tổng kết
và giới thiệu một thời đại trong thi ca
(1932 – 1941) và Vũ Ngọc Phan trình làng
công trình đồ sộ Nhà văn hiện đại (4 tập, in
lần lượt từ 1942 đến 1945).
Không chỉ không quan tâm đến văn
học mới Trung Quốc, những năm 1930,
giới nghiên cứu và độc giả ở nước ta còn
“xao lãng” cả văn học cổ điển Trung Quốc,
đến mức Á Nam Trần Tuấn Khải phải than:
“ai nấy cũng chỉ đua nhau khuynh hướng
về cái học tân thời Đến nỗi bao nhiêu
những cái hay cái giỏi của áng văn chương
Trung Quốc ngày xưa không còn có địa vị
nào xuất hiện ra nơi học giới”(22). Tuy
nhiên, cũng từ cuối những năm 1930, với
sự thắng lợi của Mặt trận Bình dân bên
Pháp (1936) và sự thành lập Mặt trận Nhân
dân Đông Dương (Mặt trận Bình dân) ở
nước ta (1938), sách báo Trung Quốc qua
Việt Nam có phần dễ dàng hơn. Đồng thời,
đó là sự xuất hiện của những trí thức yêu
20
nước có khuynh hướng cách mạng đặc biệt
quan tâm đến “nền văn học chiến đấu, đại
chúng và hiện thực”(23) của Trung Quốc,
tiêu biểu là Đặng Thai Mai, dẫn đến sự
xuất hiện của một số công trình nghiên
cứu, giới thiệu văn học hiện đại Trung
Quốc ở nước ta vào những năm đầu thập kỉ
40 của thế kỉ XX như đã kể trên. Tiếp nhận
văn học mới ở Trung Quốc qua giới thiệu,
nghiên cứu của Đặng Thai Mai cho thấy
đây chưa phải là chuyện xuất phát từ nhu
cầu nội tại của hiện đại hoá văn học dân
tộc mà trước hết là từ yêu cầu xây dựng
một nền văn học có tính chiến đấu, đại
chúng và hiện thực, gắn với bối cảnh lịch
sử - cụ thể của xã hội Việt Nam trước Cách
mạng tháng 8/1945.
Quá trình tiếp nhận nền văn học mới
của Trung Quốc ở Việt Nam trong nửa đầu
thế kỉ XX cũng phần nào cho thấy sự
chuyển biến trong quan hệ văn hoá, văn
học giữa hai nước trong bối cảnh cùng tiếp
xúc và chịu sự tác động mạnh mẽ của văn
hoá, văn minh phương Tây. Ở cả hai nước
đều xuất hiện nhu cầu hiện đại hoá văn hoá
nói chung, hiện đại hoá văn học nói riêng,
nhưng mối quan tâm đến văn hoá, văn học
Trung Quốc ở Việt Nam đã khác xa với
truyền thống. Đây cũng là hiện tượng có
tính tất yếu khi một nền văn học đang vươn
ra khỏi phạm vi khu vực đậm màu sắc văn
học trung đại để đi vào con đường có tính
quốc tế hoá, từng bước hoà nhịp vào phạm
trù văn học hiện đại.
Chú thích:
(1)
Huỳnh Minh Đức (1972), Hồ Thích và cuộc vận động tân văn học, Trung tâm học liệu –
Bộ Giáo dục, Sài Gòn.
(2)
Viện Khoa học xã hội Việt Nam & Viện Nghiên cứu Trung Quốc (2004), Phong trào
Ngũ Tứ 85 năm nhìn lại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
(3) Vũ Ngọc Phan (1965), “Hồi ức về phê bình văn học trước Cách mạng tháng Tám”, Tạp
chí Văn học (số 9).
(4)
Lê Dư (1933), “Nguồn gốc của văn học nước nhà và nền văn học mới”, Nam phong tạp
chí (số 190), tr. 399 – 408.
(5)
Nguyễn Tiến Lãng (1934), “Văn mới của người Tàu”, Nam phong tạp chí (số 210), tr.
318 – 333.
(6)
Phan Khôi (1937), “Trên đàn văn học thế giới, văn học Trung Hoa ở địa vị nào ?” Đông
Dương tạp chí (số 28), tr. 19 – 20.
(7)
Quán Chi (1941), “Nhớ lại Lỗ Tấn và lối văn bạch thoại nước Tàu”, Trung Bắc chủ nhật
(số 61), tr. 24 – 25.
(8) Đặng Thai Mai, Lược sử Trung Quốc hiện đại (tâp 1), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1958, tr. 98
– 99.
(9) Đặng Thai Mai (1997), Đặng Thai Mai toàn tập (tập 4), Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 694.
(10) Đặng Thai Mai (1994), “Mấy điều nhớ lại trên đường tiếp xúc với văn học Trung Hoa”
(1959), trong Xã hội sử Trung Quốc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 283 – 314.
(11) Đặng Thai Mai (1997), Toàn tập (tập 4), Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 389.
21
(12) Đặng Thai Mai (1997), Toàn tập (tập1), Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 594.
(13) Đặng Thai Mai (1994), Xã hội sử Trung Quốc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 310.
(14) Đặng Thai Mai (1942), “Một bài thơ Lỗ Tấn”, Thanh nghị (số 23), tr. 16.
(15)
Trương Chính (1997), Tuyển tập Trương Chính, (tập 2), Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 299
– 300.
(16)
Thuý Toàn (biên soạn) (1996), Dịch văn học và văn học dịch, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.
92.
(17) Đặng Thai Mai (1997), Toàn tập (tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 393.
(18) Đặng Thai Mai (1998), Toàn tập (tập3), Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 1000.
(19)
Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Giáo dục – Trung tâm học
liệu xuất bản, Saigon, tr. 461.
(20) Hội Thống Vũ Văn Lợi (1941), “Đọc Đại Việt văn học lịch sử của Nguyễn Sĩ