VJE Tạp chí Giáo dục, Số 477 (Kì 1 - 5/2020), tr 11-17 ISSN: 2354-0753 
11 
QUẢN LÍ CHẤT LƯỢNG TRONG CÁC TRUNG TÂM GIÁO DỤC 
QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH THEO TIẾP CẬN AUN-QA 
Hà Mạnh Hùng 
Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 
Email: 
[email protected] 
Article History ABSTRACT 
Received: 01/4/2020 
Accepted: 23/4/2020 
Published: 05/5/2020 
Building a strong national defense plays an important role in every nation 
nowadays. Specifically, defense and security education for students is of great 
importance in human education and training strategy. The article analyzes the 
model, AUN-QA quality management standards and the application of 
quality management according to AUN-QA approach in defense and security 
education centers, and thereby contributing to building and renewing the 
quality management system in these centers in the coming time. This is an 
important theoretical basis to guide, suggest and enable authors, as well as 
scientists and managers in defense and security education centers to continue 
researching and implementing the quality management model according to 
AUN-QA approach. 
Keywords 
quality management, 
Defense and security 
education, AUN-QA. 
1. Mở đầu 
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh trong giai đoạn cách mạng hiện nay có vị trí 
rất quan trọng đối với mọi quốc gia. Theo Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh (GDQP&AN) thì “GDQP&AN là 
trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo” (Quốc hội, 2013). Vì vậy, 
GDQP&AN cho sinh viên (SV) cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự nghiệp GD-ĐT, để góp phần thực hiện 
thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 
Hiện nay, các trung tâm GDQP&AN đã thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo GDQP&AN cho SV; đồng thời, vấn đề 
chất lượng, quản lí chất lượng (QLCL) ngày càng được quan tâm nghiên cứu và triển khai. Cùng với sự phát triển 
của toàn cầu hoá, mô hình đảm bảo chất lượng (ĐBCL) AUN-QA (ASEAN University Network - Quality 
Assurance) đã ra đời để đáp ứng yêu cầu phát triển của giáo dục hiện đại. Trong bối cảnh đó, các trung tâm 
GDQP&AN cần thiết phải xây dựng một hệ thống QLCL vừa hiện đại, vừa đáp ứng mục tiêu, nhiệm vụ đào tạo, 
ĐBCL chương trình dạy và học, nhằm trang bị kiến thức về quốc phòng, an ninh, kĩ năng quân sự cho SV một cách 
hiệu quả. 
Nghiên cứu về chất lượng đào tạo GDQP&AN đã có một số công trình, đề tài đề cập ở Việt Nam, nhưng hầu 
hết tập trung vào giải pháp quản lí dạy học GDQP&AN, coi GDQP&AN là một môn học và hướng tới việc nâng 
cao chất lượng dạy học môn học này. 
Tác giả Hà Văn Công (2006) chỉ đề cập đến vấn đề nâng cao chất lượng giảng dạy môn học GDQP-AN với 
những tiêu chí về việc ĐBCL giảng dạy, chưa đặt vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện trong công tác 
GDQP&AN. Bên cạnh đó, nghiên cứu chỉ giới hạn ở một trung tâm GDQP&AN nên cũng khá hạn chế. Hoàng 
Văn Tòng (2013) đề cập tới vấn đề quản lí nhưng cũng chỉ tập trung nghiên cứu quản lí thực thi chương trình 
GDQP&AN cho SV các trường đại học, nghĩa là mới chỉ nghiên cứu về quản lí một khâu trong việc nâng cao chất 
lượng đào tạo môn học này. 
Vũ Thanh Tùng (2016) đã tập trung nghiên cứu trên một phương diện quan trọng trong hoạt động giáo dục, 
nâng cao chất lượng đào tạo là phát triển chương trình giáo dục để góp phần thúc đẩy hoạt động dạy học 
GDQP&AN cho SV các trường đại học trở nên hiệu quả hơn, đáp ứng được yêu cầu của người học, nhiệm vụ xây 
dựng và bảo vệ đất nước trong từng giai đoạn. 
Có thể nhận thấy, các tác giả trên đã khẳng định tầm quan trọng, vị trí, ý nghĩa, mục đích của công tác 
GDQP&AN, sự cần thiết của nội dung GDQP&AN trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời chỉ 
ra những thực trạng, phương hướng nhằm nâng cao chất lượng GDQP&AN hay đề xuất các giải pháp có giá trị 
thực tiễn nhằm tác động đến quản lí để làm thay đổi chất lượng đào tạo GDQP&AN ở các cơ sở đào tạo. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 477 (Kì 1 - 5/2020), tr 11-17 ISSN: 2354-0753 
12 
Bài viết phân tích mô hình, bộ tiêu chuẩn ĐBCL cấp trường của AUN-QA về QLCL và việc áp dụng QLCL theo 
tiếp cận AUN-QA trong các trung tâm GDQP&AN, qua đó góp phần giúp các trung tâm xây dựng và đổi mới hệ 
thống QLCL trong thời gian tới. 
2. Kết quả nghiên cứu 
2.1. Khái niệm “Quản lí chất lượng trong các trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh” 
Trung tâm GDQP&AN là cơ sở giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh, kĩ năng quân sự cho các 
đối tượng theo quy định của Luật GDQP&AN, “đào tạo môn học GDQP&AN cho SV các trường đại học, cao đẳng 
ở Việt Nam theo chương trình, đối tượng quy định” (Quốc hội, 2013). 
Trong quá trình hoạt động, mọi tổ chức đều quan tâm đến chất lượng sản phẩm, chất lượng hoạt động. Hoạt động 
quản lí các yếu tố chất lượng và quá trình theo định hướng chất lượng được gọi là QLCL (Hà Mạnh Hùng, 2016). 
QLCL giáo dục là xây dựng và vận hành hệ thống quản lí trên cơ sở bộ chuẩn, tác động vào tất cả các lĩnh vực của 
một cơ sở giáo dục, vào tất cả các giai đoạn của quá trình giáo dục, đảm bảo không có lỗi trong các giai đoạn đó, 
nhằm tạo ra chất lượng của toàn bộ sản phẩm của quá trình giáo dục (Nguyễn Đức Chính, 2017). Đã có những nghiên 
cứu về QLCL ở góc độ tiếp cận khác nhau; tuy nhiên, các nhà khoa học đều thống nhất về QLCL ở những điểm: 
- Thiết lập chuẩn; - Đối chiếu thực trạng với chuẩn; - Đưa ra các giải pháp nâng thực trạng ngang chuẩn. Theo tác 
giả, QLCL trong các trung tâm GDQP&AN là quản lí tất cả các điều kiện tạo nên chất lượng trong trung tâm, bao 
gồm một hệ thống quản lí với sự tham gia và tương tác lẫn nhau của nhiều thành tố, vận hành hệ thống quản lí hướng 
tới đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu của các bên liên quan. 
2.2. Mô hình đảm bảo chất lượng của AUN-QA 
2.2.1. Mô hình đảm bảo chất lượng cấp trường của AUN-QA (xem hình 1) 
Với mục đích phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục đại học trong ASEAN, AUN (ASEAN University 
Network) là mạng lưới các trường đại học hàng đầu khu vực Đông Nam Á được thành lập vào tháng 11/1995, bởi 
sáng kiến của Hội đồng Bộ trưởng giáo dục các nước Đông Nam Á, với các thành viên ban đầu do Bộ trưởng giáo 
dục các nước đề cử. AUN-QA là bộ tiêu chuẩn với các quy tắc chất lượng khắt khe, có tiêu chí cụ thể rõ ràng, tập 
trung đánh giá những điều kiện để ĐBCL đào tạo của toàn bộ chương trình đào tạo. 
Kể từ khi thành lập, AUN đã xem xét chất lượng đào tạo là một mục tiêu quan trọng nhằm khẳng định với quốc 
tế về sự phát triển của giáo dục đại học Đông Nam Á, tạo ra sự liên thông và công nhận chất lượng đào tạo lẫn nhau 
giữa các trường đại học trong và ngoài mạng lưới AUN. Nhằm đẩy mạnh công tác ĐBCL bên trong các trường đại 
học, AUN đã đưa ra sáng kiến đánh giá chất lượng giáo dục đại học của các trường trong khu vực Đông Nam Á theo 
bộ tiêu chuẩn ĐBCL chung khu vực ASEAN được ban hành vào năm 2004. 
Nhằm xây dựng nền tảng quản lí nhà trường theo hướng hiện đại và khoa học, các trường đại học khi vận dụng 
mô hình ĐBCL cấp trường của AUN-QA nên bắt đầu từ việc hoạch định và công bố các văn bản quản lí theo mô 
hình sau: 
Hình 1. Mô hình ĐBCL cấp trường của AUN-QA (University Network Quality, 2016) 
Mô hình ĐBCL cấp cơ sở giáo dục bắt đầu từ việc xác định yêu cầu của các bên liên quan và việc nhà trường 
chuyển tải những yêu cầu này vào tầm nhìn, sứ mạng, mục đích và mục tiêu của đơn vị. Điều này có nghĩa là hoạt 
Sự hài lòng của các bên liên quan 
Sứ mạng 
Mục đích 
Mục tiêu 
Chính sách 
kế hoạch 
Quản lí 
Nhân lực 
Ngân sách 
Các hoạt động 
đào tạo 
Nghiên cứu 
Phục vụ 
cộng đồng 
THÀNH 
QUẢ 
ĐBCL và Đối sách Quốc gia/Quốc tế 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 477 (Kì 1 - 5/2020), tr 11-17 ISSN: 2354-0753 
13 
động đảm bảo và đánh giá chất lượng luôn bắt đầu từ sứ mạng và mục đích (cột 1) và kết thúc là các thành quả đạt 
được (cột 4), nhằm thỏa mãn yêu cầu của các bên liên quan. Cột 2 cho thấy cách thức nhà trường hoạch định kế 
hoạch để đạt được mục tiêu: - Chuyển tải các mục tiêu vào chính sách và chiến lược; - Cấu trúc và cách thức quản lí 
của nhà trường; - quản lí nguồn nhân lực: tuyển dụng nhân sự để đạt được các mục tiêu; - Ngân sách giúp đạt được 
những mục tiêu đề ra. Cột 3 thể hiện các hoạt động cốt lõi của trường đại học: - Các hoạt động dạy và học; - Các 
hoạt động nghiên cứu; - Đóng góp cho xã hội và hỗ trợ, đóng góp vào sự phát triển cộng đồng. 
2.2.2. Bộ tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng của AUN-QA 
Bộ tiêu chuẩn ĐBCL của AUN-QA (Asean University Network, 2016) đánh giá chất lượng 4 mặt của một đơn 
vị giáo dục đại học, bao gồm: 
- Về chiến lược, các đơn vị phải đảm bảo được 8 tiêu chuẩn sau: 1) Tầm nhìn, sứ mạng và văn hóa; 2) Hệ 
thống quản trị; 3) Lãnh đạo và quản lí; 4) Quản trị chiến lược; 5) Các chính sách về đào tạo, nghiên cứu khoa 
học và phục vụ cộng đồng; 6) Quản lí nguồn nhân lực; 7) Quản lí tài chính và cơ sở vật chất; 8) Các mạng lưới 
và quan hệ đối ngoại. 
- Về hệ thống, các đơn vị phải xem xét chất lượng ở 4 tiêu chuẩn: 9) Hệ thống ĐBCL bên trong; 10) Đánh giá 
chất lượng bên trong và bên ngoài; 11) Hệ thống thông tin ĐBCL bên trong; 12) Nâng cao chất lượng. 
- Về chức năng, các trường đại học phải đảm bảo 9 tiêu chuẩn: 13) Tuyển sinh và nhập học; 14) Thiết kế và rà 
soát chương trình dạy học; 15) Giảng dạy và học tập; 16) Đánh giá SV; 17) Các hoạt động phục vụ và hỗ trợ SV; 
18) Quản lí nghiên cứu khoa học; 19) Quản lí tài sản trí tuệ; 20) Hợp tác và đối tác nghiên cứu khoa học; 21) Kết nối 
và phục vụ cộng đồng. 
- Về kết quả hoạt động phản ánh chất lượng của một đơn vị đào tạo đại học ở 4 tiêu chuẩn: 22) Kết quả đào 
tạo; 23) Kết quả nghiên cứu khoa học; 24) Kết quả đóng góp phục vụ cộng đồng; 25) Kết quả tài chính và thị 
trường giáo dục. 
Từ 25 tiêu chuẩn, AUN-QA đưa ra 111 chỉ báo để đánh giá chi tiết từng tiêu chuẩn. Những tiêu chuẩn mà 
AUN-QA năm 2016 đưa ra trên cơ sở đồng nhất các tiêu chuẩn ĐBCL của 3 cấp trong các bộ tiêu chuẩn AUN-
QA trước đây. 
2.3. Đặc điểm hoạt động của trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh 
Thứ nhất, các trung tâm GDQP&AN chịu sự quản lí liên Bộ với nhiều cấp chỉ đạo nên ảnh hưởng đến hoạt động 
và xây dựng, hoàn thiện hệ thống QLCL (theo Luật GDQP&AN, có trung tâm thuộc Bộ GD-ĐT quản lí và trung 
tâm thuộc các trường Quân sự do Bộ Quốc phòng quản lí). Tuy vậy, các trung tâm GDQP&AN lại không hoạt động 
như một khoa trực thuộc mà là cơ sở giáo dục, có tư cách pháp nhân và tài khoản, con dấu riêng. Trung tâm 
GDQP&AN có thể được coi là một đơn vị đào tạo độc lập, được quản lí và cấp chứng chỉ GDQP&AN (Bộ Quốc 
phòng, Bộ GD-ĐT, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, 2015). 
Thứ hai, có sự liên kết chặt chẽ giữa trung tâm GDQP&AN với các trường đại học. Trung tâm GDQP&AN thực 
hiện GDQP&AN cho SV của nhiều trường đại học, với các chuyên ngành khác nhau. Sự liên kết đào tạo theo kế 
hoạch GDQP&AN cho SV hàng năm chưa được thống nhất, do đó số lượng SV không đồng đều trong mỗi khóa 
đào tạo. Thời gian liên kết khác nhau nên ảnh hưởng đến kế hoạch giảng dạy và học tập GDQP&AN, do đó tác động, 
chi phối tới phương thức quản lí và nội dung QLCL. 
Thứ ba, Do đặc thù hoạt động đào tạo và thường xuyên liên kết đào tạo với nhiều trường đại học khác nhau nên 
các trung tâm GDQP&AN phải thực hiện đúng, đầy đủ nội dung chương trình GDQP&AN (Bộ GD-ĐT, 2012). 
ĐBCL và hiệu quả theo quy định. Bên cạnh đó, phương pháp tổ chức dạy học trong các trung tâm cũng rất đặc biệt. 
SV học tập trung tại trung tâm theo Quyết định số 161/QĐ-TTg ngày 30/01/2015 của Thủ tướng Chính phủ (2015); 
việc giảng dạy đòi hỏi phải có thao trường, bãi tập đủ rộng, vũ khí, khí tài chuyên dùng đặc chủng, chuyên dụng phù 
hợp hoàn cảnh chiến tranh hiện đại. 
Thứ tư, Đội ngũ giảng viên nòng cốt cơ bản là sĩ quan Quân đội biệt phái, vừa là người dạy, người chỉ huy 
nhưng đồng thời là cán bộ quản lí trực tiếp SV. Người học rất đa dạng, đó là những SV ở các trường cao đẳng, 
đại học trong cả nước với các ngành học, bậc học, trình độ khác nhau, nhưng học cùng một chương trình 
GDQP&AN. Thời gian học tập GDQP&AN tập trung với 7-9 tiết/ngày, chịu ảnh hưởng nhiều của thời tiết, khí 
hậu, môi trường. Địa điểm học tập cũng đa dạng, có thể ở lớp học (giảng đường) hoặc ngoài thao trường (bãi 
tập). Ngoài học tập, người học còn phải rèn luyện chấp hành kỉ luật, thực hiện nền nếp đó là “3 chế độ trong 
tuần, 11 chế độ trong ngày” (Bộ Quốc phòng, 2011). 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 477 (Kì 1 - 5/2020), tr 11-17 ISSN: 2354-0753 
14 
2.4. Những căn cứ để vận dụng AUN-QA vào quản lí chất lượng trong các trung tâm Giáo dục quốc phòng và 
an ninh 
Thứ nhất, xây dựng hệ thống QLCL là phù hợp với xu thế phát triển GD-ĐT. Do đó, GD-ĐT nói chung, giáo 
dục đại học nói riêng phải không ngừng nâng cao chất lượng. Trung tâm GDQP&AN thuộc trường đại học trong cả 
nước cũng không nằm ngoài yêu cầu về nâng cao chất lượng để đảm bảo công tác GDQP&AN đạt được mục tiêu 
mà Nhà nước đề ra. 
Thứ hai, tiếp cận AUN-QA cấp trường sẽ cải tiến hệ thống QLCL hiện tại và chuyển sang mô hình QLCL tiên 
tiến. QLCL cấp trung tâm sẽ cải tiến được chất lượng hiện tại. 
Thứ ba, QLCL tiếp cận theo mô hình AUN-QA cấp trường sẽ giúp các trung tâm từng bước đáp ứng các tiêu 
chuẩn ĐBCL khu vực ASEAN, cụ thể: ĐBCL các tiêu chuẩn về đội ngũ giảng viên; cơ sở vật chất, dịch vụ hỗ trợ, 
chất lượng đầu ra của SV khi hoàn thành môn học. 
Thứ tư, tiếp cận theo mô hình ĐBCL bên trong giúp các trung tâm GDQP&AN xây dựng được hệ thống giám 
sát, đánh giá chất lượng một cách chính xác và hiệu quả. Đây là căn cứ để phát hiện các tồn tại cần khắc phục nhằm 
ĐBCL ở trung tâm. 
Thứ năm, Việc vận dụng AUN-QA vào QLCL ở trung tâm GDQP&AN trở thành một tất yếu khách quan để phù 
hợp với xu thế khu vực hóa, quốc tế hóa giáo dục. 
2.5. Quản lí chất lượng trong các trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh theo tiếp cận AUN-QA 
2.5.1. Xây dựng hệ thống quản lí chất lượng trong các trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh theo tiếp cận 
AUN-QA (xem hình 2) 
Hình 2. Cấu trúc hệ thống QLCL trong các trung tâm GDQP&AN 
Cấu trúc hệ thống QLCL được xây dựng dựa theo cơ cấu tổ chức của trung tâm GDQP&AN (Bộ Quốc phòng, 
Bộ GD-ĐT, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, 2015). Đứng đầu là Ban Giám đốc chịu trách nhiệm cao nhất về 
QLCL của trung tâm và cũng trực tiếp ĐBCL về mặt chiến lược. Cấp dưới là các Khoa/Bộ môn trực tiếp chịu trách 
nhiệm chất lượng đào tạo, các Phòng/ban chuyên môn chịu trách nhiệm về chất lượng nguồn lực hay ĐBCL về mặt 
chức năng và kết quả hoạt động. Để thực hiện việc kiểm tra, đánh giá chất lượng của trung tâm làm cơ sở cho hoạt 
động ĐBCL, trung tâm thành lập bộ phận riêng là Phòng/Bộ phận Kiểm định và ĐBCL. Đây cũng là bộ phận chịu 
trách nhiệm ĐBCL về mặt hệ thống. 
2.5.2. Vận hành hệ thống quản lí chất lượng trong các trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh (xem hình 3) 
Hình 3. Vận hành hệ thống QLCL trong các trung tâm GDQP&AN 
Lập kế hoạch, 
chiến lược 
Lựa chọn bộ tiêu chuẩn 
chất lượng 
Xác định 
 trách nhiệm 
Triển khai 
thực hiện 
 Báo cáo kết quả 
kiểm định 
Kiểm tra, điều chỉnh, 
cải tiến chất lượng 
BAN GIÁM ĐỐC 
Khoa/Bộ môn Phòng (ban) chức năng 
Phòng/Bộ phận Kiểm định 
và ĐBCL 
Các điều kiện ĐBCL 
Đánh giá kết quả đầu ra 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 477 (Kì 1 - 5/2020), tr 11-17 ISSN: 2354-0753 
15 
- Lựa chọn bộ tiêu chuẩn chất lượng. Trung tâm xác định tiêu chuẩn chất lượng cho các thành tố cần QLCL theo 
tiếp cận AUN-QA. Bộ tiêu chuẩn phải thể hiện được mục tiêu chất lượng, phù hợp với bối cảnh phát triển. Bộ tiêu 
chuẩn chất lượng là căn cứ để thực hiện đánh giá, kiểm định và BĐCL. Đây cũng là cơ sở của hoạt động QLCL trong 
trung tâm GDQP&AN. 
- Lập kế hoạch, chiến lược QL: Trung tâm xác định kế hoạch, nhiệm vụ QLCL dựa trên cơ sở mục tiêu, mục đích 
đào tạo. Kế hoạch chiến lược quản lí cũng là việc vạch ra cách thức, giải pháp để đạt được yêu cầu chất lượng hay 
đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng được đặt ra; trong mỗi kế hoạch thường bao gồm các nội dung như: xác định hình 
thành mục tiêu, xác định và đảm bảo về nguồn lực của tổ chức để đạt được mục tiêu và cuối cùng là quyết định các 
hoạt động cần thiết để đạt được mục tiêu đề ra. 
- Xác định trách nhiệm: Trung tâm xây dựng hệ thống QLCL với việc phân cấp quản lí và xác định trách nhiệm 
cho từng bộ phận tham gia. Đặc biệt, xây dựng bộ phận chuyên trách kiểm định và ĐBCL để triển khai kế hoạch, 
chiến lược quản lí đã đặt ra. Điều này định hình công tác quản lí cũng như hiệu quả QLCL của các trung tâm. 
- Thực hiện triển khai: 
+ Công bố các văn bản về chất lượng và các chính sách ĐBCL đã được xây dựng, xét duyệt (bằng quyết định 
của lãnh đạo cao nhất trung tâm). 
+ Ban chỉ đạo (cấp quản lí cao nhất) tổ chức phổ biến các văn bản đã ban hành nhất là các văn bản liên quan tới 
nhiều bộ phận và cá nhân như (Chính sách, mục tiêu chất lượng của trung tâm; các quy trình kiểm định chất lượng...); 
nhắc nhở các bộ phận, cá nhân những điều cần chú ý khi thực hiện hệ thống QLCL. Các đơn vị sau khi nhận nhiệm 
vụ, phải nhanh chóng triển khai thực hiện những phần việc có liên quan, cụ thể hoá các chỉ tiêu về chất lượng của 
từng bộ phận, từng cá nhân làm căn cứ để đảm bảo đạt được các tiêu chí đã xây dựng. 
+ Ban chỉ đạo và từng bộ phận rà soát, điều chỉnh việc phân công, trách nhiệm, quyền hạn đối với cán bộ viên 
chức trong quá trình thực hiện hệ thống QLCL. Lập sổ theo dõi để ghi chép tình hình thực hiện, những sai sót cần 
khắc phục, những bất hợp lí cần xem xét bổ sung, điều chỉnh Các ghi chép này được cập nhật hàng tuần và báo 
cáo hàng tháng với Ban lãnh đạo để xem xét xử lí. 
+ Đào tạo đánh giá viên (chọn một số cán bộ từ các bộ phận/ đơn vị để được đào tạo, huấn luyện công tác đánh 
giá, kiểm định chất lượng bên trong). Đánh giá viên sẽ là cộng tác viên giúp Ban lãnh đạo theo dõi quá trình thực 
hiện hệ thống QLCL và sẽ là thành viên của nhóm đánh giá chất lượng bên trong. 
+ Đánh giá chất lượng bên trong: Bộ phận kiểm định tiến hành đánh giá, kiểm định chất lượng nội bộ theo các 
điều kiện ĐBCL để xem xét có phù hợp với các yêu cầu của tiêu chuẩn hay không; hiệu lực và hiệu quả như thế nào 
và tổng hợp các kết quả đánh giá. Việc kiểm định, đánh giá chất lượng được thực hiện theo định kì hàng năm hoặc 
1 năm 2 lần. 
+ Quản lí hệ thống thông tin ĐBCL bên trong: Bộ phận kiểm định và ĐBCL cũng phải chịu trách nhiệm quản lí 
hệ thống thông tin ĐBCL bao gồm: Lập kế hoạch quản lí thông tin ĐBCL bên trong (thu thập, xử lí, báo cáo và 
thông tin đến và đi từ các bên liên quan trong việc hỗ trợ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng 
đồng được thiết lập); Phân tích thông tin về ĐBCL bên trong (các dữ liệu được phân tích, phù hợp và sẵn sàng để 
các bên liên quan tiếp cận một cách kịp thời nhằm hỗ trợ việc ra quyết định, đồng thời đảm bảo sự thống nhất, bảo 
mật và an toàn của cơ sở giáo dục); Rà soát thường xuyên số lượng, chất lượng của dữ liệu và thông tin cũng như sự 
thống nhất, bảo mật và an toàn của cơ sở giáo dục; Đưa ra biện pháp cải tiến chất lượng để hỗ trợ đào tạo, nghiên 
cứu khoa học và phục vụ cộng đồng. 
- Báo cáo kết quả kiểm định: Trên cơ sở kết quả đánh giá chất lượng của từng nội dung, bộ phận kiểm định và 
ĐBCL sẽ hoàn thiện báo cáo lên Ban lãnh đạo trung tâm. Kết quả kiểm định chỉ ra những nội dung đã ĐBCL, những 
nội dung chưa đạt tiêu chuẩn. Đây là căn cứ để đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng trong các trung tâm 
GDQP&AN. 
- Kiểm tra, điều chỉnh, cải tiến chất lượng: Trên cơ sở báo cáo kết quả kiểm định chất lượng, các nhà quản lí 
trong trung tâm tìm ra giải pháp để giải quyết các vấn đề liên quan đến những nội dung chưa đạt tiêu chuẩn nhằm 
ĐBCL của trung tâm. Các giải pháp được cụ thể hoá thành các chiến lược, phương án hành động và triển khai thực 
hiện nâng cao chất lượng. Tuỳ theo điều kiện thực t