Tóm tắt
Vùng biển đảo Bà Rịa - Vũng Tàu là một khu vực phát triển rất năng động, từ đầu thế kỷ XIX tàu
thuyền nước ngoài ra vào bán buôn nhộn nhịp, triều đình nhà Nguyễn đã thi hành nhiều chính sách bảo
vệ chủ quyền, gắn chặt với việc phát triển các ngành kinh tế biển như xây dựng đồn bót, pháo đài, tăng
cường quân số, khí giới, tuần tra ở những khu vực xung yếu, trên dọc tuyến biển Bà Rịa – Vũng Tàu và
Côn Đảo.
Bằng phương pháp lịch sử, bài viết dựng lại bức tranh lịch sử khá sinh động quá trình quản lí, bảo vệ
chủ quyền và phát triển kinh tế biển ở Bà Rịa – Vũng Tàu trong nửa đầu thế kỉ XIX.
11 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 260 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quản lí và khai thác biển đảo Bà Rịa – Vũng Tàu nửa đầu thế kỉ XIX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5(30) - Thaùng 7/2015
26
Quản lí và khai thác biển đảo Bà Rịa – Vũng Tàu
nửa đầu thế kỉ XIX
Management and exploitation of Ba Ria – Vung Tau
islands in the early XIX century
TS. Phạm Ngọc Trâm
Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn – Đại học Quốc gia TP.HCM
Ph.D. Pham Ngoc Tram
University of Social Sciences and Humanities – National University Ho Chi Minh City
Tóm tắt
Vùng biển đảo Bà Rịa - Vũng Tàu là một khu vực phát triển rất năng động, từ đầu thế kỷ XIX tàu
thuyền nước ngoài ra vào bán buôn nhộn nhịp, triều đình nhà Nguyễn đã thi hành nhiều chính sách bảo
vệ chủ quyền, gắn chặt với việc phát triển các ngành kinh tế biển như xây dựng đồn bót, pháo đài, tăng
cường quân số, khí giới, tuần tra ở những khu vực xung yếu, trên dọc tuyến biển Bà Rịa – Vũng Tàu và
Côn Đảo.
Bằng phương pháp lịch sử, bài viết dựng lại bức tranh lịch sử khá sinh động quá trình quản lí, bảo vệ
chủ quyền và phát triển kinh tế biển ở Bà Rịa – Vũng Tàu trong nửa đầu thế kỉ XIX.
Từ khóa: Bà Rịa – Vũng Tàu, Côn Đảo, biển đảo Việt Nam, quản lí và khai thác biển đảo, chủ quyền
biển đảo
Abstract
Coastal islands Ba Ria - Vung Tau is an actively developing area. In the early nineteenth century,
foreign vessels arrived here to buy and sell goods; the Nguyen court had implemented many policies to
protect territorial sovereignty tied to the development of economic sectors such as building commercial
ports, fortress, strengthening troops, patrolling in the critical areas, offshore and onshore the Ba Ria,
Vung Tau and Con Dao.
By historical method, this article reconstructs the process of managing and protecting territorial
sovereignty and developing sea economy of Ba Ria - Vung Tau in the first half of the nineteenth century.
Keywords: Ba Ria - Vung Tau, Con Dao, Vietnam Sea Island, management and exploitation of the sea
and islands, maritime sovereignty
1. Đặt vấn đề
Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có bờ biển dài
305,4 km, diện tích vùng thềm lục địa
100.000 km
2
và có tuyến biên giới biển,
đảo gồm 82 xã, phường, thị trấn thuộc 6
huyện, 2 thành phố... là nơi có tiềm năng
lớn của đất nước với các mỏ dầu thuộc bồn
trũng Cửu Long, Nam Côn Sơn ở thềm lục
địa; và nhiều tiềm năng về hải sản, du lịch,
vận tải biển.
Vùng đất Bà Rịa - Vũng Tàu được
người Việt khai phá từ thế kỉ XVII, là một
27
địa bàn phát triển rất năng động, tàu thuyền
nước ngoài ra vào, bán buôn nhộn nhịp.
Đầu thế kỉ XIX Trịnh Hoài Đức đã phác
họa hình ảnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay:
“Bà Rịa ấy là nơi địa đầu giới trấn Biên
Hòa là đất danh tiếng cho nên các phủ miền
Bắc có ngạn ngữ rằng Cơm Nai Rịa, Cá Rí
Rang, là vì lấy Đồng Nai, Bà Rịa làm
đầu Đất ấy dựa lưng vào núi, mặt nhìn ra
biển, rừng rậm tre dài, ở trên có trường tuần
để với gọi những người Man, Mạch (dân
tộc ít người) đến đổi chác, ở dưới có cửa
bến, để xét hỏi ghe thuyền, trạm thủy, trạm
bộ giao tiếp nhau”[2; tr.31].
Chính do vị thế quan trọng của Bà Rịa
– Vũng Tàu, nên từ đầu thế kỉ XIX triều
Nguyễn đã thực thi nhiều chính sách quản
lí và khai thác biển đảo nhằm bảo vệ vững
chắc chủ quyền biển đảo phía Nam của đất
nước, đồng thời thực hiện tốt việc khai thác
kinh tế biển, ổn định đời sống cộng đồng
cư dân ven biển.
2. Những chính sách và hoạt động
quản lí vùng biển đảo Bà Rịa – Vũng Tàu
nửa đầu thế kỉ XIX
Từ thế kỉ XVII vùng đất Đông Nam
Bộ, bao gồm cả Bà Rịa – Vũng Tàu đã
được chính quyền phong kiến Việt Nam
lúc bấy giờ sáp nhập vào lãnh thổ Đàng
Trong. Nơi đây là vùng đất địa đầu Nam
bộ, nơi tiếp nhận và trung chuyển lưu dân
từ các nơi khác nhau đến khai hoang và lập
nghiệp. Từ năm 1832 dưới thời vua Minh
Mệnh, trên địa bàn Nam Bộ được chia
thành 6 tỉnh (Lục tỉnh), vùng đất Bà Rịa –
Vũng Tàu ngày nay thuộc tỉnh Biên Hòa.
Nhận xét về vị thế trọng yếu của Bà
Rịa – Vũng Tàu vào đầu thế kỉ XIX tác
phẩm Địa chí Bà Rịa – Vũng Tàu đã viết
rất hay: “Đây là khu vực có nhiều cửa
quan hiểm yếu, về phía núi có trường tuần
– vừa là trạm kiểm soát, vừa là nơi trao đổi
hàng hóa với các dân tộc thiểu số – về phía
biển có cửa bến để xét hỏi ghe thuyền ra
vào. Đầu đời Gia Long, con đường thiên lý
Bắc – Nam từ Gia Định đến Phú Xuân
chạy ngang qua huyện Phước An đã thông
suốt, tạo nên một sự giao lưu kinh tế, văn
hóa thuận lợi giữa miền ngoài với miền
trong. Chợ Bến, cũng được gọi là chợ Long
Thành được Trịnh Hoài Đức đánh giá là
chợ to nhất ở nơi bểm chằm thời ấy; chợ
nằm bên cạnh đường thiên lý và ở nơi đầu
con rạch thông ra cửa sông Lấp, nơi tụ họp
thuyền buôn tứ xứ, kể cả Trung Hoa, Chân
Lạp”[13; tr.27].
Đầu thế kỉ XIX, khi quan hệ trong khu
vực có nhiều biến động và trước sự đe dọa
xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương
Tây nhà Nguyễn đã thi hành các chính sách
cứng rắn để bảo vệ chủ quyền biển đảo,
cho xây dựng hệ thống thành và bảo trấn
để bảo vệ lãnh thổ. Lực lượng quân đội
được củng cố và tăng cường từ trung ương
đến địa phương. Trách nhiệm và nghĩa vụ
bảo vệ chủ quyền của lực lượng quân đội
được quy định chặt chẽ trong Luật Gia
Long - 1812.
Trên dọc tuyến biển Bà Rịa – Vũng
Tàu lúc bấy giờ triều Nguyễn tiến hành xây
dựng hệ thống đồn lũy phòng thủ ven biển,
đảo; đặt các thủ, bảo như những tiền đồn
canh phòng đặt nơi hiếm yếu, có một số
binh lính túc trực (nhiều hay ít tùy theo
từng nơi) do một Thủ ngữ hay một Thừa
biện phụ trách. Những năm 1802 - 1820
triều đình đặt thủ Vũng Tàu, thủ Tắc Khái,
(Cửa Lấp), thủ Long Hương – thuộc trấn
Biên Hòa. Năm 1814 thủ Vũng Tàu đổi
thành thủ Phước Thắng; năm 1842 đổi
thành bảo Phước Thắng [8; tr.65]. “Bảo
Phước Thắng (cũng gọi là pháo đài Phước
Thắng) tồn tại cho đến khi chiến thuyền
Pháp – Tây Ban Nha mở cuộc tiến công
28
quy mô vào ngày 10-2-1859, phá hủy hoàn
toàn”[13; tr.115].
Đối với Côn Đảo, do nằm trên tuyến
đường hàng hải quốc tế nên từ rất sớm đã
được nhiều quốc gia chú ý, đặc biệt là
trong giai đoạn phát triển thương mại hàng
hải trên biển Đông vào các thế kỉ XVI,
XVII, XVIII. Bước sang thế kỉ XIX, với vị
trí đặc biệt quan trọng của mình, Côn Đảo
tiếp tục là địa điểm thu hút sự chú ý của
các nước trong khu vực và các đế quốc
phương Tây nhiều đoàn thương thuyền đến
thăm dò, khảo sát khai thác tài nguyên –
trong số đó những đoàn thuyền mà sử sách
triều Nguyễn hay gọi là giặc biển.
Hơn ai hết vua Gia Long – tức là Chúa
Nguyễn Ánh – nhận thức rất rõ vị thế trọng
yếu của Côn Đảo nên khi thống nhất đất
nước nhà vua vẫn duy trì truyền thống bảo
vệ chủ quyền các vùng biển và hải đảo
được thực hiện tốt từ thời các chúa
Nguyễn, kiên quyết đánh dẹp các thế thực
có mưu đồ xâm hại đến chủ quyền và an
ninh biển đảo của đất nước. Năm 1805,
“Giặc biển Chà Và cướp bóc ở ngoài biển,
dân Côn Lôn bị hại. Quan canh giữ xin hạ
lệnh cho các thuyền công và thuyền tư đều
được sửa sang khí giới để phòng bị. Vua y
cho”[9; tr. 634].
Như vậy, sau khi lên ngôi Gia Long đã
hạ lệnh cho các thuyền công và thuyền tư
đều được sửa sang khí giới để phòng bị,
tăng cường hệ thống phòng bị trên đảo
nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo và bảo vệ
cuộc sống, hoạt động khai thác hải sản của
người dân trên vùng biển Côn Đảo.
Sau thời Gia Long, Minh Mạng lên
ngôi tiếp tục kế thừa ý chí và khát vọng
bảo vệ chủ quyền biển đảo của vua cha,
tăng cường hệ thống quản lí và thực thi chủ
quyền ở Côn Đảo. Đây cũng là thời kì giặc
biển thường xuyên quấy phá hoạt động
khai thác của cộng đồng cư dân ven biển
phía Nam, tực tiếp đe dọa chủ quyền biển
đảo ở Côn Đảo và vùng ven biển nước ta.
Sách Đại Nam thực lục của Quốc sử quán
triều Nguyễn phản ánh, năm 1832, trên
vùng biển phía Nam “giặc biển Chà Và lén
lút nổi lên... cướp bóc bắt người đem đi.
Quan Trấn thủ Lê Văn Nghĩa thân đem
binh thuyền đuổi bắt. Việc đến tai vua, vua
lại sai Trấn thủ Biên Hòa là Phạm Hữu
Tâm, thự Trấn thủ Phiên An là Trần Hữu
Thăng, đều đem binh thuyền hội tiễu. Giặc
liền ra đảo Côn Lôn thuộc Phiên An, đón
cướp các thuyền buôn, lại lên bờ đốt nhà,
cướp của Nhân đó vua dụ: Côn Lôn thủ
và Hà Tiên, Phú Quốc thủ đều là những nơi
xung yếu, dân ở đông đúc, thế mà thường
có giặc biển ẩn hiện. Liền truyền dụ cho
quan thành chọn đất 2 chỗ thủ ấy, xây đặt
pháo đài, liệu cấp súng đạn, khí giới,
thuyền bè, phái quân đóng giữ. Những cư
dân cũng cấp cho khí giới để cùng phòng
giữ. Lại chuyển sức cho 5 trấn trong thành
hạt, ra lệnh cho các làng sở tại ven biển
đều sẵn sàng thuyền bè khí giới, nếu thấy
thuyền giặc đến gần bờ, tức thì cùng nhau
tiếp ứng góp sức đánh bắt”[10; tr.384].
Đoạn dụ nêu trên của vua Minh Mạng
thể hiện sự đánh giá của triều đình đối với
tình hình bảo vệ chủ quyền biển đảo đất
nước nói chung, ở Vũng Tàu – Côn Đảo
nói riêng trong những năm đầu thế kỉ XIX,
thời kỳ hưng thịnh nhất của vương triều
Nguyễn. Do đó, triều đình tăng cường
phòng bị xây đặt pháo đài, liệu cấp súng
đạn, khí giới, thuyền bè, phái quân đóng
giữ, ra lệnh cho các làng sở tại ven biển
đều sẵn sàng thuyền bè khí giới, nếu thấy
thuyền giặc đến gần bờ, tức thì cùng nhau
tiếp ứng góp sức đánh bắt nhằm ngăn chặn
nạn giặc biển đang trực tiếp đe dọa cuộc
sống và hoạt động đánh bắt, khai thác hải
29
sản của cộng đồng dân cư biển, đảo khu
vực này.
Từ năm 1833 đến năm 1837 triều đình
tăng cường củng cố hoạt động quản lý, bảo
vệ chủ quyền biển đảo bằng cánh gia tăng
kiểm soát các tàu thuyền đi qua vùng biển
đảo, tăng cường quân số cho Côn Đảo,
củng cố bộ máy hành chính. Triều đình cho
xây dựng một khu đồn trú và một pháo đài
khá kiên cố ở Côn Đảo: “Bốn mặt đồn bảo
đều dài 12 trượng, cao 5 thước, chân rộng
6 thước 3 tấc. Đằng trước và đằng sau đều
mở một cửa. Pháo đài xây ở phía Nam đồn
bảo. Sai quản tỉnh vát lính và thuê dân tất
cả 500 người để làm việc”. Triều đình cho
sắp đặt lại quân hiệu, “Quân đóng ở Côn
Lôn thuộc Gia Định 6 người, trước gọi là
đồn An Hải, nay đổi làm quân đồn Côn
Lôn”[11; tr.538]. Vua Minh Mạng còn
chuẩn y cho lời tâu của Bộ Binh, đưa quân
ra Côn Đảo vừa làm nhiệm vụ canh gác,
tuần tra, vừa để khai khẩn đất hoang và sản
xuất lương thực: “phái một xuất đội và 50
lính thuộc tỉnh, cấp cho thuyền và khí giới
đến đóng giữ, mỗi năm thay phiên một lần.
Tiền và lương thì dự trữ đủ chi dùng trong
một năm”. Đó là một chính sách nhất cử
lưỡng tiện vì nơi đây còn có nhiều đất
hoang, có thể khai hoang để trồng trọt
trong những lúc rảnh rỗi việc quân - vẫn
theo lời tâu - “Như thế, có lính để phòng
thủ, có ruộng để cày cấy, giặc biển không
dám lại đến, thuyền buôn ngày một đông
nhiều, sau vài năm tất thành một nơi vui
vẻ, mà việc phòng giữ mặt biển sẽ bền
vững được”[12; tr.872 - 873].
Bước sang năm 1840, triều đình tiếp
tục ban hành chính sách phòng thủ tại
những nơi xung yếu, trong đó có Côn Đảo
để bảo vệ chủ quyền biển đảo: “Kể ra, biết
tự trị thì mạnh, có phòng bị thì không lo.
Nay cửa biển Đà Nẵng ở Quảng Nam, đã
đặt thêm pháo đài phòng Hải; cửa biển Thị
Nại ở Bình Định lại mới xây pháo đài Hổ
Cơ, để giữ chỗ hiểm yếu; còn đảo Côn Lôn
ở Vĩnh Long, đảo Phú Quốc ở Hà Tiên,
đều có đặt đồn bảo chia phái lính thú tuần
phòng, để răn ngừa sự bất trắc. Như thế, ta
ngăn giữ bờ biển đã có cái thế, làm cho kẻ
xấu đáng sợ mà không thể xâm phạm được.
Việc võ bị mà chỉnh đốn, thì người ngoài
trông thấy cũng tiêu tan lòng tà. Không chỉ
người Tây dương cách trở xa xôi, không
dám nhằm thẳng vào nước ta, mà nước
mạnh láng giềng tiếp giáp cõi đất, cũng
không dám manh tâm dòm ngó nữa”
[12; tr.199].
Do vị trí đắc địa của mình nên Côn
Đảo thường xuyên bị giặc biển nhòm ngó.
Cho nên, khi quan binh canh phòng Côn
Đảo lơ là lập tức bị giặc biển cướp phá,
tiêu biểu như sự kiện năm 1851. “Mười
chiếc thuyền của giặc biển đến cướp bảo
Côn Lôn. Bọn tấn thủ coi bảo ấy có lỗi về
canh phòng sơ suất đều bị giáng chức. Rồi
sai tỉnh thần phái lính đến cùng biền binh ở
bảo ấy đàn áp. Truyền Chỉ cho Kinh lược
sứ Nam Kỳ là bọn Nguyễn Tri Phương,
Phan Thanh Giản tùy tiện mà điều khiển”
[12; tr.199].
Những sự kiện diễn ra từ nửa đầu thế
kỉ XIX chứng tỏ triều Nguyễn rất coi trọng
việc quản lí, bảo vệ chủ quyền biển đảo ở
Bà Rịa, Vũng Tàu và Côn Đảo, kiên quyết
ngăn chặn các thế lực nước ngoài, kể cả
giặc biển xâm phạm chủ quyền biển đảo.
Sau mỗi lần thực hiện thành công việc bảo
vệ chủ quyền biển đảo triều đình đều có
ban thưởng hậu hĩ và ngược lại nếu quan
binh lơ là thì xử phạt rất nghiêm minh
“Bọn tấn thủ coi bảo ấy có lỗi về canh
phòng sơ suất đều bị giáng chức”. Triều
đình thường xuyên củng cố lực lượng, tăng
cường trang bị vũ khí, phương tiện cho
30
việc quản lí, bảo vệ chủ quyền biển đảo.
3. Phát triển các ngành kinh tế biển ở
Bà Rịa - Vũng Tàu nửa đầu thế kỉ XIX
Hoạt động vận tải đường thủy
Bà Rịa – Vũng Tàu có vị trí rất quan
trọng trong việc giao thông đường thủy, ở
một địa bàn mà mạng lưới sông ngòi, kênh
rach chằng chịt tiếp giáp với biển cả mênh
mông nên việc sử dụng ghe thuyền làm
phương tiện đi lại, vận chuyển hàng hóa rất
phổ biến trong những năm đầu thế kỉ XIX,
nhất là khi điều kiện đi lại và vận tải hàng
hóa bằng đường bộ và đường không còn
nhiều hạn chế. Ghe thuyền ở Bà Rịa –
Vũng Tàu rất đa dạng, phong phú với
nhiều kiểu loại, tên gọi khác nhau.
Trong nửa đầu thế kỉ XIX cộng đồng
cư dân ven sông, ven biển ở Bà Rịa – Vũng
Tàu đã tổ chức hoạt động vận tải đường
thủy để vận chuyển hàng hóa đi dọc bờ
biển hoặc buôn bán xa, dài ngày và sống
trên sông nước. Những loại ghe dùng
để vận chuyển hàng hóa thường là những
chiếc ghe có kích thước lớn, sức chở nặng,
đi được đường dài. Trong số đó, ghe bầu là
loại ghe lớn nhất, mũi và lái nhọn, bụng
phình to, có tải trọng tương đối lớn, chạy
buồm (từ 1 đến 3 buồm), lướt sóng tốt và
đi nhanh, có nhiều chèo để đi sông và đi
biển dài ngày thường dùng đi đường biển.
Ghe bầu (Prau) bắt nguồn từ tiếng Mã Lai,
do người Việt trong quá trình Nam tiến tiếp
thu được của người Chăm. Trong nửa đầu
thế kỉ XIX, hàng năm các lái buôn lớn ở Bà
Rịa, Vũng Tàu chở cá, nước mắm ngược
theo các dòng sông đi sâu vào miền lục
tỉnh, lên Campuchia để buôn bán. Ghe bầu
là biểu trưng cho một cơ ngơi, một tài sản
to lớn của những nhà giàu có ven biển Bà
Rịa, Vũng Tàu, lúc bấy giờ.
Giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX hoạt
động vận tải đường thủy của người dân Bà
Rịa, Vũng Tàu khá phát triển, từ nơi thị tứ
đô hội cho đến chốn kinh cùng, từ đầu
nguồn đến cuối bãi, nơi giáp nước, ngã ba
sông, dọc ven biển người ta dùng ghe
thuyền đi mua bán, thu hoạch nông sản,
đánh bắt tôm cá trên biển, trên sông cho
đến đi thăm người quen, giỗ chạp, ma
chay, cưới xin Hoạt động vận tải đường
thủy ở Bà Rịa – Vũng Tàu phản ánh tình
phát triển kinh tế biển của cộng đồng cư
dân ven sông, ven biển Bà Rịa, Vũng Tàu.
Khai thác thủy hải sản
Biển đảo Bà Rịa – Vũng Tàu có nhiều
điều kiện thuận lợi về địa hình, khí hậu,
chế độ thủy triều, độ mặn nên có khả
năng phát triển việc đánh bắt, nuôi trồng và
chế biến thủy hải sản. Từ lâu các ngành
kinh tế này được xem là ngành kinh tế mũi
nhọn của địa phương.
Đầu thế kỉ XIX đánh cá biển là một
trong những nguồn thu chính của cộng
đồng cư dân ở đây. Cư dân nhiều làng
Phước Tỉnh, Long Hải, Phước Hải, Lộc
An, Thuận Biên chỉ sống bằng nghề chài
lưới. Người dân ở đây gắn bó với nghề này
vì nó đem lại thu nhập khá ổn định. Một
phần cá đánh bắt được tiêu thụ tại chỗ,
hoặc đưa đến bán ở các chợ lân cận. Thắng
Tam, Thắng Nhứt và Phước Tỉnh cung cấp
nguồn cá cho chợ Vũng Tàu; Lộc An và
Phước Hải thì cung cấp cho chợ Phước
Thọ và Long Điền. Nhưng phần lớn số
lượng cá đánh bắt được phơi khô để xuất đi
nơi khác hay để làm nước mắm.
Trong xã hội lúc bấy giờ, nghề cá được
xem là nghề có thu nhập tương đối cao, đời
sống của ngư dân Bà Rịa - Vũng Tàu không
đến nỗi quá khó khăn hay thiếu thốn.
Về phương tiện và cách thức đánh bắt
hải sản của ngư dân ven biển Bà Rịa -
Vũng Tàu hồi thế kỷ XIX chủ yếu đó là sử
dụng lưới rê, ngư dân Phước Hải sử dụng
31
lưới rê, không có phao chì. Người ta dùng
lưới để “rê” cá lại. Phương pháp này chỉ thật
sự hiệu quả khi biển có nhiều cá gần bờ. Bởi
vậy, ngư dân dùng lá dừa ủ thành từng
khóm trên biển. Tôm cá tụ tập kiếm thức ăn,
ngư dân dùng lưới vây lại và kéo cá.
Đánh cá bằng lưới rùng, người ta
dùng hai ghe xuất phát từ hai điểm khác
nhau, kéo lưới, chèo ra xa bờ. Sau khi hai
ghe giáp mối nhau, người ta ghép hai đầu
lưới. Ở trong bờ, từ hai bên, dân chài kéo
thu lưới. Kiểu đánh lưới này thích hợp
trong khoảng 6 tháng, từ tháng 3 tới tháng
9. Thời gian đánh bắt bằng lưới rùng kéo
dài 6 tháng, thời gian còn lại trong năm
người ta thường đánh bắt bằng lưới rê.
Ngoài ra, ngư dân Bà Rịa - Vũng Tàu
còn đánh bắt cá bằng lưới rút. Lưới rút
(mành rút), thường đan bằng chỉ vải
khúng, phần sau cần chắc chắn hơn để giữ
cá nên thường đan bằng sợi gai, nhuộm
đen, phía sau cùng của lưới rút có cái đảy.
Lưới rút có chiều dài tương đương chiều
rộng, khoảng 45 sải (gần 75m), phẩn đảy
dài 4-5 sải.
Mành đăng, là lưới đăng nhưng đánh
cá gần bờ, trong lộng, có thể xê dịch vị trí.
Giả cào, là hình thức đánh bắt khi ghe
đã dùng động cơ di chuyển. Hiện nay khá
phổ biến. Giả cào thường đơn (một chiếc
ghe) hoặc đôi. Người ta dùng ghe kéo lưới
để “cào” thu cá vào lưới.
Câu chạy, là cách câu bằng mồi lông
gà. Ngư dân lấy lông gà nhỏ, mềm, dài từ
6-7 phân ở gần đuôi có màu trắng, vàng lợt
hoặc ửng hồng tùy theo thời tiết. Người ta
gắn lưỡi câu vào lông gà và nối bằng dây
thau hay dây mi (sau này là dây cước) có
buộc chì và phao sao cho hơi nặng, thả cách
ghe chừng 50-60 thước. Cho ghe chạy, lông
gà nổi trên mặt nước, cá thu, có bò tưởng cá
nhỏ chạy theo đớp và dính câu [7].
Nhìn chung, việc đánh bắt cá ngày
xưa hoàn toàn bằng phương pháp thủ công,
ngư cụ thô sơ và đơn giản, thuyền nhỏ, lưới
ngắn, nên chỉ có thể đánh bắt ven bờ hay
trong lộng (vùng biển cách bờ không xa).
Thuyền đánh cá thường ra biển vào ban
đêm hay gần sáng, đến một hai giờ chiều
thì theo gió và nước triều chạy về bến.
Thuyền đánh lưới hay câu ban đêm, thì
sáng sớm vào bờ để kịp đưa sản phẩm ra
chợ bán. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi,
từ đầu thế kỉ XIX Bà Rịa, Vũng Tàu đã trở
thành một trong những trung tâm nghề cá
lớn của Nam Bộ.
Nghề đóng tàu thuyền
Song song với việc phát triển các làng
cá và nghề cá thì nghề đóng tàu thuyền ở
Bà Rịa – Vũng Tàu nửa đầu thế kỉ XIX khá
hưng thịnh. Nghề đóng thuyền ở đây vốn là
nghề truyền thống của cộng đồng ngư dân
miền Trung theo bước chân Nam tiến du
nhập vào từ thế kỉ XVIII.
Sở dĩ nghề đóng tàu thuyền ở Bà Rịa –
Vũng Tàu phát triển mạnh trong thế kỉ XIX
vì Vũng Tàu là một thương cảng lớn của
xứ Đàng Trong. Từ thế kỷ XVIII khách
buôn người Hoa, người Nhật, người Pháp
đã đến tấp nập. Các thương thuyền của
người Bồ Đào Nha, người Hà Lan, Pháp,
Anh cũng cập bến Vũng Tàu. Ở Nam Bộ
có nhiều “lò” đóng ghe nổi tiếng (ghe Bình
Đại, ghe Cần Đước, ghe Phú Quốc) trong
đó có ghe Bà Rịa. Thế kỉ XIX ở Bà Rịa có
các trại ghe chuyên đóng những ghe cửa
lớn vận chuyển hàng hóa đi buôn với các
tỉnh cực Nam Trung Bộ, nổi tiếng một thời.
Các trại ghe tập trung chủ yếu ở Bình
Châu, Phước Bửu, Long Hải, Phước Lễ,
Phước Tỉnh, Phước Hải, Vũng Tàu Các
làng đóng thuyền Bà Rịa, Vũng Tàu trở
thành một trong những “cái nôi” lan tỏa
tinh hoa đóng thuyền của xứ Nam Bộ. “Do
32
có nghề cá phát triển nên việc đóng những
chiếc tàu làm phương tiện để đánh bắt hải
sản cũng rất được chú trọng. Từ ngày xưa,
kĩ thuật đóng tàu đã được những người thợ
ở đây tìm tòi, phát triển để có thể đóng
được những chiếc tàu chịu lực, chịu sóng
tốt và có thời gian sử dụng lâu bền. Những
loại gỗ tốt, nhẹ, độ bền