Với những nỗ lực cải cách môi trường pháp lý phục vụ kinh doanh, từng
bước đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu nhất định trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn và
bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Luật doanh nghiệp năm 1999 ra đời đánh dấu bước phát triển quan trọng
trong việc giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực
trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đáng kể vào tăng trưởng
kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách, tạo thêm nhiều công ăn
việc làm và "xóa đói, giảm nghèo", giải quyết các vấn đề xã hội khác. Chỉ tính
từ đầu năm 2000 đến tháng 7 năm 2003, đã có hơn 71.500 doanh nghiệp đăng ký
kinh doanh (gấp 1,6 lần so với giai đoạn 1991-1999); với số vốn đăng ký mới và
đăng ký bổ sung khoảng 9,5 tỷ đô la Mỹ (gấp hơn 4 lần so với 1991-1999), cao
hơn số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký trong cùng thời kỳ. Ngoài ra,
còn có hơn 15.000 chi nhánh, văn phòng đại diện và khoảng 800.000 hộ kinh
doanh cá thể đăng ký kinh doanh; đưa tổng số hộ kinh doanh cá thể trong cả
nước lên khoảng hơn 2,5 triệu hộ. Nhờ đó, tỷ trọng đầu tư của dân cư và doanh
nghiệp trong tổng đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm
2001 và 25,3% năm 2002; và năm 2003 gần 27%
16 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1243 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với công ty cổ phần ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với công ty cổ
phần ở Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với những nỗ lực cải cách môi trường pháp lý phục vụ kinh doanh, từng
bước đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu nhất định trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn và
bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Luật doanh nghiệp năm 1999 ra đời đánh dấu bước phát triển quan trọng
trong việc giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực
trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đáng kể vào tăng trưởng
kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách, tạo thêm nhiều công ăn
việc làm và "xóa đói, giảm nghèo", giải quyết các vấn đề xã hội khác. Chỉ tính
từ đầu năm 2000 đến tháng 7 năm 2003, đã có hơn 71.500 doanh nghiệp đăng ký
kinh doanh (gấp 1,6 lần so với giai đoạn 1991-1999); với số vốn đăng ký mới và
đăng ký bổ sung khoảng 9,5 tỷ đô la Mỹ (gấp hơn 4 lần so với 1991-1999), cao
hơn số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký trong cùng thời kỳ. Ngoài ra,
còn có hơn 15.000 chi nhánh, văn phòng đại diện và khoảng 800.000 hộ kinh
doanh cá thể đăng ký kinh doanh; đưa tổng số hộ kinh doanh cá thể trong cả
nước lên khoảng hơn 2,5 triệu hộ. Nhờ đó, tỷ trọng đầu tư của dân cư và doanh
nghiệp trong tổng đầu tư toàn xã hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm
2001 và 25,3% năm 2002; và năm 2003 gần 27%. Tỷ trọng đầu tư của các doanh
nghiệp tư nhân trong nước liên tục tăng và đã vượt lên hơn hẳn tỷ trọng đầu tư
của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), gần bằng tổng vốn đầu tư của DNNN và
tín dụng nhà nước. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh đã đóng vai trò
quan trọng, thậm chí là nguồn vốn đầu tư chủ yếu đối với phát triển kinh tế địa
phương. Ví dụ, đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh năm 2002 ở Thành phố
Hồ Chí Minh đã chiếm 38% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn tỷ trọng
vốn đầu tư của DNNN và ngân sách nhà nước gộp lại (36,5%) [5, tr. 3].
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng
của Việt Nam hiện nay còn chưa thống nhất, chưa đồng bộ, chưa ổn định và
chưa minh bạch; việc thực hiện pháp luật trong hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp còn nhiều hạn chế; các doanh nghiệp chưa thực sự có được những
cơ hội để đóng góp tích cực, chủ động vào quá trình hoàn thiện cơ chế quản lý
nhà nước đối với doanh nghiệp. Công tác kiểm tra, giám sát xử lý vi phạm pháp
luật trong kinh doanh chưa kịp thời và hiệu quả. Vì vậy chưa phát huy đầy đủ
vai trò của các loại hình doanh nghiệp, nhất là công ty cổ phần (CTCP), góp
phần bảo đảm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) phát
triển đúng hướng và bền vững.
Tình hình trên do nhiều nguyên nhân gây ra, trong đó có nguyên nhân
quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp (trong đó có CTCP) nói riêng còn nhiều bất cập,
chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ quản lý nhà nước trong tình hình mới.
Điều này thể hiện ở các mặt cơ bản sau:
- Chưa có sự nhận thức đúng đắn về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối
với CTCP trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nên dẫn đến tình
trạng: hoặc Nhà nước chỉ nhấn mạnh yêu cầu quản lý, tạo ra nhiều tầng nấc
trung gian, thủ tục hành chính rườm rà, ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh
hoặc can thiệp hành chính vào hoạt động đúng đắn của các CTCP; hoặc Nhà
nước buông lỏng quản lý để các mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường phát
triển, tạo cơ hội cho một số CTCP thao túng thị trường, lừa đảo, gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản nhà nước, tài sản của các tổ chức và của công dân.
- Hệ thống pháp luật kinh tế nói chung, trong đó có khung pháp luật về
CTCP thiếu đồng bộ, chưa nhất quán, chưa sát cuộc sống, nhiều văn bản hướng
dẫn chậm ban hành, nhiều lĩnh vực còn bỏ ngỏ như pháp luật về tài chính của
công ty, pháp luật về kế toán, kiểm toán, pháp luật về kiểm tra, thanh tra kinh tế.
Mặt khác, một số quy định trong các văn bản pháp luật còn chồng chéo, mâu
thuẫn nên đã tạo ra nhiều sơ hở cho các CTCP lợi dụng hoạt động trái pháp luật
hoặc cơ quan nhà nước sử dụng để can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh
đúng đắn của các CTCP.
- Các cơ chế, chính sách lỗi thời, chậm thay đổi đã kìm hãm sự phát triển
các CTCP, đã hạn chế năng lực kinh doanh và sức sản xuất của họ. Trong một
số trường hợp nhà nước lại thường xuyên thay đổi chính sách, chủ trương đã đẩy
các CTCP rơi vào tình thế lúng túng, đối phó hoặc gây ra những thiệt hại không
nhỏ trong kinh doanh cho các công ty.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định rõ:
Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản
lý của Nhà nước. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản lý
nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và
phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải
phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt
tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động và
của toàn thể nhân dân [18, tr. 87-88].
Xuất phát từ những nội dung trình bày trên, bản thân tác giả nhận thấy:
việc nghiên cứu quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP ở Việt Nam
hiện nay là việc làm cần thiết của khoa học pháp lý Việt Nam trong xu hướng
hoàn thiện quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với nền kinh tế, trong đó có
quản lý các CTCP nhằm tạo môi trường pháp lý an toàn, thuận lợi; bảo đảm các
quyền tự do kinh doanh và lợi ích chính đáng, sự bình đẳng của các CTCP trong
nền kinh tế, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các CTCP Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới. Đó cũng là lý
do để chúng tôi chọn đề tài: "Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với công ty
cổ phần ở Việt Nam" để làm luận án tiến sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ sau Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986), cùng với quá trình chuyển
đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng
XHCN đã đặt ra nhiều nhiệm vụ cấp bách cho khoa học pháp lý trong việc xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, hệ thống pháp luật
XHCN Việt Nam. Từ đó, đã có nhiều công trình của các cơ quan, đơn vị, các
nhà khoa học, các luận văn, luận án nghiên cứu về vai trò của nhà nước và pháp
luật trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Những công trình này ở mức độ khác
nhau cũng đã đề cập đến vấn đề quản lý nhà nước bằng pháp luật nói chung và
quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với một số loại hình doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nói riêng. Điển hình như: Về đề tài
nghiên cứu khoa học, có: Đề tài KX.03.13: Luận cứ khoa học cho việc hoàn
thiện và xây dựng hệ thống pháp luật và quản lý kinh tế bằng pháp luật do Viện
Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp chủ trì (1994), đề tài này tập trung
nghiên cứu những vấn đề có tính chất nền tảng trong việc xác lập các nguyên tắc
nhằm hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế cũng như việc quản lý
nền kinh tế bằng pháp luật. Nội dung của đề tài bao gồm: trình bày sự phát triển
của các quan niệm Luật kinh tế trong lịch sử, lịch sử phát triển pháp luật kinh tế
của Việt Nam; hệ quan điểm xây dựng pháp luật kinh tế ở Việt Nam; các điều kiện
bảo đảm thi hành pháp luật kinh tế trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường
ở nước ta, từ đó đề tài đưa ra những kiến nghị cụ thể nhằm xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật kinh tế và quản lý kinh tế bằng pháp luật; Dự án
VIE/94/003 về Tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam do Bộ Tư pháp chủ
trì với sự tài trợ của chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), được thực
hiện từ năm 1994 đến năm 1998. Kết quả
nghiên cứu của dự án được đề cập trong "Báo cáo kiến nghị về xây dựng và
hoàn thiện khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam". Thông qua kết quả nghiên cứu
này, chúng ta thấy nổi lên những nội dung cơ bản sau: Khái niệm, vai trò của
khung pháp luật kinh tế và những đặc điểm của nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam. Trên cơ sở đánh giá khung pháp luật kinh tế hiện hành, báo cáo đã kiến
nghị về việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam cũng
như những biện pháp để bảo đảm thực hiện khung pháp luật kinh tế trên thực tế.
Về đề tài của các luận án tiến sĩ luật học có: Nhà nước quản lý kinh tế bằng
pháp luật trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay của Chu Hồng Thanh,
trong luận án của mình, trên cơ sở nhận thức đúng những khái niệm cơ bản, tác
giả đã làm rõ vai trò của nhà nước và pháp luật trong cơ chế thị trường, phân
tích khái quát quá trình xuất hiện và vận động của cơ chế thị trường ở Việt Nam.
Từ đó rút ra những nhận xét về các yêu cầu kinh tế khách quan xây dựng hệ
thống pháp luật. Khẳng định vai trò và phạm vi tác động thông qua công cụ
pháp luật của Nhà nước trong cơ chế thị trường; Đề tài: Hoàn thiện pháp luật về
tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (từ thực tiễn của thành phố Hồ Chí
Minh) của Lê Văn Hưng, đã góp phần làm sáng tỏ thực trạng pháp luật về tổ
chức, hoạt động và quản lý nhà nước đối với DNNN trong thời gian qua, từ đó
đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới và hoàn thiện pháp luật, nâng cao
hiệu quả hoạt động của DNNN trong cơ chế thị trường; Đề tài: Đổi mới và hoàn
thiện quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc
khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thanh Hóa, thì tập
trung cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các
loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân; kiến nghị các phương
hướng và giải pháp khả thi nhằm đổi mới và hoàn thiện quản lý nhà nước bằng
pháp luật đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nói
chung trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay;
Đề tài: Nhà nước quản lý bằng pháp luật đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty
trách nhiệm hữu hạn của Phạm Quý Tỵ, chỉ đi sâu nghiên cứu về sự quản lý của
Nhà nước bằng pháp luật đối với hai loại hình doanh nghiệp trong các loại hình
doanh nghiệp ở nước ta hiện nay là doanh nghiệp tư nhân và công ty trách
nhiệm hữu hạn. Về sách chuyên khảo đã có các tác phẩm sau: Đại hội VIII
Đảng Cộng sản Việt Nam và những vấn đề cấp bách của khoa học về Nhà nước
và pháp luật do PGS.TS Đào Trí Úc (chủ biên), đây là tác phẩm của tập thể tác
giả là những nhà nghiên cứu khoa học pháp lý của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực
khác nhau, tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản, những vấn đề cấp bách
của khoa học về Nhà nước và pháp luật được đề ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nội dung cuốn sách chủ yếu đề cập:
Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam và những vấn đề về bộ máy nhà
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam và
những vấn đề về pháp luật; sách Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự
nghiệp đổi mới của PGS.TS Đào Trí Úc, là tập hợp những bài viết và công trình
nghiên cứu lý luận cơ bản mà tác giả đã thực hiện trong khoảng thời gian từ năm
1990-1997. Tác giả đã tập trung nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề
phương pháp luận, các vấn đề về hệ thống chính trị và Nhà nước, các vấn đề về
pháp luật và pháp chế, xây dựng ý thức và lối sống tuân theo pháp luật. Những
vấn đề mà tác giả nghiên cứu đã góp phần to lớn trong việc xây dựng nhà nước
ta ngày càng vững mạnh, "là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ để thực
hiện quyền lực nhân dân"; Nhà nước của dân, do dân và vì dân, một nhà nước
trong sạch, quản lý có hiệu quả các mặt của đời sống xã hội trên cơ sở xây dựng
hệ thống pháp luật đồng bộ, phù hợp với yêu cầu đổi mới của công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; Một số vấn đề về nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế
thị trường Việt Nam của GS.TS Nguyễn Duy Gia, là tác phẩm mà thông qua đó
tác giả đã luận giải những vấn đề cơ bản về nền kinh tế thị trường ở nước ta phải
là nền kinh tế thị trường có quản lý, hướng dẫn và điều tiết của Nhà nước theo
định hướng XHCN và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nền kinh tế thị
trường phát triển đúng hướng, các nguồn lực vật chất - tài chính của xã hội được
huy động tốt hơn nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân;
đồng thời phát huy nền dân chủ XHCN, thực hiện công bằng xã hội, tạo điều
kiện và môi trường thuận lợi cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh, kiểm soát
chặt chẽ và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm "cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trở
thành cơ chế vận hành của nền kinh tế". Bên cạnh các sách chuyên khảo còn có
rất nhiều bài viết của các nhà luật học bàn về vai trò của Nhà nước và pháp luật
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam như: Tìm hiểu vai trò của nhà nước
trong nền kinh tế thị trường của GS.TS Hoàng Văn Hảo; Pháp luật trong cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước của PTS. Trần Ngọc Đường; Pháp luật
kinh tế nước ta trong bước chuyển sang kinh tế thị trường của PTS. Nguyễn Như
Phát; Nền kinh tế thị trường và những vấn đề pháp lý đặt ra của PTS. Hoàng
Thế Liên, v.v...
Ngoài ra, còn nhiều bài viết của nhiều tác giả khác cũng đề cập dưới
nhiều góc độ khác nhau liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp
luật trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Những công trình được
công bố trên là tài liệu tham khảo quý giá cho tác giả trong quá trình nghiên cứu
của mình. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu và bài viết của các tác giả nêu
trên chỉ đề cập đến những vấn đề chung nhất có tính lý luận về vai trò của Nhà
nước, vai trò của pháp luật, về việc sử dụng công cụ pháp luật trong quản lý nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Hoặc chỉ dừng lại ở mức độ nghiên
cứu quản lý nhà nước đối với DNNN hoặc doanh nghiệp tư nhân và công ty
trách nhiệm hữu hạn hay nghiên cứu về các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế
tư nhân nói chung. Chưa có công trình hay đề tài nào đi sâu vào việc nghiên cứu
một cách toàn diện về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP ở Việt
Nam hiện nay, để từ đó xây dựng cơ sở lý luận, đưa ra những giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
CTCP, một loại hình công ty có nhiều đặc tính ưu việt hiện nay ở nước ta. Hơn
nữa, việc luận giải một cách có hệ thống yếu tố quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với công ty cổ phần có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện
các thiết chế quản lý kinh tế dân chủ của Nhà nước trong nền kinh tế nhiều
thành phần. Đây là một vấn đề khá mới mẻ ở nước ta trong điều kiện Đảng và
Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án là đề xuất các quan điểm và giải pháp
tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP nhằm bảo đảm môi
trường pháp lý thuận lợi, an toàn, nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động
kinh doanh của CTCP; phát huy vai trò của CTCP trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện tốt mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án có những nhiệm
vụ chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về CTCP và quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với CTCP trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP ở
nước ta trong thời gian qua, tìm ra những thiếu sót, yếu kém trong thực tiễn hoạt
động quản lý nhà nước bằng pháp luật và các nguyên nhân của tình trạng trên.
- Đề xuất, kiến nghị những quan điểm, giải pháp tăng cường quản lý nhà
nước bằng pháp luật đối với CTCP, phát huy vai trò to lớn của CTCP trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Ở nước ta, có nhiều loại hình công ty được thành lập và hoạt động như:
công ty TNHH có hai thành viên trở lên; công ty TNHH một thành viên do một
tổ chức thành lập và làm chủ sở hữu; CTCP; công ty hợp danh (theo luật doanh
nghiệp); các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tồn tại dưới hình thức công
ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) (theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam);
một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo hình thức CTCP
qui định tại Nghị định số 38/2003/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2003 của Chính
phủ; các CTCP thành lập từ cổ phần hóa DNNN.
Trong luận án này, chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu quản lý nhà nước
bằng pháp luật đối với CTCP theo Luật doanh nghiệp ở Việt Nam (bao gồm:
CTCP thành lập theo Luật doanh nghiệp và các CTCP thành lập do cổ phần hóa
DNNN).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, những quan điểm, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu
của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đây là cơ sở cho việc nhận thức bản chất nội
tại và các mối quan hệ biện chứng của các vấn đề cần nghiên cứu. Vận dụng các
quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm vận động, đề tài được nghiên cứu trong quá
trình hình thành và phát triển hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
CTCP; gắn liền với sự thay đổi về các điều kiện kinh tế - xã hội, hoàn cảnh lịch
sử qua các thời kỳ phát triển của đất nước. Ngoài ra, tác giả luận án còn sử dụng
phương pháp nghiên cứu tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh, đánh giá qua
các số liệu thu thập có liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với CTCP ở Việt Nam cũng như một số nước trên thế giới nhằm làm sáng tỏ
những luận cứ khoa học và tính thuyết phục cao trong các đề xuất về quan điểm,
giải pháp tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Nội dung của luận án có những điểm mới sau đây:
- Luận án đã phân tích những đặc điểm và tính ưu việt của CTCP trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta trước nhu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh, thu
hút vốn đầu tư, trong bối cảnh hội nhập và hợp tác phát triển của kinh tế Việt
Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống cơ
sở lý luận về quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP ở Việt Nam hiện
nay, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Từ đánh giá thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP
hiện nay ở nước ta, luận án làm sáng tỏ những hạn chế trong công tác quản lý
nhà nước cần được tổng kết, rút kinh nghiệm.
- Xác lập các quan điểm, đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường quản
lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP ở Việt Nam.
7. Ý nghĩa của luận án
Những kết quả nghiên cứu được đề cập trong luận án có thể làm tài liệu
tham khảo về cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc tiếp cận và hoàn thiện phương
thức quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với CTCP ở Việt Nam.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng
dạy về quản lý nhà nước, về chuyên ngành luật trong các trường học hiện nay.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận án gồm 3 chương 8 tiết.
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP
LUẬT ĐỐI VỚI CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM ...............