Với 232.162 ha diện tích đất tự
nhiên, Bến Tre tiếp giáp với biển
Đông, được bao bọc và bị chia cắt
bỡi hệ thống sông rạch chằn chịt, đây
là điều kiện tự nhiên khá thuận lợi
cho các tác nhân gây ô nhiễm môi
trường nước có khả năng lan rộng.
Với mục tiêu chiến lược phát triển
kinh tế -xã hội ổn định, lâu dài và
bền vững, trong năm qua, sở Tài
nguyên và Môi trường đã triển khai
thực hiện hoạt động quan trắc chất
lượng nước trên địa bàn tỉnh để có
được một bức tranh tổng thể về vấn
đề môi trường nước tại tỉnhvà từ đó
làm cơ sở để giúp các cơ quan quản
lý hoạch định chiến lược, kế hoạch và
biện pháp thích hợp nhằm hạn chế
vấn đề ô nhiễm môi trường trong hoạt
động phát triển kinh tế-xã hội của
tỉnh.
9 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1884 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan trắc chất lượng nước: phục vụ phát triển bền vững, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUAN TRẮC CHẤT LƯỢNG
NƯỚC: PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG
Với 232.162 ha diện tích đất tự
nhiên, Bến Tre tiếp giáp với biển
Đông, được bao bọc và bị chia cắt
bỡi hệ thống sông rạch chằn chịt, đây
là điều kiện tự nhiên khá thuận lợi
cho các tác nhân gây ô nhiễm môi
trường nước có khả năng lan rộng.
Với mục tiêu chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội ổn định, lâu dài và
bền vững, trong năm qua, sở Tài
nguyên và Môi trường đã triển khai
thực hiện hoạt động quan trắc chất
lượng nước trên địa bàn tỉnh để có
được một bức tranh tổng thể về vấn
đề môi trường nước tại tỉnh và từ đó
làm cơ sở để giúp các cơ quan quản
lý hoạch định chiến lược, kế hoạch và
biện pháp thích hợp nhằm hạn chế
vấn đề ô nhiễm môi trường trong hoạt
động phát triển kinh tế-xã hội của
tỉnh.
Sở Tài nguyên và Môi trường đã
tiến hành lập mạng lưới quan trắc
môi trường nước dựa trên đặc điểm
địa hình, địa mạo, chế độ thủy văn,
thủy vực, nguồn gốc hình thành, tập
quán sinh hoạt và sản xuất của cộng
đồng, tiêu chuẩn môi trường Việt
Nam,... đã tổ chức quan trắc 3 thành
phần môi trường nước cơ bản:
- Môi trường nước mặt (gồm các
phông môi trường nước thượng
nguồn; nước trên các nhánh sông,
kênh rạch chính của tỉnh; nước vùng
hạ nguồn; và nước tại các các sông
rạch chảy qua khu vực thị xã và các
thị trấn trong tỉnh;
- Môi trường nước biển: Chất
lượng nước trên các bãi biển của
tỉnh.
- Chất lượng nước phục vụ nuôi
trồng thủy sản.
Hệ thống quan trắc môi trường
nước của tỉnh bao gồm 41 điểm quan
trắc, với tần xuất quan trắc định kỳ 1-
2 lần/năm tuỳ thuộc vào diễn biến
môi trường, với các chỉ tiêu quan trắc
chủ yếu: pH, Fe (mg/l), Mn (mg/l),
NH4
+ (mg/l), NO3
-(mg/l), BOD5(mg/l),
SS (mg/l), Coliform (MPN/100ml và
dư lượng thuốc BVTV Họ Clo hữu
cơ, Độ mặn, Dầu mỡ (mg/l), Coliform
(MPN/100ml). và nước trên các bãi
biển: 3 điểm, pH, SS (mg/l),
BOD5 (mg/l), Fe (mg/l), Mn (mg/l),
NH4
+ (mg/l), Dầu mỡ (mg/l), Coliform
(MPN/100ml).
Kết quả quan trắc môi trường
nước đầu mùa khô năm 2005 và đầu
mùa mưa năm 2006, cho thấy: môi
trường nước mặt, với chất lượng
nước thượng nguồn, vào đầu mùa
mưa năm nay hàm lượng các chất ô
nhiễm ở thượng nguồn có sự ảnh
hưởng ít hơn so với đầu mùa khô
năm trước, tuy nhiên có một vài
thông số đo được vượt hơn tiêu
chuẩn nước mặt: thông số BOD5 vượt
1,25 lần, vi sinh trong nước vượt 2,43
lần so với TCVN 5942:1995 (Cột A).
Trong khi đó, Chất lượng nước trên
các nhánh sông, kênh rạch chính, lần
quan trắc đầu mùa năm nay hàm
lượng các chất ô nhiễm trong nước
thấp hơn so với lần quan trắc đầu
mùa mưa năm trước (trừ thông số
BOD5 cao hơn 1,83 lần); So với
TCVN 5942:1995, giá trị trung bình
các thông số: pH, Nitrat,Amoniac,
Mangan, còn nằm giới hạn tiêu
chuẩn, chất rắn lơ lửng vượt 5,62 lần,
BOD5 vượt 2,075 lần, sắt vượt 1,25
lần, vi sinh trong nước vượt 12,82 lần
(xem biểu đồ diễn biến giá trị
BOD5 của chất lượng nước trên các
nhánh sông, kênh rạch chính).
Kết quả phân tích chất lượng
nước vùng hạ lưu, cho thấy: hàm
lượng các chất ô nhiễm trong nước
lần quan trắc đầu mùa năm nay thấp
hơn so với lần quan trắc đầu mùa
mưa năm trước (trừ thông số
BOD5 và Vi sinh); So với TCVN
5942:1995, giá trị trung bình các
thông số: pH, BOD5 , Amoniac, còn
nằm giới hạn tiêu chuẩn, Mangan
vượt hơn 1,05 lần, Chất rắn lơ lửng
vượt 3,31 lần, sắt vượt 9,56 lần, Vi
sinh trong nước vượt 153,5 lần, Váng
dầu mở trong nước có biểu hiện
nhưng ở hàm lượng thấp (0,0010225
mg/l). Chất lượng nước của các
nhánh sông kênh rạch chảy qua thị
xã và các thị trấn, đầu mùa mưa năm
nay hàm lượng các chất ô nhiễm có
sự khác biệt so với các lần quan trắc
trước: thông số pH, Nitrat, Mangan,
sắt nằm trong giới hạn TCVN
5942:1995 (Cột A); Chất rắn lơ lửng
vượt hơn tiêu chuẩn 2,9 lần, thấp
hơn so với lần phân tích đầu mùa khô
năm trước 2,03 lần và cao hơn so giá
trị cùng mùa của năm 2005 1,08 lần;
BOD5 vượt hơn với tiêu chuẩn 2,35
lần, vượt hơn mùa khô năm trước
gần 1,5 lần và vượt hơn 2,7 lần so
với lần quan trắc cùng mùa năm
trước; vi sinh vượt hơn 15,93 lần so
với tiêu chuẩn, thấp hơn so đầu mùa
khô năm trước 2,89 lần và thấp hơn
so với cùng mùa năm trước là 1,17
lần.
Bên cạnh chất lượng môi trường
nước mặt đang có xu hướng ngày
càng trở nên xấu đi, môi trường nước
biển (nước trên các bãi biển) đã và
đang diễn biến phức tạp và có nguy
cơ ô nhiễm. Giá trị đầu mùa mưa
năm nay pH, Amoniac, BOD5 nằm
trong giới hạn cho phép của tiêu
chuẩn TCVN 5943:1995 (cột Bãi
tắm); Chất rắn lơ lửng: vượt hơn tiêu
chuẩn 11,89 lần, cao hơn so với đầu
mùa mưa năm trước 1,97 lần tuy
nhiên thấp hơn so với đầu mùa khô
năm trước 3,64 lần; Sắt vượt hơn 18
lần so với tiêu chuẩn nhưng thấp hơn
2,16 lần so với kết quả vào cuối mùa
mưa đầu mùa khô; Mangan vượt hơn
tiêu chuẩn 1,73 lần so với tiêu chuẩn;
dầu mỡ: thể hiện trên các bãi biển
0,016mg/l, tuy nhiên thấp hơn so với
02 lần trước và đều vượt hơn giới
hạn của tiêu chuẩn; Coliform: dao
động từ 46.000 đến 240.000
MPN/100ml, so với lần quan trắc
trước, giá trị trung bình thấp hơn so
với đầu mùa khô và cao hơn so với
đầu mùa mưa năm trước.
Một trong những hoạt động quan
trắc môi trường nước khá quan trọng,
góp phần quyết định sự đột phá
thành công trong việc phát triển
nhanh và bền vững ngành kinh tế
thủy sản, đặc biệt là nghề nuôi trồng
thủy sản. Đó là quan trắc chất lượng
nước vùng nuôi trồng thuỷ sản, lần
quan trắc đầu mùa mưa năm 2006,
hàm lượng các chất ô nhiễm so với
tiêu chuẩn TCVN 5943:1995 của cột
nước nuôi trồng thuỷ sản: thông số
pH, Amoniac nằm trong giới hạn của
tiêu chuẩn; Chất rắn lơ lửng: vượt
hơn tiêu chuẩn 2,24 lần, thấp hơn so
với giá trị phân tích vào đầu mùa khô
năm trước 1,81 lần; tổng sắt vượt
hơn tiêu chuẩn 8,28 lần, tuy nhiên
thấp hơn so với giá trị đầu mùa khô
năm 2005 là 2,07 lần; BOD5 : vượt
hơn tiêu chuẩn 1,017 lần, cao hơn so
với đầu mùa khô năm trước 1,22 lần;
Mangan vượt hơn tiêu chuẩn 1,85 lần
và cao hơn so với đầu mùa khô năm
trước 1,32 lần; dầu mỡ trong nước:
thể hiện trong nước từ 0,0002 đến
0,044mg/l và thấp hơn khoảng 1,2 lần
so với kết quả phân tích vào đầu mùa
khô năm trước; vi sinh: vượt từ 68,55
lần so với tiêu chuẩn và thấp hơn so
với lần quan trắc trước khoảng 3,5
lần./.
Để hoạt động quan trắc chất
lượng môi trường nói chung và đặc
biệt là quan trắc môi trường nước nói
riêng đạt hiệu và ngày càng thiết thực
hơn trong việc phục vụ nhu cầu và
phát triển bền vững kinh tế-xã hội,
đảm bảo sức khỏe của cộng đồng
dân cư và hội đủ khả năng để vươn
ra biển lớn. Thiết nghĩ, các cấp ngành
liên quan cần tăng cường đầu tư hơn
nữa năng lực quan trắc và cảnh báo
môi trường cả về vật lực và nhân lực
chắc chắn sẽ đáp ứng được nhu cầu
đang đặt ra.