Tiểu học là cấp học đầu tiên,là nơi các em bước vào ngưỡng cửa tri thức. giai
đoạn này các em được cung cấp hai luồng tri thức thông qua hai môn học chính đó
là: Tiếng Việt và Toán. Mỗi môn học có nhiệm vụ riêng có hướng giáo dục tri
thức riêng, nhưng vẫn tác động qua lại lẫn nhau vàcùng với các môn học khác tạo
nên một nền tảng vững vàng cho các cấp bậc sau. Trong đó môn Tiếng Việt cùng
với các môn học khác có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh bốn kĩ năng cơ bản đó
là: “Nghe, nói, đọc, viết”, mà trong môn học này lại có các thành viên cấu thành là
các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập làm văn, Kể chuyện
Trong đó phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp của các phân
môn khác. Qua tiết Tập làm văn học sinh có khả năng xây dựng một văn bản, đó là
bài nói, bàiviết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quang trọng, thông
qua đó con người thực hiện quá trình tư duy –chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư
tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc
sống lao động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói –ngôn bản và dưới dạng viết văn bản )
giữ vai trò quang trọng trong sự phát triển xã hội. Chính vì vậy hướng dẫn học
sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc rất
lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói
riêng, cụ thể tìm hiểu ở đây là chương trình Tập làm văn lớp 3.
19 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 9662 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm môn tập làm văn lớp 3 –phương pháp dạy và hình thức luyện tập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sáng kiến kinh nghiệm môn tập làm văn lớp 3 – phương pháp dạy và hình
thức luyện tập
A. PHẦN MỞ ĐẦU.
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Tiểu học là cấp học đầu tiên, là nơi các em bước vào ngưỡng cửa tri thức. giai
đoạn này các em được cung cấp hai luồng tri thức thông qua hai môn học chính đó
là: Tiếng Việt và Toán. Mỗi môn học có nhiệm vụ riêng có hướng giáo dục tri
thức riêng, nhưng vẫn tác động qua lại lẫn nhau và cùng với các môn học khác tạo
nên một nền tảng vững vàng cho các cấp bậc sau. Trong đó môn Tiếng Việt cùng
với các môn học khác có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh bốn kĩ năng cơ bản đó
là: “Nghe, nói, đọc, viết”, mà trong môn học này lại có các thành viên cấu thành là
các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập làm văn, Kể chuyện…
Trong đó phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp của các phân
môn khác. Qua tiết Tập làm văn học sinh có khả năng xây dựng một văn bản, đó là
bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quang trọng, thông
qua đó con người thực hiện quá trình tư duy – chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư
tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc
sống lao động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói – ngôn bản và dưới dạng viết văn bản )
giữ vai trò quang trọng trong sự phát triển xã hội. Chính vì vậy hướng dẫn học
sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc rất
lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói
riêng, cụ thể tìm hiểu ở đây là chương trình Tập làm văn lớp 3. Vấn đề đặt ra:
Người giáo viên làm sao để đạy hiệu quả như mong muốn.
Qua thực tế học tập tôi thấy phân môn Tập làm văn là phân môn khó so với các
phân môn khác của môn Tiếng Việt. Do đặt trưng phân môn Tập làm văn với mục
tiêu cụ thể là: “Hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản
(nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: Miêu tả, kể chuyện, viết thư, tường
thuật, kể lại bản tin, tập tổ chức cuộc họp, giới thiệu về mình và những người xung
quanh”. Trong quá trình tham gia các hoạt động học tập này học sinh với vốn kiến
thức còn hạn chế nên thường ngại nói. Nếu bắt buộc phải nói, các em thường đọc
lại bài viết đã chuẩn bị trước. Do đó giờ dạy thường không đạt hiệu quả cao.
Xuất phát từ thực tiễn nhưng vậy tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Dạy Tập làm
văn lớp 3 như thế nào để đáp ứng yêu cầu đổi mới”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
- Tìm ra những khó khăn trong dạy Tập làm văn ở lớp 3 theo chương trình đổi
mới.
- Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa và hình thức luyện tập (dạy và
học) trong giờ Tập làm văn ở lớp 3 như thế nào ?
- Đưa ra một số biện pháp dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới.
- Rút ra bài học cho bản thân.
III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
- Học sinh lớp 3.
- Hoạt động dạy và học trong giờ Tập làm văn lớp 3.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- phương pháp phân tích.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
B. PHẦN NỘI DUNG.
Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng
Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng tổng
hợp từ nhiều phân môn khác như: Học Vần, Tâp viết, Chính tả, Tập đọc, Luyện từ
và câu… Để làm được một bài văn học sinh phải sử dụng cả bốn kĩ năng: “ Nghe,
nói, đọc, viết “. Phải vận dụng những kiến thức về tiếng Việt, về cuộc sống thực
tiễn. Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng tạo lập văn bản,
trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử dụng
tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy, Tập làm văn được coi là phân môn có
tính tổng hợp, toàn diện, sáng tạo có liên quan mật thiết đến các môn học khác.
Trên cơ sở nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn có rất nhiều đổi mới,
nên đòi hỏi tiết dạy Tập làm văn phải đạt được mục đích cụ thể hơn, rõ nét hơn.
Ngoài phương pháp của thầy, học sinh cần có vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống
thực tế. Chính vì vậy, việc dạy tốt các phân môn khác không chỉ là nguồn cung
cấp kiến thức mà còn là phương tiện rèn kỹ năng nói, viết, cách hành văn cho học
sinh. Điều này đòi hỏi phân môn Tập làm văn này phải có nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất là giúp cho học sinh sau quá trình luyện tập lâu dài có ý thức nắm được
cách viết và cách nói sáng tạo các văn bản theo nhiều phong cách khác nhau. Thứ
hai là phân môn này góp phần bổ sung kiến thức, rèn luyện tư duy hình thành nhân
cách cho học sinh. Còn nhiều nhiêm vụ khác nữa nhưng tôi chỉ nêu hai nhiệm vụ
tôi coi là quan trọnh nhất.
Tóm lại: Dạy phân môn Tập làm văn theo hướng đổi mới phải khích lệ học sinh
tích cực, sáng tạo, chủ động học tập, biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn
bản, văn bản. Nói cách khác, các phân môn trong môn Tiếng Việt là phương tiện
hỗ trợ cho việc dạy Tập làm văn được tốt hơn.
NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH SÁCH GIÁO KHOA, PHƯƠNG PHÁP, QUY
TRÌNH DẠY, VÀ CÁC HÌNH THỨC LUYỆN TẬP PHÂN MÔN TẬP LÀM
VĂN LỚP 3 THEO CHƯƠNG TRÌNH MỚI.
1. Nội dung chương trinh sách giáo khoa.
Chương trinh dạy học Tập làm văn lớp 3 bao gồm 35 tiết / năm: trong đó có 31 tiết
thực học, và 4 tiết ôn tập.
- Kì 1: 16 tiết + 2 tiết ôn tập.
- Kì 2: 15 tiết + 2 tiết ôn tập.
Trang bị cho học sinh một số kiến thức và kĩ năng phục vụ cho học tập và đời
sống hàng ngày như: Điền vào tờ giấy in sẵn, viết thư, làm đơn, tổ chức cuộc họp,
phát biểu trong cuộc họp, giới thiệu cuộc họp của tổ; lớp; trường, ghi chép sổ
tay,…
Tiếp tục rèn kĩ năng : “Nghe, nói, đọc, viết “ thông qua kể chuyện, miêu tả.
Ví dụ: Kể về một việc đơn giản, tả sơ lược về người hoặc vật xung quanhtheo gợi
ý bằng tranh hoặc bằng câu hỏi.
Rèn kĩ năng nghe thông qua các bài tập nghe.
2. Phương pháp bạy học cơ bản.
- Phương pháp trực quan.
- Phương pháp thực hành giao tiếp, rèn kĩ năng nghe-nói-đọc-viết.
- Phương pháp giảng giải.
- Phương pháp dạy học cá nhân.
- Phương pháp thảo luận nhóm.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp làm việc với sách giáo khoa và tài liệu.
3. Quy trình dạy và học của tiết dạy Tập Làm Văn.
• Phần 1: Ổn định tổ chức lớp và kiểm tra bài cũ (3 – 5 phút).
Yêu cầu học sinh làm bài tập ở tiết trước, bài tập ở nhà hoặc nhắc lại những nội
dung cần ghi nhớ về kiến thức kĩ năng ở bài học trước. Giáo viên nhận xét kết quả,
chấm bài (nếu có).
• Phần 2: Dạy bài mới.
a ) Giới thiệu bài (1 – 2 phút).
b ) Hướng dẫn làm các bài tập (20 – 25 phút).
Thực hành giải lần lược các bài tập bằng nhiều hình thức, chú ý nội dung từng tiết
dạy như: Rèn nghe-nói-đọc-viết, hoặc những hình thức khác nhau nhằm đạt được
mục tiêu yêu cầu.
• Phần 3: Củng cố dặn dò (1 – 2 phút).
Chốt lại nội dung kiến thức và kĩ năng vừa học, nêu yêu cầu cho hoạt đông tiếp
theo.
4. Các hình thức luyện tập trong Phân môn Tập Làm Văn lớp 3.
Học sinh được luyện tập chủ yếu qua các bài tập : Bài tập nghe, bài tập nói, bài tập
viết.
a ) Bài tập nghe: Học sinh được luyện tập qua các tiết học sau.
- Tuần 4: Nghe kể: Dại gì mà đổi.
- Tuần 7: Nghe kể: không nỡ nhìn.
- Tuần 11: Nghe kể: tôi có đọc đâu.
- Tuần 14: Nghe kể: Tôi cũng như bác.
- Tuần 15: Nghe kể: Giấu cày.
- Tuần 16: Nghe kể: Kéo cây lúa lên.
- Tuần 19: Nghe kể:Chàng trai phù ủng.
- Tuần 21: Nghe kể: Nâng niu từng hạt giống.
- Tuần 24: Nghe kể: Người bán quạt may mắn.
- Tuần 32: Nghe kể: Vươn tới các vì sao.
• Yêu cầu.
- Học sinh hiểu nội dung câu chuyện, thuật lại câu một cách mạnh dạng, tụ tin.
- Học sinh thấy được ý nghĩa (cái hay, cái đẹp, cái cần phê phán) trong câu
chuyện.
- Biết diễn đạt rõ ràng thành câu, dễ hiểu.
- Giọng kể phù hợp nội dung từng câu chuyện.
b ) bài tập nói: Học sinh luyện tập qua các tiết học sau.
- Tuần 1: Nói về Đội.
- Tuần 5: Tập tổ chức cuộc họp.
- Tuần 6: Kể lại buổi đàu em đi học.
- Tuần 8: Kể về người hành xóm.
- Tuần 11: Nói về quê hương.
- Tuần 12: Nói về cảnh đẹp đất nước.
- Tuần 15: Giới thiệu về tổ em.
- Tuần 16: Nói về thành thị nông thôn.
- Tuần 20: Báo cáo hoạt động.
- Tuần 21: Nói về tri thức.
- Tuần 22: Nói về người lao động trí óc.
-Tuần 25: Kể về lễ hội.
- Tuần 26: Kể về một ngày hội.
- Tuần 28: Kể về một trận thi đấu thể thao.
- Tuần 32: Nói về bảo vệ môi trường.
• Yêu cầu:
- Học sinh nói đúng rõ ý, diễn đạt rõ ràng dễ hiểu.
- Học sinh nói theo nội dung chủ đề cho trước.
- Nói thành câu biết cách dùng từ chân thực.
- Nói thành đoạn văn.
c ) Bài tập viết: học sinh luyện tập qua các tiết học sau.
- Tuần 1: Điền vào tờ giấy in sẵn (ĐTNTP).
- Tuần 2: Viết đơn.
- Tuần 3 và 4: Điền vào tờ giấy in sẵn.
- Tuần 10: Tập viết thư và phông bì thư.
- Tuần 12: Viết về cảnh đẹp đát nước .
- Tuần 13: Viết thư.
- Tuần 17: Viết về thành thị nông thôn.
- Tuần 22: Viết về người lao động trí óc.
- Tuần 28: Viết lại một tin thể thao trren báo đài.
- Tuần 29: Viết về một trận thi đấu thể thao.
- Tuần 30: Viết thư.
- Tuần 32: Viết về bảo vệ môi trường.
• Yêu cầu:
- Trình bày thành đoạn văn, đủ số lượng câu.
- Biết cách chấm câu, viết các câu theo mẫu đã học (ai làm gì?, làm như thế nào?).
- Biết cách dùng từ ( biết cách sử dụng phép nhân hoá, so sánh).
Chương II. CƠ SỞ THỰC TIỄN.
I.Thuận lợi.
• Đối với giáo viên:
- Năm học 2010-2011 là năm học thứ 9tiến hành chương trình dạy và học theo
chương trình mới, nên giáo viên đã nắm được yêu cầu của việc đổi mới phương
pháp một cách cơ bản, việc sử dụng đồ dùng dạy học đã tương đối hiệu quả.
- Qua sự chỉ đạo chuyên môn của các trường cụ thể là ở các tổ chuyên môn, và đặt
biệt là phòng giáo dục ở từng địa phương cụ thể đã có vai trò tích cực giúp giáo
viên đi đúng nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn.
- Thông qua các tiết dạy mẫu, các cuộc thi, hội thảo, Các chuyến đi tập huấn đã
mang lại cho mỗi giáo viên nhiều kinh nghiệm, và thành công khi áp dụng vao
giảng dạy Tập Làm Văn.
- Các phương tiện thông tin đại chúng như: Tivi, đài phất thanh, radio, sách, báo
… Giáo viên đã tiếp cậc với đổi mới phương pháp dạy và học Tập Làm Văn.
• Đối với học sinh:
- Học sinh lớp 3 ở giai đoạn này rất ham học, đặc biệt hơn lứa tuổi này các em
không con bỡ ngỡ trước môi trường học tập thật sự như ở càc lớp học truớc, quan
trọng là ở lớp 3 này các em đã được trang bị một khối lượng kiến thức khá lớn ở
lớp 1, đặc biệt là các em ở lớp 2 đã nắm vững kiến thức, kĩ năng của phân môn
Tập Làm Văn, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tạo lập ngôn bản, kĩ năng kể chuyện miêu
tả mà các thầy cô giáo trước đó dã trang bị sẵn. Đây là cơ sở giúp cho các em học
tốt phân môn Tập Làm Văn lớp 3.
- Môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập Làm Văn nói riêng có nội dung
phong phú, sách giáo khoa được trình bày với kênh hình đẹp, trang thiết bị dạy
học hiện đại, hấp dẫn học sinh, phù hợp vơi tâm lý lứa tuổi các em.
Tuy có những thuận lợi như vậy nhưng khó khăn vẫn còn tồn tại rất nhiều.
II. Khó khăn:
• Đối với giáo viên:
Trong môn Tiếng Việt phân môn khó nhất là Tập Làm Văn, nó đòi hỏi người giáo
viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú cần có vốn sống thực tế, người giáo
viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy. Biết gợi mở tò mò,
có khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp các em nói viết thành văn bản.
• Đối vói học sinh:
- Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh lớp 3, lứa tuổi mau nhớ nhuưng cũng mau
quyên, mức độ tập trung thục hiện các yêu cầu của bài học chưa cao.
- Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc
tiếp thu bài học.
- Vốn từ vựng của học sinh còn hạn chế, cũng ảnh hưởng đến việc thực hành luyện
tập. Cụ thể là : Các em viết câu trả lời rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgíc, tính sáng
tạo trong thực hành viết chưa cao thể hiện ở cách trình bày bố cục bài văn, dấu
chấm câu, sử dụng hình ảnh gợi tả chưa sinh động.
- Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc,
chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn riêng của mình. Ví dụ:
Phần lớn học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình.
Với những thuận lợi và khó khăn như trên chúng tôi tiến hành khảo sát chất lượng
môn Tập Làm Văn lớp 3 về quá trình dạy và học để thấy các em tiếp thu và vận
dụng như thế nào.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY TẬP LÀM VĂN THEO THƯỚNG ĐỔI MỚI
HIỆN NAY.
Tuỳ theo nội dung, yêu cầu của mỗi đơn vị học và từng đối tượng học sinh, giáo
viên có thể áp dụng nhóm các biện pháp, hoặc một biện pháp chủ đạo kế hợp với
một số biện pháp bổ trợ khác. Về cơ bản tôi thấy có một số biện pháp sau:
1. Luôn chú trọng “tích hợp – lồng ghép” khi dạy phân môn Tập Làm Văn lớp 3.
Khi dạy Tập Làm Văn giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp giữa các phân môn trông
môn Tiếng Việt như: Tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ và câu, tập viết,… để
giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập Làm Văn. mối quan hệ
này thể hiện rõ trong cấu trúc của sách giáo khoa: Các bài học được biên soạn theo
chủ đề, chủ điểm, hai đơn vị học xoay quanh một chủ điểm ở tất cả các phân môn.
Ví dụ: Chủ đề Cộng đồng dạy trong hai tuần gồm các bài tập đọc, luyện từ và
câu,… Trong quá trình rèn đọc, khai thác nội dung các bài đọc cung cấp cho học
sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng, những câu văn có hình ảnh về chủ đề Cộng
đồng. Cụ thể khi dạy bài tập đọc: Kể chuyện các em nhỏ và cụ già ở tuần 8 giáo
viên khai thác nội dung bài theo hệ thống câu hỏi sau
+ Điều gì gặp bên đường khiến các bạn nhỏ phải dùng lại? (Các bạn gặp một cụ
già đứng ven đường, vẻ mặt mệt mỏi, cặp mắt lộ vẻ u sầu).
+ Các bạn quan tâm đến ông cụ như thế nào? ( Các bạn băn khoăn và trao dổi với
nhau. Có ban đoán: a) Hay ông cụ bị ốm, b) Hay cụ bị mất cái gì đó. Cuối cùng cả
nhóm bạn đến hỏi thăm ông cụ).
+ Vì sao các bạ quan tâm đến ông cụ? Với câu hỏi này có thể các em sẽ trả lời như
sau:
- Vì các bạn là những trẻ ngoan.
- Vì các bạn là những ngươì nhân hậu.
- Vì các bạn mốn quan tâm, giúp đỡ ông cụ.
+ Ông cụ gặp chuyện j buồn? (Cụ bà bị ốm nặng đang nằm trong bệnh viện, khó
mà qua khỏi).
+ Vì sao khi trò chuyện với các bạn nhỏ ông cụ thấy lòng mình nhẹ hơn? Với câu
hỏi này có thể các em trả lời như sau:
- Ông cản thấy nỗi buồn được chia sẻ.
- Ông cảm thấy đỡ cô đơn vì có các bạn nhỏ trò chuyện.
- Ông cảm thấy lòng mình ấm lại vì tình cảm của các bạn nhỏ dành cho mình.
Qua hệ thống câu hỏi, giáo viên giúp học sinh bày tỏ được thái độ, tình cảm, ý
kiến nhận xét, đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song song với
quá trình đó, giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn
để học sinh rút ra câu trả lời đúng nhất phù hợp với tình huống đó, và tạo cho học
sinh cách ứng sủ hay.
Qua câu trả lời của học sinh, giáo viên định hướng cho các em ý thức biết quan
tâm chia sẻ với nhũng người trong cộng đồng, giúp các em khi viết các đoạn văn
kể về những người thân hoặc người hàng xóm, đoạn văn toát lên được nội dung:
Con người phải biết yêu thương nhau, sự quan tâm chia sẻ của những người xung
quanh, làm cho mỗi người dịu bớt những lo lắng, buồn phiền, và cảm thấy cuộc
sống tốt đẹp hơn.
• Như vậy: Như vậy qua tiết học này, học sinh mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt
mạch lạc, lôgíc, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Trên cơ sở đó, bài luyện nói của
các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc, đồng thời hình thành cho các em
cách ứng sử linh hoạt trong cuộc sống; hình thành cho học sinh kiến thức về mối
liên hệ tương thân tương ái giữa mọi người trong cộng đồng ; rèn cho hoc sinh thói
quen quan tâm, chia sẻ giúp đỡ mọi người trong cộng đồng
Cùng với chủ đề này thì phân môn Luyên từ và câu tuần 8 cũng cung cấp cho học
sinh vốn từ về chủ đề cộng đồng qua hệ thống các bài tập, cụ thể như: Bài 1: Sắp
xếp những từ vào ô trống trong bảng phân loại sau. Các từ: Cộng đồng, cộng tác,
đồng bào, đồng đội, đồng tâm, đồng hương. Giáo viên giúp các em hiểu nghĩa các
từ trên và sắp xếp vào các nhóm từ: Nhóm 1: Những người trong cộng đồng.
Nhóm 2: thái độ hoạt động trong công đồng. Từ việc hiểu nghĩa ở bài tập 1, học
sinh hiểu ý nghĩa các thành ngữ ở bài tập 2 và bày tỏ thái độ tán thành hay không
tán thành thái độ ứng xử trong cộng đồng thể hiện trong các thành ngữ đó.
Chung lưng đáu cật (Mọi người cùng chung sức chung lòng để thực hiện một công
việc nhiều khó khăn trở ngại)
Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại (phê phán thái độ thờ ơ, không quan tâm,
tương trợ người khi khác gặp khó khăn ).
Ăn ở như bát nước đầy (Ca ngợi con người ăn ở cư xử với mọi người có tình, có
nghĩa, trước sau không thay đổi).
Như vậy học sinh biết vận dụng những câu thành ngữ về thái độ ứng xủ trong
cộng đồng khi nói. Viết tập làm văn giao tiếp, giao tiếp ứng xử trong cuộ sống.
Ở phân môn chính tả tuần 8 các em cũng được luyện viết các bài trong chủ đề
Cộng đồng. Ví dụ: viết đoạn 4 trong bài các em nhỏ và cụ già: “Cụ ngừng lại và
nghen ngào nói tiếp …. cho đến ông cũng thấy lòng nhẹ hơn. Khi viết đoạn văn
trên học sinh rèn viết chính tả, cách sử dụng các dấu câu; thấy được sự thông cảm,
chia sẻ giữa con người với nhau làm dịu bớt nỗi lo láng buồn phiền, tăng thêm cho
mỗi người niềm hi vọng, ngị lực sống. Học sinh vận dụng cái hay, cái đẹp của
ngôn từ trong đoạn văn để thể hiện tình cảm, thái độ đánh giá trong từng bài văn
cụ thể của chính các em. Tương tự, ở phân môn tập viết tuần 8 các em được làm
quenvới các thành ngữ, tục ngữ về chủ đề cộng đồng như luyện viết câu ứng dụng:
“ Khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”. Xuất phát
từ các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết Xoay quanh chủ đề
Cộng đồng, học sinh biết “Kể về người hàng xóm mà em yêu mến” (TLV lớp 3
tuần 8), và viết được đoan văn hoàn chỉnh, thể hiên tình cảm, thái độ dánh giá đối
với người hàng xóm qua việc sử dụng từ ngữ, câu văn có hính ảnh. Ví dụ như các
em viết: “Cô Loan là người hàng xóm bên cạnh nhà em. Cô là một giáo viên tiểu
học, tối tối miệt mài bên giáo án, và chấm bài cho học sinh. Với dáng nhỏ nhắn
nhưng rất nhanh nhẹn, giọng cô ấp áp. Em thích nghe nhất là khi cô hát. Cô thật
xứng danh là mộ giáo viên giỏi của trường
• Như vậy, khi dạy tất cả các phân môn: Luyện từ và câu, chính tả, tập đọc,…đều
nhằm mục đích giúp học sinh có kĩ năng hình thành văn bản, ngôn bản. Do đó,
tích hợp lồng ghép phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn Tập Làm Văn lớp 3.
2. Dạy học theo quan điểm giao tiếp.
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là hình thành cho học sinh kĩ năng diễn đạt
thông qua các bài học, hình thành thói quen ứng xử trong giao tiếp hàng ngày với
thầy, cô, cha mẹ, bạn bè, và mọi người xung quanh.
Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, giáo viên tạo cho học sinh
nhiều cơ hội thực hành, luyện tập, không quá nặng về lý thuyết như phương pháp
dạy truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập,
tích cực sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn luyện các kĩ năng nghe,
nói, đọc, viết cho học sinh thông qua phân môn Tập Làm Văn đảm bảo đạt được
hiệu quả tối ưu. Ví dụ: Giảng dạy bài tập nghe, tập nói, và kể lại câu chuyện “giấu
cày” tập làm văn tuần 1: Qua việc kể mẫu của giáo viên, quan sát tranh, gợi ý sách
giáo khoa… Học sinh kể nội dung câu chuyện như sau: Có một người đang cày
ruộng thì vợ gọi về ăn cơm. Bác ta liền hét to trả lời :
- Để tôi giấu cái cày vào bụi đã.
Về nhà bác liền bị vợ trách:
- Ông giấu cái cày mà hét to thế, kẻ gian biết chỗ nó lấy mất cái cày thì sao. Lát
sau, cơm nước xong, bác ta ra ruộng, quả nhiên cái cày bị mất.Bác ta liền chạy
một mạch về nhà, nói thầm vợ:
- Nó lấy mất cái cày rồi.
Qua giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau(kể cho nhau
nghe), việc kể lại nội dung câu chuyện trước lớp giúp các em thấy được sự phê
phán hóm hỉnh, hài hước và kể lại nội dung câu chuyện với giọng kể, cử chỉ, điệu
b