Quá trình dạy học bao gồm hệ thống những tác động từ phía
người dạy (giáo viên) đến người học (học sinh), nhằm làm cho học sinh tích
cực và chiếm lĩnh tri thức, hình thành những phẩm chất nhân cách và năng lực
phù hợp với nhu cầu ngày một cao của xã hội hiện đại.
Thiết kế nội dung (Soạn giáo án) và cách thức dạy học là một
khâu đột phá quan trọng để đổi mới nội dung, phương pháp dạy học nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy. Để việc dạy học có hiệu quả, người giáo viên
bao giờ cũng dành một thời gian thích đáng để thiết kế bài. Muốn dạy học có
kết quả cần thiết kế chu đáo bài học. Khi thiết kế bài học cần chú trọng đến
nhiều khía cạnh tác động đến quátrình dạy học như: Đặc điểm lứa tuổi học
sinh, nhu cầu, hứng thú, các phương tiện kỹ thuật đồdùng trực quan, cơ sở vật
chất trường lớp. Từ đó có định hướng rõ rệt để xác định những tiêu chí cụ
thể cần đạt cũng như cách thức (sự lựa chọn phương pháp phù hợp) để đạt
được mục tiêu bài dạy.
28 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 4695 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm - Một số biện pháp nâng cao chất lượng soạn, giảng ở trường Tiểu học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0
SÁNG KIẾN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG SOẠN - GIẢNG Ở TRƯỜNG TIỂU
HỌC
Phần thứ nhất
ĐẶT VẤN ĐỀ
Quá trình dạy học bao gồm hệ thống những tác động từ phía
người dạy (giáo viên) đến người học (học sinh), nhằm làm cho học sinh tích
cực và chiếm lĩnh tri thức, hình thành những phẩm chất nhân cách và năng lực
phù hợp với nhu cầu ngày một cao của xã hội hiện đại.
Thiết kế nội dung (Soạn giáo án) và cách thức dạy học là một
khâu đột phá quan trọng để đổi mới nội dung, phương pháp dạy học nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy. Để việc dạy học có hiệu quả, người giáo viên
bao giờ cũng dành một thời gian thích đáng để thiết kế bài. Muốn dạy học có
kết quả cần thiết kế chu đáo bài học. Khi thiết kế bài học cần chú trọng đến
nhiều khía cạnh tác động đến quá trình dạy học như: Đặc điểm lứa tuổi học
sinh, nhu cầu, hứng thú, các phương tiện kỹ thuật đồ dùng trực quan, cơ sở vật
chất trường lớp... Từ đó có định hướng rõ rệt để xác định những tiêu chí cụ
thể cần đạt cũng như cách thức (sự lựa chọn phương pháp phù hợp) để đạt
được mục tiêu bài dạy.
1
Kết quả một giờ dạy không những phụ thuộc khá nhiều vào sự
chuẩn bị bài dạy mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan khác nhau
cũng như yếu tố chủ quan không thể tránh khỏi. Đó chính là phụ thuộc vào
năng lực sư phạm, sự tự tin, tính sáng tạo trong sử lý các tình huống sư
phạm...
Trong một vài năm trở lại đây xu hướng đổi mới công tác soạn
giảng ngày càng trở nên bức xúc và cần thiết. Một trở ngại không nhỏ cản trở
quá trình đổi mới việc soạn giáo án và thực thi giờ dạy trên lớp chính là do
thói quen ngại đổi mới của một bộ phận không nhỏ giáo viên. Thực tế cho
thấy nhiều giáo viên muốn giữ nề nếp soạn giáo án theo cách truyền thống mà
ở đó giáo án chỉ là sự ghi chép lại nội dung đã có ở sách giáo khoa mà không
đưa ra các phương pháp dạy học thích ứng với từng giai đoạn học tập của học
sinh. Sự lựa chọn phương pháp giảng dạy cũng gặp nhiều khó khăn do thói
quen dễ dãi trong soạn giảng, trình độ giáo viên còn nhiều bất cập. Hiện tượng
thầy giảng trò nghe, trò chép vẫn là hiện tượng phổ biến, từ đó chất lượng giờ
giảng cho hiệu quả thấp, không gây được hứng thú cũng như óc sáng tạo, tích
cực hoạt động của trò.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn như vậy đã đặt ra nhiệm vụ tìm ra
những giải pháp nào để nâng cao chất lượng Thiết kế kế hoạch bài học và giờ
dạy là vấn đề cấp bách phải giải quyết, giúp cho anh chị em giáo viên ở
trường Tiểu học đổi mới tư duy vào việc làm trong công tác soạn giảng của
mình đem lại hiệu quả thiết thực phù hợp với trình độ nhận thức của tập thể
giáo viên trong đơn vị nhằm từng bước nâng cao hiệu quả giáo dục. Chính vì
lý do đó tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng soạn giảng ở
trường tiểu học” để nghiên cứu, áp dụng vào công tác quản lý của đơn vị,
mong góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp giáo dục ở địa phương.
2
Phần thứ hai
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1. Cơ sở khoa học:
Soạn bài là việc chuẩn bị quan trọng nhất của giáo viên cho giờ lên lớp.
Đồng thời với việc soạn bài là sự chuẩn bị đồ dùng dạy học, thí nghiệm. Đó là
hai loại công việc chủ yếu trước giờ lên lớp của giáo viên.
Hoạt động dạy và học trong trường tiểu học hiện nay được thực hiện
chủ yếu bằng hình thức dạy và học trên lớp. Giờ lên lớp giữ vai trò quyết định
chất lượng dạy học. Vì vậy dễ hiểu rằng vì sao cả hiệu trưởng và giáo viên
đều tập trung sự chú ý, mọi cố gắng của mình vào giờ lên lớp với một mục
đích là nâng cao chất lượng toàn diện giờ lên lớp nhưng mỗi người có vai trò
riêng đối với giờ lên lớp. Trực tiếp quyết định kết quả giờ lên lớp là người
giáo viên. Quản lý thế nào để các giờ lên lớp của giáo viên có kết quả tốt là
việc làm của hiệu trưởng.
Nhiệm vụ của hoạt động dạy và học ở trường tiểu học của người
giáo viên là làm cho học sinh nắm vững tri thức khoa học một cách có hệ
thống, cơ bản, có những kĩ năng, kĩ xảo cần thiết trong học tập, trong lao động
và trong cuộc sống của trẻ. Trong những kĩ năng cần được rèn luyện cho học
sinh thì quan trọng nhất là làm cho học sinh có được kĩ năng học tâp để thực
hiện “Hình thành hoạt động học tập” - Hoạt động chủ đạo của các em trong
thời kỳ này.
Phát triển trí tuệ học sinh trong quá trình nắm tri thức, trước hết
là phát triển tư duy độc lập sáng tạo, hình thành năng lực nhận thức và hoạt
động của học sinh. Ở học sinh tiểu học, trí tưởng tượng rất phong phú nhưng
3
trình độ chuẩn bị sẵn sàng về mặt trí tuệ (hoạt động tư duy) cho học tập chưa
phát triển đến mức cần thiết. Cho nên dạy học chẳng những phải phát triển trí
tưởng tượng của các em mà còn phải rèn luyện các thao tác tư duy để phát
triển năng lực nhận thức, năng lực hoạt động khoa học, sáng tạo.
Những nhiệm vụ dạy và học nói trên được thực hiện đồng thời và
thống nhất với nhau trong quá trình dạy hoc. “Quá trình dạy và học là tập hợp
những hành động liên tiếp của giáo viên và học sinh, được giáo viên hướng
dẫn. Những hành động này nhằm làm cho học sinh tự giác nắm vững hệ thống
kiến thức, kĩ năng, kĩ sảo và trong quá trình đó, phát triển được năng lực
nhận thức, nắm được các yếu tố của văn hoá, lao động trí óc và chân tay,
hình thành những cơ sở của thế giới quan và hành vi cộng sản chủ nghĩa ”
(ÊXiPôp).
Hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò là hai hoạt động
trung tâm của một quá trình dạy học và là hai hoạt động mang tính chất khác
nhau. Song thống nhất với nhau trong mối quan hệ qua lại giữa thầy và trò,
dạy và học cùng lúc diễn ra trong những điều kiện vật chất - kĩ thuật nhất
định.
Toàn bộ những vấn đề nêu trên đều liên quan chặt chẽ với nhau một
cách biện chứng. Trong đó điều kiện tiên quyết để dạy tốt – học tốt là vấn để
thiết kế kế hoạch bài học một cách chuẩn xác về kiến thức, tường minh về
phương pháp, cách thức dạy học của người giáo viên; đồng thời với công việc
đó là thi công bài giảng một cách linh hoạt, đảm bảo nội dung kiến thức và
phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Để tổ chức tốt khâu thiết kế và
thi công của người giáo viên, vai trò hết sức to lớn của người cán bộ quản lý
nhà trường là nắm bắt xu thế, khơi dậy tiềm năng và chỉ đạo có hiệu quả công
việc hàng ngày của giáo viên.
2. Cơ sở thực tiễn:
4
a) Vài nét về đặc điểm chung của nhà trường:
Trường Tiểu học Hoà Sơn A được tách ra từ trường Tiểu học
Hoà Sơn, từ tháng 8 năm 1997, trải qua 10 năm xây dựng và phát triển, kế
thừa phát huy truyền thống nhiều năm liền là trường tiên tiến, Trường đã được
công nhận là Trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia năm 2006.
Trường Tiểu học Hoà Sơn A đóng trên địa bàn xã Hoà Sơn nằm
giáp danh tỉnh Hà Tây, là địa phương có nhiều mặt thuận lợi về giao lưu kinh
tế với đồng bằng Bắc bộ. Tuy vậy kinh tế của địa phương còn chậm phát triển,
trình độ dân trí thấp, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có của mình. Điều đó
ảnh hưởng không nhỏ tới sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục Tiểu học
nói riêng.
Quy mô nhà trường vào loại trung bình so với các đơn vị bạn:
Với tổng số cán bộ giáo viên, nhân viên trong năm học 2007 - 2008 là 31
người, trong đó: - Cán bộ quản lý: 02 người (01 nữ).
- Nhân viên hành chính: 03 người (02 nữ).
- Giáo viên: 26 người (có 02 giáo viên tiếng Anh, 01 giáo viên
Hát nhạc, 01 giáo viên Mỹ thuật, 01 giáo viên thể dục).
Trong đó:
- Trình độ Đại học: 09 cán bộ giáo viên.
- Trình độ Cao đẳng: 09 giáo viên.
- Còn lại 100% đạt trình độ trung cấp sư phạm.
* Phân loại giáo viên năm học 2006 - 2007 như sau:
- Giáo viên giỏi cấp tỉnh: 0
5
- Giáo viên giỏi cấp huyện: 04
- Giáo viên giỏi cấp trường: 12
* Xếp loại thi đua năm học 2006 - 2007 như sau:
- Chiến sỹ thi đua cơ sở: 02
- Lao động giỏi: 13
Năm học 2006 – 2007 có 10 lớp và 265 học sinh trong đó
130/265 học sinh là dân tộc. Nhìn chung điều kiên học tập của học sinh khá
tốt, chỉ có một bộ phận nhỏ còn gặp khó khă do phụ huynh chưa quan tâm
đúng mức vì nhà nghèo. Tuy vậy đa số học sinh ngoan ngoãn, lễ phép có ý
thức học tập tốt.
Với tình hình như trên đã nêu nhà trường đứng trước những thử
thách vô cùng to lớn: Đó là làm gì và làm như thế nào để việc soạn giảng của
giáo viên đạt được kết quả cao, đáp ứng được ngày một cao của xã hội.
Qua kiểm tra hồ sơ giáo án và dự giờ giáo viên, chúng tôi thấy
tuy có nhiều cố gắng nhưng kết quả chưa được là bao. Trước hết xin nêu thực
trạng thiết kế kế hoạch bài học của giáo viên.
b) Thực trạng thiết kế kế hoạch bài học (soạn bài):
Trong năm học 2006 – 2007 qua kiểm tra kế hoạch bài học hàng
tuần và đột xuất cũng như tổng kiểm tra hồ sơ bốn lần trong năm học, chúng
tôi nhận thấy có sự khác biệt ở các nhóm giáo viên khác nhau. Đối với giáo
viên tuổi cao hoặc hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn thì sự đầu tư cho
soạn bài rất hạn chế. Việc lập kế hoạch bài học chỉ như là chép lại sách giáo
viên mà không có sự đầu tư nào khác, không chú ý đến đối tượng học sinh
cũng như cơ sở vật chất phục vụ cho bài giảng. Đặc biệt có trường hợp mượn
6
giáo án cũ rồi chép lại. Những điều đó làm cho chất lượng giảng dạy kém hiệu
quả. Đối với những giáo viên có trình độ chuyên môn vững thì đã có sự đầu tư
nhất định. Khi lập kế hoạch bài học họ đã có sự lựa chọn phương pháp giảng
dạy cũng như tính đến các yếu tố: Học sinh, phương tiện dạy học, mày mò các
tài liệu tham khảo, chú trọng tới việc phát huy tính chủ động, sáng tạo của học
sinh. Tuy nhiên số giáo viên này chưa nhiều.
Sau đây là kết quả phân loại hồ sơ giáo viên trong năm học 2006
– 2007.
Tổng số hồ sơ được xếp loại: 26
- Xếp loại A: 14 hồ sơ.
- Xếp loại B: 10 hồ sơ.
- Xếp loại C: 02 hồ sơ
Việc phân loại kế hoạch bài học mới chỉ dừng ở mức những tiêu
chí sau:
- Loại A: Đủ bài soạn, không nhầm lẫn kiến thức, không cắt xén
chương trình, đủ các bước lên lớp, trình bày sạch sẽ, có hệ thống câu hỏi gợi
mở hướng dẫn học sinh.
- Loại B: Như các tiêu chí của loại A nhưng còn một số bài soạn
sơ lược.
- Loại C: Bài soạn sơ lược nhiều, trình bày chưa khoa học.
Tóm lại: Thực trạng việc thiết kế kế hoạch bài học là: Đủ bài,
đúng phân phối chương trình. Một bộ phận giáo viên nòng cốt có ý thức trách
nhiệm tốt đầu tư nhiều cho bài soạn. Song song với những thiết kế tốt vẫn
7
còn nhiều giáo án sơ lược, chưa chú ý dúng mức đến phương pháp dạy học
đặc thù đối với từng đối tượng học sinh, những giáo án này thể hiện trình độ
chuyên môn hạn chế của giáo viên, năng lực sư phạm yếu hoặc bị ảnh hưởng
của lối làm việc được chăng hay chớ, thiếu đầu tư suy nghĩ tìm tòi.
c. Thực trạng về thi công bài giảng trên lớp.
Việc thực hiện giờ lên lớp của giáo viên là công việc hàng ngày
của mỗi cán bộ giáo viên cần phải nghiêm túc thực hiện:
Về giờ giấc 100% giáo viên thực hiện lên lớp đúng giờ, đảm bảo
thời gian các tiết học. Tư cách tác phong đĩnh đạc, trang phục gọn gàng, lịch
sự. Việc này có tác dụng tới công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, tạo cho
các em có nề nếp, tác phong nhanh nhẹn, làm việc có giờ giấc.
Đối với nội dung bài giảng, trong quá trình kiểm tra giờ dạy của ban
giám hiệu cũng như qua các biên bản nhận xét giờ dạy của các tổ khối chuyên
môn có thể nhận định như sau.
Số lượng giờ lên lớp đảm bảo được mục tiêu đề ra chiếm khoảng
80%. Số giờ dạy không sử dụng đồ dùng trực quan chiếm 20%, số giờ tổ chức
tốt lớp học chiếm 75%. Số giờ dạy học chỉ chú ý đến phương pháp mà không
chú nhiều đến nội dung chiếm 20%. Số giờ áp dụng các phương pháp thuyết
trình một cách đơn thuần chiếm tới 25%.
Từ những số liệu nêu trên cho thấy việc thực hiện tốt cả 3
phương diện: Mục tiêu, nội dung, phương pháp chiếm tỉ lệ còn thấp. Đặc biệt
các giờ dạy chay chiếm quá nhiều cho thấy việc đầu tư tìm tòi, tận dụng khả
năng hiện có của cơ sở vật chất nhà trường cũng như bản thân giáo viên còn
nhiều hạn chế. Điều này một mặt do tâm lý ngại chuẩn bị đồ dùng dạy học,
mặt khác cũng cho thấy bộc lộ rõ nét việc sử dụng trang thiết bị dạy học còn
nhiều lúng túng ở nhiều giáo viên. Bên cạnh đó việc thực hiện giờ lên lớp đối
8
với giáo viên có thâm niên công tác lâu năm thì thường chú ý đến nội dung
bài là chính sao cho chuyền đạt hết nội dung bài là được, còn việc sử dụng các
phương pháp dạy học tích cực thì thực hiện chậm. Còn các giáo viên trẻ lại
theo xu hướng ngược lại, nghĩa là chú ý quá nhiều đến phương pháp mà
không mở rộng, làm rõ nội dung cần lĩnh hội cho học sinh.
Từ thực trạng như vậy dẫn đến chất lượng học tập của học sinh
chưa được cao, học sinh tiếp nhận tri thức một cách thụ động, kiến thức không
sâu, thiếu tính bền vững.
Chung quy lại cho thấy thực trạng giờ lên lớp của giáo viên trong
nhà trường là: Tác phong mẫu mực, ở mức độ nhất định đã làm chủ được giờ
giảng song bên cạnh đó còn nhiều khiếm khuyết như: Một số ít giáo viên chưa
thực sự vững về kiến thức và phương pháp, đặc biệt việc sử dụng các phương
tiện dạy học còn hạn chế, việc phối kết hợp các phương pháp dạy học trong
một giờ sao cho hiệu quả nhất chưa được tốt. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
thực trạng nêu trên là: Một số giáo viên chưa được đào tạo chính quy mà được
đạo tạo theo hệ trung học hoàn chỉnh nên năng lực có nhiều hạn chế, việc tự
học và tự bồi dưỡng chưa thường xuyên và gặp không ít khó khăn do điều
kiện gia đình không cho phép. Do vậy có giáo viên chưa bắt kịp với đà đổi
mới hiện nay. Điều đáng mừng là từ năm học 2005 - 2006 đến nay, phòng
học, bàn ghế đã được đầu tư mới, đầy đủ đúng quy cách, đủ điều kiện cho dạy
và học 2 buổi/ngày.
II. NỘI DUNG.
1. Chỉ đạo công tác xây dựng kế hoạch giảng dạy hàng tuần.
Tổ, khối chuyên môn ở trường Tiểu học là đơn vị trực tiếp quản
lý hoạt động chuyên môn của mỗi thành viên trong khối. Để tiện cho việc chỉ
đạo chuyên môn của tổ trưởng nhà trường đã biên chế mỗi khối lớp một tổ
9
chuyên môn. Việc chỉ đạo công tác xây dựng kế hoạch giảng dạy được triển
khai trược tiếp từ ban giám hiệu tới tổ trưởng tổ chuyên môn. Trong quản lý
chỉ đạo xây dựng kế hoạch giảng dạy một mặt phải phát huy vai trò tự chủ
sáng tạo của tổ đồng thời phải chỉ đạo sát sao theo kế hoạch chung của toàn
trường. Căn cứ để xây dựng kế hoạch giảng dạy là phân phối chương trình và
thời khoá biểu hàng ngày trong tuần. Bên cạnh đó là các hoạt động ngoài giờ
lên lớp của nhà trường hoặc các nội dung khác do phòng Giáo dục chỉ đạo
như kế hoạch bồi dưỡng thay sách, bồi dưỡng sử dụng đồ dùng dạy học... Từ
đó các tổ chuyên môn sẽ bàn bạc và xây dựng kế hoạch lên lớp hàng ngày sao
cho đúng chương trình và thời khoá biểu, đồng thời vạch kế hoạch sử dụng đồ
dùng dạy học cho từng tiết học căn cứ vào danh mục đồ dùng dạy học hàng
tuần do cán bộ thiết bị trường lập. Những vấn đề đó (sau khi lập xong kế
hoạch) được Ban giám hiệu ký duyệt trước một tuần và các thành viên trong
tổ thực hiện. Đó chính là sơ sở pháp lý để kiểm tra đánh giá việc thực hiện kế
hoạch bài học một cách chính xác, đảm bảo tính hệ thống kiến thức, đảm bảo
mục tiêu từng bài học, tìm ra những phương pháp giảng dạy thích hợp cho
từng nội dung bài học, có tính định hướng trước cho học sinh chuẩn bị học
tập.
2. Biện pháp chỉ đạo công tác soạn bài để nâng cao chất lượng
giảng dạy.
a) Nghiên cứu và xác định mục tiêu bài giảng.
Tổ chuyên môn được giao nhiệm vụ nghiên cứu, vạch kế hoạch
bàn bạc thống nhất cách xác định mục tiêu cho các môn học sao cho phù hợp
với đối tượng học sinh và đảm bảo sát với yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ
năng chung do bộ giáo dục ban hành. Trước hết các tổ chuyên môn sinh hoạt
ít nhất tháng 3 lần, ở đó tài liệu về yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng của
các môn học được triển khai đến từng thành viên, các cuộc họp này bao giờ
10
cũng có đại diện ban giám hiệu dự để có ý kiến chỉ đạo cụ thể và kịp thời. Từ
đó giúp giáo viên chỉnh lại mục tiêu trong sách giáo viên để phù hợp với tình
hình học sinh trong lớp mình và đảm bảo yêu cầu cơ bản tối thiểu so với mặt
bằng chung. Có thể lấy ví dụ như sau: Một số bài chính tả so sánh phân biệt
các phụ âm v/d ở địa phương học sinh thường không mắc lỗi thì đồng thời
chỉnh cả nội dung và mục tiêu để dạy cho học sinh những cặp phụ âm hay
mắc lỗi hơn như tr/ch, s/x... ( hay gặp ở lớp 4,5).
b) Thống nhất cách trình bày bài soạn.
Thống nhất về nội dung và hình thức thể hiện các loại bài soạn. Với
những giáo viên khá giỏi, dạy lâu năm thì yêu cầu bài soạn khác với những
giáo viên mới ra trường. Hình thức trình bày bài soạn phải phù hợp với nội
dung bài dạy. Từ đầu năm học nhà trường phân công một số giáo viên có kinh
nghiệm như tổ trưởng chuyên môn, giáo viên dạy giỏi tham gia vào việc xây
dựng cấu trúc bài soạn cho từng môn học. Sau đó đưa ra lấy ý kiến tham khảo
rộng rãi và thống nhất chung, in thành tài liệu phát cho từng giáo viên để thực
hiện. Nhờ đó mọi bài soạn của giáo viên trong trường đều theo một cấu trúc
thống nhất, chất lượng bài soạn được nâng lên một bước góp phần vào nâng
cao chất lượng dạy học.
c) Kiểm tra việc soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên.
Kiểm tra việc thống nhất cách soạn của từng môn học ở từng
khối lớp. Các dạng bài soạn giờ ôn tập, kiểm tra, thực hành. Yêu cầu về giáo
án của giáo viên mới ra trường, của giáo viên giỏi, của giáo viên cần cố gắng.
Chọn câu hỏi phát vấn, xác định kiến thức trọng tâm của bài cần khắc sâu, rèn
kỹ năng gì? Và đồ dùng dạy học phải chuẩn bị.
Để quản lý tốt việc soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo
viên, Ban giám đã chọn các hình thức kiểm tra:
11
- Kiểm tra đột xuất.
- Kiểm tra trước giờ lên lớp.
- Kiểm tra sau dự giờ.
- Kiểm tra định kỳ cùng khối trưởng chuyên môn.
- Kiểm tra chéo trong buổi sinh hoạt chuyên môn.
- Kiểm tra đồ dùng trực quan cho giờ dạy.
- Trang thiết bị cho giờ dạy.
- Giờ học ngoài trời ( Địa điểm học, kế hoạch quản lý học sinh).
3. Các biện pháp tổ chức chỉ đạo nâng cao chất lượng giờ dạy.
a) Xây dựng các giờ dạy mẫu.
Ban giám hiệu chỉ đạo giáo viên cốt cán, thông thường là tổ
trưởng tổ chuyên môn cùng xây dựng các giờ dạy có chất lượng, làm mẫu cho
giáo viên dự giờ. Tiến hành rút kinh nghiệm, đánh giá những mặt tích cực về
phương pháp dạy học, về nội dung và phong thái của giáo viên. Từ những giờ
dạy mẫu này, sau khi đã thử nghiệm thì tiến hành nhân rộng ra toàn khối, toàn
trường. Việc xây dựng giờ dạy mẫu được tiến hành công phu, từ việc chọn bài
dạy, tổ chức thiết kế bài soạn, cân nhắc phương pháp giảng dạy nào phù hợp
với từng giai đoạn nào, cách sử dụng đồ dùng trực quan... Có như vậy giờ dạy
mẫu mới thành công và đem lại hiệu quả khi triển khai đại trà.
b) Tăng cường dự giờ thăm lớp, bồi dưỡng giúp đỡ giáo viên.
12
Để nâng cao chất lượng giờ dạy một công việc quan trọng của
nhà trường là tăng cường công tác thanh kiểm tra chuyên môn. Trong đó dự
giờ thường xuyên các đối tượng giáo viên đặc biệt là những giáo viên yếu tay
nghề là công việc có ý nghĩa quyết định. Việc dự giờ được tiến hành theo kế
hoạch hàng tháng, hàng tuần một cách thường xuyên sẽ giúp giáo viên đứng
lớp trước hết có tâm thế vững vàng, bởi không ít giáo viên khi có người dự thì
dễ bị lúng túng, quan trọng hơn là giúp giáo viên có ý thức chuẩn bị bài tốt
hơn, tự tin và có cố gắng hơn trong việc áp dụng các phương pháp mới tích
cực hơn hoạt động của học sinh. Vì sau dự giờ đều có rút kinh nghiệm để chỉ
rõ nhược điểm để khắc phục sửa chữa.
c) Tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và trang thiết bị
dạy học trong giờ lên lớp.
Việc đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo điều kiện ghế ngồi, ánh
sáng... cho học sinh góp phần quan trọng không nhỏ giúp nâng cao chất lượng
giảng dạy nói chung và từng bài học nói riêng. Từ năm học 2005 - 2006 nhà
trường đã có đủ số phòng học đạt quy cách về diện tích, ánh sáng. Nhờ đó
việc triển khai học nhóm, học các nhân trong các giờ dạy rất thuận lợi góp
phần nâng cao chất lượng giảng dạy như