Abstract: The South Central Coastal Quaternary sandy formation has been studied by many authors
according to different objectives, mainly for establishing quaternary geological maps ata different
scale. There are 5 sedimentary cycles established based on the absolute age of the sand, that was
analyzed by the method of thermoluminescent dating of quartz (TL), and by the comparison between
5 global glacial /interglacialcycles and 5 sedimentary cycles of the Red River Delta. The Southern
Central coastal sandy cycle corresponds to 5 sequences. Sequence 1 has the age of early Pleistocene
(Q11); Sequence 2 has middle Pleistocene age, early part (Q12a); Sequence 3 has Pleistocene age in
the middle of the late part (Q12b); Sequence 4 has age of early Late Pleistocene part (Q13a) and
Sequence 5 has age of late Pleistocene - Holocene (Q13b-Q2). Each sequence has 3 systems which
tract corresponding to 3 lithofacies complex: (1) Lowstand systems tractcorresponding to alluvial
gravelly sand facies complex (arLST) or marine-wind red sand facies complex (mvLST); (2)
Transgressive systems tract corresponding to the white sand and spotted white sandy barrier bar
facies complex (mtTST); Highstand systems tract corresponding to the marine-wind red sand facies
complex (mvHST).
17 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 460 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sequence stratigraphy of South Central Coastal Quaternary sandy formation and stratigraphic significance, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 74-90
74
Original Article
Sequence Stratigraphy of South Central Coastal Quaternary
Sandy Formation and Stratigraphic Significance
Nguyen Van Tuan1,*, Tran Nghi2, Tran Tan Van2
1Vietnam Institute of Geoscience and Mineral Resources,
67 Chien Thang, Van Quan, Ha Dong, Hanoi, Vietnam
2VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam
Received 12 April 2019
Revised 09 May 2019; Accepted 22 May 2019
Abstract: The South Central Coastal Quaternary sandy formation has been studied by many authors
according to different objectives, mainly for establishing quaternary geological maps ata different
scale. There are 5 sedimentary cycles established based on the absolute age of the sand, that was
analyzed by the method of thermoluminescent dating of quartz (TL), and by the comparison between
5 global glacial /interglacialcycles and 5 sedimentary cycles of the Red River Delta. The Southern
Central coastal sandy cycle corresponds to 5 sequences. Sequence 1 has the age of early Pleistocene
(Q11); Sequence 2 has middle Pleistocene age, early part (Q12a); Sequence 3 has Pleistocene age in
the middle of the late part (Q12b); Sequence 4 has age of early Late Pleistocene part (Q13a) and
Sequence 5 has age of late Pleistocene - Holocene (Q13b-Q2). Each sequence has 3 systems which
tract corresponding to 3 lithofacies complex: (1) Lowstand systems tractcorresponding to alluvial
gravelly sand facies complex (arLST) or marine-wind red sand facies complex (mvLST); (2)
Transgressive systems tract corresponding to the white sand and spotted white sandy barrier bar
facies complex (mtTST); Highstand systems tract corresponding to the marine-wind red sand facies
complex (mvHST).
Keywords: Sequence startigraphy, sedimentary cycle, systems tract, lithofacies complex.
*
________
*Corresponding author.
E-mail address: geotech.vn.tuan@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4382
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 74-90
75
Địa tầng phân tập các thành tạo cát Đệ tứ ven biển
Nam Trung Bộ và ý nghĩa địa tầng
Nguyễn Văn Tuấn1,*, Trần Nghi 2, Trần Tân Văn1
1Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, 67 Chiến Thắng, Văn Quán, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam
2Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 12 tháng 4 năm 2019
Chỉnh sửa ngày 09 tháng 5 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 22 tháng 5 năm 2019
Tóm tắt: Các thành tạo cát ven biển Nam Trung Bộ đã được nhiều tác giả nghiên cứu theo nhiều
mục tiêu khác nhau, chủ yếu là phục vụ đo vẽ lập bản đồ ở các tỷ lệ khác nhau. Có 5 chu kỳ trầm
tích được xác lập dựa trên tuổi tuyệt đối của cát phân tích bằng phương pháp nhiệt huỳnh quang
thạch anh (TL), phương pháp đối sánh với 5 chu kỳ băng hà/gian băng trên thế giới và 5 chu kỳ trầm
tích của đồng bằng Sông Hồng. 5 chu kỳ trầm tích cát ven biển Nam Trung Bộ tương ứng với 5 phức
tập. Phức tập 1 có tuổi Pleistocen sớm phần sớm (Q11); phức tập 2 có tuổi Pleistocen giữa phần sớm
(Q12a); phức tập 3 có tuổi Pleistocen giữa phần muộn (Q12b); phức tập 4 có tuổi Pleistocen muộn
phần sớm (Q13a); phức tập 5 có tuổi Pleistocen muộn phần muộn-Holocen (Q13b-Q2). Mỗi phức tập
có 3 miền hệ thống tương ứng với 3 phức hệ tướng trầm tích: (1) Miền hệ thống trầm tích biển thấp
tương ứng với phức hệ tướng cát sạn aluvi (arLST) hoặc phức hệ tướng cát đỏ biển-gió (mvLST);
(2) Miền hệ thống trầm tích biển tiến tương ứng với phức hệ tướng cát trắng, cát trắng loang lổ đê
cát ven bờ (mtTST); (3) Miền hệ thống trầm tích biển cao tương ứng với phức hệ tướng cát đỏ biển-
gió (mvHST).
Từ khóa: Phức tập, chu kỳ trầm tích, miền hệ thống trầm tích, phức hệ tướng trầm tích.
1. Mở đầu
Trước năm 1975, nghiên cứu về địa chất-địa
mạo ven biển Nam Trung Bộ ít được quan tâm,
ngoại trừ Fontain (1972) đã có một công trình
nghiên cứu về địa chất Đệ Tứ khu vực duyên hải
Nam Trung Bộ. Trong công trình này, Fontain đã
phát hiện ra một tầng cát kết vôi mà ông cho là tuổi
Neogen nằm trên thềm biển cao ở bờ biển Khánh
________
Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: geotech.vn.tuan@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4382
Hòa. Đây là nhận định mang tính chất cảm tính mà
chưa có kiểm chứng về tuổi tuyệt đối. Từ năm 1975
đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên
đề và thực hiện các nhiệm vụ đo vẽ bản đồ địa chất
Đệ Tứ tỷ lệ 1/500.000 (Đỗ Tuyết, Nguyễn Đức
Tâm, 1994), tỷ lệ 1/100.0000 (Ngô Quang Toàn,
2001), tỷ lệ 1/50.000 (Nguyễn Văn Cường, 2001;
Hoàng Phương, 1977; Ma Công Cọ, 1997) [1-4].
Các tác giả đã thành lập cột địa tầng trầm tích Đệ
N.V. Tuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 74-90
76
Tứ không có trầm tích tuổi Pleistocen sớm, phần
sớm (Q11) và xác lập hệ tầng Phan Thiết có tuổi Q12-
3pt khác với Lê Đức An (1978) đã xác lập hệ tầng
Phan Thiết có tuổi Q12pt [5]. Kết quả xác định tuổi
của hệ tầng Phan Thiết chỉ có tính chất quy ước vì
lúc bấy giờ chưa có giá trị tuổi tuyệt đối.
Năm 2000-2001 Trường Đại học Khoa học Tự
nhiên-Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường Đại học
Tổng hợp Wollongong đã triển khai một đề tài hợp
tác “Nghiên cứu tuổi, nguồn gốc và điều kiện
thành tạo cát đỏ khu vực Bình Thuận” do Trần
Nghi, Colin Wallace, Brian Jone chủ trì thực hiện.
Các tác giả đã phát hiện tầng cát đỏ bị laterit hóa
dạng mũ sắt chứa tectit sắc cạnh, đồng thời lần đầu
tiên đã lấy mẫu ở vết lộ và phân tích tuổi tuyệt đối
bằng phương pháp nhiệt huỳnh quang thạch anh
(TL) một loạt mẫu tại phòng thí nghiệm nhiệt
huỳnh quang của Khoa Địa chất, Trường Đại học
Tổng hợp Wollongong (Bảng 1) [6].
Các kết quả nghiên cứu nói trên đã có những
đóng góp quan trọng về dự đoán tuổi thành tạo
trầm tích của hệ tầng Phan Thiết và hệ tầng Mũi Né
có tuổi Pleistocen giữa và Pleistocen muộn là
tương đối chính xác mặc dù chưa có số liệu phân
tích tuổi tuyệt đối. Những công trình công bố của
Trần Nghi và nnk (1998) [7], Lê Đức An (1978)
tuy đã có phát hiện được tuổi Pleistocen sớm của
tầng cát đỏ nằm dưới lớp “mũ sắt” chứa tectit
nguyên dạng có tuổi 700 kaBP, đã có giải thích
màu đỏ của cát và nguồn gốc vật liệu cát là từ biển
đưa vào.Tuy nhiên, các tác giả vẫn chưa làm sáng
tỏ được một số vấn đề quan trọng về trầm tích luận
của tất cả các thành tạo cát ven biển Đệ Tứ khu vực
Nam Trung Bộ: (1) Đặc điểm thành phần vật chất
và nguyên nhân dẫn đến màu sắc đa dạng của các
thành tạo cát ven biển Bình Thuận-Ninh Thuận; (2)
Tính chu kỳ của các thành tạo cát và mối quan hệ
giữa tính chu kỳ với các phức tập trong mối quan
hệ với sự thay đổi mực nước biển trong Đệ Tứ; (3)
Đặc biệt, vấn đề địa tầng phân tập các thành tạo cát
ven biển Việt Nam nói chung và ven biển Nam
Trung Bộ nói riêng chưa được nghiên cứu.
Nội dung của bài báo sẽ tập trung giới thiệu
một cách chi tiết nội hàm của 3 vấn đề nói trên theo
quan điểm tiếp cận hệ thống, tức là phân tích địa
tầng phân tập trong mối quan hệ với chu kỳ trầm
tích và tướng trầm tích được diễn ra theo 5 chu kỳ
biển thoái và biển tiến do ảnh hưởng của 5 chu kỳ
băng hà/gian băng toàn cầu.
Bảng 1. Tổng hợp kết quả phân tích tuổi tuyệt đối (TL) của trầm tích cát Đệ Tứ và tectit
khu vực Ninh Thuận - Bình Thuận
Phức
tập
(Sq)
Tuổi
địa chất
Số hiệu
mẫu
Tuổi
TL
(ka)
Tuổi
tectit
(ka)
Vị trí
lấy mẫu
Phòng thí
nghiệm
Năm
phân
tích
Nguồn tài liệu
Sq5
Q13b- Q2
VN 44 14±2 Bàu trắng
Trường Đại
học
Wollongong,
Aurtralia
2000-
2001
Colin V.
Murray-
Wallace
VN 11 14±2 Tuy Phong
VN 43 28±2
Sân bay Phan
Thiết
VN 45 28±4
Sân bay Phan
Thiết
30 ka
Bp
Sq4
VN 37 48±6 Suối Tiên
Q13a VN 18 52±7 Chí Công
VN 30 62±6
Sông Lũy
70 ka
Bp
Sq3 VN 15 85±9 Suối Tiên
N.V. Tuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 74-90
77
Q12a
VN 12b 99±19 Tuy Phong
VN 31
101±1
7
Hòn Rơm
VN 20
103±1
1
Chí Công
VN 32
108±4
9
Hòn Rơm
VN 29 >122 Sông Lũy
150 ka
Bp
Sq2
VN 14b > 181 Suối Tiên
Q12a VN 14 > 204 Suối Tiên
J30404 650 Phan Rang
Đài Loan
1982
Nguyễn Xuân
Hãn, Lê Đức
An 700 ka
Bp
Sq1
VN 101 700 Hòn Rơm
1982,
2000
Trần Nghi
Q11
J20132 720 Tuy Phong 1982
Nguyễn Xuân
Hãn, Lê Đức
An
2. Cơ sở tài liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở tài liệu
Để hoàn thành bài báo này tập thể tác giả đã
thu thập, lựa chọn những tài liệu và số liệu đa dạng
và phong phú gồm các ảnh chụp ngoài trời, số liệu
phân tích độ hạt, kết quả phân tích khoáng vật nặng
từ kính 2 mắt, phân tích lát mỏng thạch học bở rời,
phân tích khoáng vật sét và khoáng vật chứa Fe3+
bằng phương pháp X-Ray và phân tích nhiệt vi sai
(bảng 2, hình 1). Đặc biệt, kết quả phân tích hơn 50
mẫu tuổi tuyệt đối bằng phương pháp nhiệt huỳnh
quang thạch anh (TL) tại phòng thí nghiệm Khoa
Địa chất, Trường Đại học Tổng hợp Wollongong
(Australia) là cơ sở quan trọng để phân chia tuổi
các phức tập và các miền hệ thống (bảng 1).
2.2. Phương pháp luận và các phương pháp
nghiên cứu
Phương pháp luận
Nghiên cứu địa tầng phân tập trầm tích cát ven
biển Nam Trung Bộ được tiếp cận từ định nghĩa
địa tầng phân tập do Trần Nghi đề xuất: “Địa tầng
phân tập là sự sắp xếp có quy luật của các tướng và
nhóm tướng trầm tích trong khung địa tầng theo
không gian và thời gian trong mối quan hệ với sự
thay đổi mực nước biển chân tĩnh và chuyển động
kiến tạo” [8].
Từ định nghĩa đó, khi phân tích địa tầng phân
tập các thành tạo cát ven biển Nam Trung Bộ tác
giả tập trung vào 2 nội dung quan trọng:
- Mối quan hệ giữa chu kỳ trầm tích và các
phức tập trong mối quan hệ với 5 chu kỳ thay đổi
mực nước biển do ảnh hưởng của 5 chu kỳ băng
hà/gian băng: (1) Gunz/G-M; (2) Mindel/M-R; (3)
Riss/R-W1; (4) Wurm1/W1-W2; (5) Wurm 2/Biển
tiến Flandrian (hình 2). Các chu kỳ trầm tích và các
phức tập được phân chia trên cở sở sự thay đổi
tướng liên tục theo mặt cắt địa chất trầm tích, tuổi
TL (nhiệt huỳnh quang thạch anh) và tuổi tectit đại
diện cho tất cả các phức tập.
N.V. Tuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 74-90
78
Hình 1. Sơ đồ tài liệu thực tế khu vực nghiên cứu.
Bảng 2. Tổng hợp cơ sở tài liệu nghiên cứu trầm tích cát ven biển Nam Trung Bộ
(Đơn vị: mẫu)
Khu vực
Phân
tích độ
hạt
Phân tích Lát
mỏng thạch
học
Phân tích X-
Ray và nhiệt
vi sai
Phân tích
hóa silicat
Phân tích
ngoài vết lộ
Phân tích
trọng sa
Sân bay Phan Thiết 50 50 15 10 8 20
Suối Tiên 60 60 10 15 15 15
Hòn Rơm 40 40 10 15 10 20
Tiến Thành 30 30 8 12 10 10
Sông Lũy 40 40 9 12 12 15
Chí Công 35 35 10 10 8 10
Phước Dinh 25 25 15 10 8 12
Phan Rang 30 30 15 8 7 8
N.V. Tuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 74-90
79
- Nghiên cứu địa tầng phân tập các thành tạo
cát ven biển Nam Trung Bộ phải dựa trên quan
điểm tiếp cận nhân-quả và tiếp cận đối sánh. Trong
đó quan trọng nhất là tiếp cận nhân-quả giữa 3 yếu
tố: trầm tích, sự thay đổi mực nước biển và chuyển
động kiến tạo. Trong Đệ Tứ, mực nước biển thay
đổi theo 5 chu kỳ do ảnh hưởng của 5 chu kỳ băng
hà và gian băng là nguyên nhân tạo ra 5 chu kỳ trầm
tích và 5 đơn vị địa tầng phân tập. Tuy nhiên, xác
định ranh giới chu kỳ trầm tích đối với các thành
tạo cát không thể không so sánh với 5 chu kỳ trầm
tích và 5 đơn vị địa tầng phân tập của trầm tích Đệ
Tứ đồng bằng sông Hồng (hình 3). Theo Trần Nghi
(2018), ranh giới phức tập (sequence) trầm tích Đệ
Tứ của đồng bằng Sông Hồng được phân định tại
ranh giới giữa tướng aluvi biển thấp (nằm trên) và
tướng châu thổ biển cao (nằm dưới)
(arLST/amhHST) [8, 9]. Theo phương pháp đối
sánh, trầm tích cát Nam Trung Bộ sẽ phân định
ranh giới phức tập tại ranh giới giữa tướng cát biển-
gió biển thấp (nằm trên) và tướng cát biển-gió biển
cao (nằm dưới) (mvLST/mvHST).
Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu ngoài trời: quan sát
và chụp ảnh chọn lọc các vết lộ tiêu biểu để chứng
minh cho tính đa dạng của địa hình-địa mạo, các
bậc thềm ở các độ cao và tuổi khác nhau, đặc điểm
thạch học, kiến trúc và cấu tạo, màu sắc và quy luật
phân bố. Những hình ảnh này minh chứng cho điều
kiện môi trường thành tạo của các thực thể trầm
tích cát là do sóng biển hay do gió, cấu thành một
bức tranh kỳ vĩ của lịch sử phát triển địa chất lâu
dài và cảnh quan đa dạng của trầm tích cát có tuổi
từ Pleistocen sớm (Q1) đến Holocen (Q2) phân bố
trải dài từ Ninh Thuận đến Bình Thuận.
Hình 2. Đối sánh chu kỳ trầm tích địa tầng phân tập
của ĐBSH với chu kỳ băng hà ở Châu Âu và Mỹ.
Hình 3. Đối sánh cột địa tầng phân tập (Trần Nghi,
2016) với thời địa tầng (Vũ Nhật Thắng và nnk,
1994) của đồng bằng Sông Hồng.
- Các phương pháp nghiên cứu trong phòng:
a) Phương pháp phân tích độ hạt để tính các
tham số Md, So, Sk. Các tham số này được tính
toán từ số liệu phân tích độ hạt theo thang Φ
(Folk,1960):
Φ = - log2d
Tham số So là tiêu chí quan trọng trong phân
tích tướng, cho phép xác định được môi trường và
chế độ động lực lắng đọng trầm tích một cách chính
xác. Khi So dao động trong khoảng 1,2-1,5 thì cát
được lắng đọng trong môi trường bãi triều và đê cát
ven bờ có sóng hoạt động mạnh(m). Khi So tăng
lên 1,5-1,9 là biểu hiện môi trường biển-gió (mv),
nghĩa là cát có nguồn gốc biển, song bị tái vận
chuyển và tái lắng đọng do gió. Vì vậy trong cát
thạch anh thường có chứa một hàm lượng bột sét
từ 8% đến 15%.
b) Phương pháp tính hệ số mài tròn (Ro) và hệ
số thạch anh (Q). Hai hệ số này được xác định bằng
lát mỏng thạch học bở rời theo phương pháp do
Trần Nghi (2002) đề xuất:
Ro = 1 - 0,1.n.
N.V. Tuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 74-90
80
Trong đó, Ro là hệ số mài tròn của 1 hạt; n là
số góc lồi trong một hạt. Ro biến thiên từ 0-1.
Q = n/N.
Trong đó Q là hệ số thạch anh; n là số vạch
thước trắc vi thị kính cắt tất cả các hạt thạch anh
trong thị trường; N là tổng số vạch thước trắc vi thị
kính cắt tất cả các hạt vụn có trong thị trường (gồm
cả thạch anh, felspat và mảnh đá). Q biến thiên từ
0-1 (được quy đổi từ % thành hệ số)
Sử dụng tổng hợp cả 3 hệ số: So, Ro và Q sẽ là
cơ sở quan trọng trong quá trìnhphân tích tướng cát
ven biển Nam Trung Bộ. Khi So 0,7; Q
> 0,9 có thể khẳng định đây là môi trường bãi triều
và đê cát ven bờ có sóng hoạt động rất mạnh.
Ngược lại khi So > 2,5; Ro < 0,3; Q <0,6 là đặc
trưng của môi trường lòng sông.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Đặc điểm cấu trúc địa chất và địa hình khu
vực ven biển Ninh Thuận-Bình Thuận
Vào đầu Pliocen khu vực Ninh Thuận-Bình
Thuận quá trình thành tạo các bậc phương đông
bắc-tây nam tiếp tục hoạt động và tạo các bồn trũng
nhỏ lấp đầy thành hệ trầm tích lục nguyên. Đồng
thời các đứt gãy kinh tuyến, vĩ tuyến và tây bắc -
đông nam trở nên hoạt động mạnh kiểu tách giãn
và trượt bằng mạnh mẽ tạo bồn trũng chồng gối lên
các bậc đông bắc-tây nam ở giai đoạn trước đó, do
ảnh hưởng của biển Đông trượt về phía đông. Vào
Đệ tứ tiếp tục kế thừa cơ chế tách giãn nâng trồi,
tạo các bồn trũng nội lục lấp đầy các trầm tích Đệ
tứ chồng gối lên các cấu trúc sụt lún có trước kèm
theo hiện tượng tách giãn cục bộ làm xuất hiện các
thành hệ bazan toleit tuổi Pleistocen muộn kéo dài
từ Ka Lon đến sông Lũy theo phương kinh tuyến
[4]. Như vậy giai đoạn Pliocen-Đệ tứ tạo nên cấu
trúc nâng hạ xen kẽ nhau không quy luật gây phức
tạp hóa cấu trúc khu vực.
Khu vực ven biển Ninh Thuận-Bình Thuận nổi
tiếng là đới có khí hậu khô hạn trong suốt thời gian
Đệ Tứ. Sự đa dạng địa hình là kết quả của lịch sử
phát triển địa chất nội và ngoại sinh trong Cenozoi
đến nay. Nói cách khác, quá trình hoạt động địa
chất là một trong những nguyên nhân quan trọng,
quyết định sự phân hóa địa hình phức tạp và đặc
điểm khí hậu đặc thù khô nóng của Ninh Thuận và
Bình Thuận. Có thể nhận thấy rất dễ dàng 3 đới cấu
trúc địa chất và địa hình khác nhau phân hóa từ đất
liền ra biển như sau: (1) Đới đồng bằng thấp phân
bố phía trong có nguồn gốc sông-lagoon với bề dày
trầm tích Đệ Tứ rất mỏng (0-20m), chứng tỏ tốc độ
và biên độ sụt lún kiến tạo rất yếu. Vì vậy, đồng
bằng Đệ Tứ ven biển Ninh Thuận và Bình Thuận
khả năng chứa nước ngầm kém nhất so với tất cả
các đồng bằng Đệ Tứ ở Việt Nam; (2) Đới cồn cát
ven biển có địa hình khá đa dạng: địa hình dạng gò
đồi lượn sóng của cát đỏ phong thành có tuổi từ
Pleistocen đến Holocen muộn, bắt gặp ở các độ cao
khác nhau từ 5-150m; các thềm biển mài mòn và
tích tụ phân bố ở các độ cao giảm dần, bắt đầu từ
100m (thềm Maviec, Ninh Thuận), 80m (sân bay
Phan Thiết), 60-40m (Sông Lũy), 25-15m (Tiến
Thành, Phước Thể), 10-6m (Bàu Găng); thành
phần thạch học gồm 3 phức hệ tướng trầm tích:
tướng cát aluvi có tuổi Pleistocen sớm phân bố ở
phần thấp nhất, tướng đê cát ven bờ và tướng cồn
cát do gió phủ chồng lên nhau theo chu kỳ biển
thoái và biển tiến. Các cồn cát có độ cao lên tới
150m là do các thành tạo cát Đệ Tứ được tích tụ
trên móng địa chất Đệ Tam có cấu trúc địa chất
nâng cao. Tiếp đến hoạt động của gió trong miền
khí hậu khô nóng đã đóngmột vai trò quan trọng
trong việc tôn cao cát đỏ lên những vị trí khác nhau.
Các thành tạo cát có cấu trúc chu kỳ, đầu tiên là
tướng cát xám lòng sông biển thấp (arLST), tiếp
đến là tướng cát trắng hoặc cát trắng vàng, loang lổ
đê cát ven bờ biển tiến (mTST)và kết thúc là tướng
cát đỏ biển-gió biển cao (mvHST). Móng bên dưới
các thành tạo này hiện tại vẫn đang tiếp tục được
nâng cao; (3) Đới sụt lún yếu phía đông tạo nên địa
hình đáy biển ven bờ khá nông và mở rộng từ đáy
biển ven bờ Tuy Hòa, Phú Yên theo hướng đông
nam thành một khu vực rộng lớn. Địa hình nông và
rộng của đáy biển Ninh Thuận-Bình Thuận đóng
vai trò như “cái bẫy” chứa cát và qua các chu kỳ
biển thoái-biển tiến khối lượng cát đã được dự trữ
trở nên khổng lồ. Đó là nguồn cát được đưa vào đất
liền qua các pha biển tiến theo phương thức dồn
đẩy của sóng tạo nên các đê cát ven bờ biển Ninh
Thuận-Bình Thuận từ Pleistocen đến Holocen.
N.V. Tuan et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 74-90
81
3.2. Đặc điểm địa tầng phân tập các thành tạo
cát ven biển Nam trung Bộ
1) Khái quát:
Nghiên cứu địa tầng phân tập các thành tạo cát
ven biển Nam Trung Bộ tác giả tiếp cận theo mô
hình do Trần Nghi (2012, 2014, 2018) đề xuất [8].
Theo mô hình này, nghiên cứu lịch sử tiến hóa trầm
tích được phân tích-luận giải trong mối quan hệ với
sự thay đổi mực nước biển và chuyển động kiến
tạo. Sự thay đổi mực nước biển là hệ quả của 5 chu
kỳ băng hà/gian băng trong Đệ Tứ. Khi nghiên cứu
chi tiết trầm tích Đệ Tứ ĐBSH Trần Nghi (2018)
đã cho rằng sự thay đổi mực nước biển theo 5 chu
kỳ là nguyên nhân tạo ra 5 chu kỳ tướng trầm tích.
Ranh giới giữa các chu kỳ là bề mặt bất chỉnh hợp
do sông bào mòn cắt xẻ. Bắt đầu mỗi chu kỳ là
tướng cuội sạn và cát lòng sông tương ứng với
miền hệ thống trầm tích biển thấp (arLST). Kết
thúc mỗi chu kỳ là tướng bột sét đồng bằng châu
thổ bị laterit hóa loang lổ thuộc miền hệ thống trầm
tích biển cao (amhHST).
Đối với các thành tạo cát ven biển Nam Trung
Bộ, mối quan hệ giữa tướng trầm tích và sự thay
đổi mực nước biển toàn cầu nhìn chung vẫn thể
hiện theo quy luật 5 chu kỳ thay đổi tướng trầm
tích, song lại tuân theo quy luật đặc thù của cát. Bắt
đầu mỗi chu kỳ tướng cát đỏ biển-gió thuộc miền
hệ thống trầm tích biển thấp (mvLST) và kết thúc
mỗi chu