Sự biến đổi xã hội của đồng bào dân tộc Khmer, thành phố Trà Vinh trong quá trình đô thị hóa

1. Nhận diện một số biến đổi về đời sống của người Khmer dưới tác động của quá trình đô thị hóa ở thành phố Trà Vinh Trà Vinh là một trong 13 tỉnh thành ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long với sự cộng cư của 03 tộc người chính là Kinh, Khmer, Hoa và một số ít các dân tộc khác. Đồng bào Khmer ở Trà Vinh có khoảng 316.969 người (chiếm 31,51%)1. Theo số liệu điều tra tình trạng kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số năm 2015, toàn tỉnh Trà Vinh có khoảng 298712 người Khmer thuộc diện nghèo và cận nghèo2. Quá trình cộng cư, sự giao lưu văn hóa giữa các tộc người tại Trà Vinh đã hình thành nên những giá trị văn hóa chung của văn hóa Khmer vùng Nam Bộ. Về địa bàn cư trú, đồng bào dân tộc Khmer tại thành phố Trà Vinh phân bố khắp thành phố Trà Vinh, trong đó đông đảo nhất tại địa bàn 02 phường: Phường 8 (1.279 người), phường 9 (1.572 người). Mặc dù đã có quá trình cộng cư lâu đời, song trước xu thế phát triển chung, tác động của quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đã làm cho đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của người Khmre ở thành phố Trà Vinh có những biến đổi nhất định trên các phương diện như: Tổ chức xã hội – cộng đồng; phương thức sản xuất và đời sống văn hóa tinh thần.

pdf5 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự biến đổi xã hội của đồng bào dân tộc Khmer, thành phố Trà Vinh trong quá trình đô thị hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 30 Ngày nhận bài: 25/9/2016. Ngày duyệt đăng: 5/10/2016 (1)(2)(3) Ban chỉ đạo Tây Nguyên 3 Số 16 - Tháng 12 năm 2016 Quá trình đô thị hóa đã và đang làm biến đổi sâu sắc nhiều mặt đời sống xã hội của người Khmer như: Tổ chức xã hội, phương thức sản xuất, văn hóa tinh thần, Nghiên cứu này tập trung vào những biến đổi đời sống của người Khmer do quá trình đô thị hóa tại thành phố Trà Vinh. Từ những kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo sự phát triển xã hội bền vững, đảm bảo đời sống đồng bào dân tộc Khmer ở thành phố Trà Vinh trong bối cảnh đô thị hóa hiện nay. Từ khóa: Sự biến đổi xã hội, đô thị hóa, đồng bào dân tộc Khmer, tỉnh Trà Vinh 1. Nhận diện một số biến đổi về đời sống của người Khmer dưới tác động của quá trình đô thị hóa ở thành phố Trà Vinh Trà Vinh là một trong 13 tỉnh thành ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long với sự cộng cư của 03 tộc người chính là Kinh, Khmer, Hoa và một số ít các dân tộc khác. Đồng bào Khmer ở Trà Vinh có khoảng 316.969 người (chiếm 31,51%)1. Theo số liệu điều tra tình trạng kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số năm 2015, toàn tỉnh Trà Vinh có khoảng 298712 người Khmer thuộc diện nghèo và cận nghèo2. Quá trình cộng cư, sự giao lưu văn hóa giữa các tộc người tại Trà Vinh đã hình thành nên những giá trị văn hóa chung của văn hóa Khmer vùng Nam Bộ. Về địa bàn cư trú, đồng bào dân tộc Khmer tại thành phố Trà Vinh phân bố khắp thành phố Trà Vinh, trong đó đông đảo nhất tại địa bàn 02 phường: Phường 8 (1.279 người), phường 9 (1.572 người). Mặc dù đã có quá trình cộng cư lâu đời, song trước xu thế phát triển chung, tác động của quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đã làm cho đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của người Khmre ở thành phố Trà Vinh có những biến đổi 1. Theo Chương trình hành động số 01/CTr – UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh về “Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào Khmer giai đoạn 2011 -2015” 2. Tổng Cục thống kê, Kết quả điều tra thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số, năm 2015 nhất định trên các phương diện như: Tổ chức xã hội – cộng đồng; phương thức sản xuất và đời sống văn hóa tinh thần. Thứ nhất: Sự biến đổi về tổ chức cộng đồng trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở thành phố Trà Vinh. Tổ chức xã hội truyền thống của người Khmer tại Nam bộ nói chung và người Khmer tại Trà Vinh nói riêng được đặt trong những thiết chế truyền thống là phum, sróc. Đây là những đơn vị xã hội tự quản truyền thống của người Khmer. Trong tiếng Khmer “phum” có nghĩa là đất, thổ cư hay vườn tổng hợp của gia đình trên đất ở. Phum có thể gồm một gia đình hoặc một vài gia đình có quan hệ huyết thống. Sróc là tổ chức xã hội bao gồm nhiều phum. Theo nghĩa rộng sróc có nghĩa là “xứ”, “địa phương”, “quê hương” với tư cách là một đơn vị hành chính thì sróc tương ứng với huyện. Thông thường sróc được xác định qua vị trí ngôi chùa và tên riêng của nó. Xã hội truyền thống của sróc Khmer được quản lý theo một cơ chế đặc biệt bao gồm quyền lực của cộng đồng và vai trò tổ chức Phật giáo Nam tông. Đối với người Khmer, giáo lý Phật giáo là cơ sở cho các quy tắc điều hành quan hệ xã hội. Triết lý Phật giáo trở thành triết lý của đời sống văn hoá tư tưởng của con người. Sinh hoạt tôn giáo trở thành một bộ phận quan trọng nhất trong sinh SỰ BIẾN ĐỔI XÃ HỘI CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER, THÀNH PHỐ TRÀ VINH TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Sơn Cao Thắng(1) Thạch Huỳnh Thươne(2) - Nguyễn Văn Chiều(3) Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 31Số 16 - Tháng 12 năm 2016 hoạt tinh thần của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng. Sư sãi là tầng lớp được cộng đồng kính trọng và là linh hồn của phum, sróc. Dưới tác động của cơ chế thị trường, đô thị hóa và sự đồng nhất trong các chính sách của nhà nước, ngày nay văn hóa tổ chức cộng đồng theo kiểu truyền thống của người Khmer ở thành phố Trà Vinh đã có những biến đổi đáng kể. Thiết chế phum, sróc được thay thế bằng đơn vị hành chính phường, quận. Đặc biệt, theo truyền thống, mỗi phum, sróc có người đứng đầu gọi là mê phum, mê sróc (mẹ phum, mẹ sróc)3. Danh từ mê phum, mê sróc đối với đồng bào Khmer ngoài được hiểu là người đứng đầu, còn các chức năng bảo trợ, hỗ trợ giải quyết khó khăn cho cộng đồng trên nhiều phương diện. Cùng với sự phát triển xã hội danh xưng “mê phum, mê sróc” đã không còn được sử dụng thay vào đó là những chức danh mang ý nghĩa hành chính là chủ yếu và sự vận hành xã hội theo truyền thống của tộc người cũng đã có những thay đổi để phù hợp. Ngoài tổ chức xã hội cổ truyền theo thiết chế phum, sróc, người Khmer còn nương dựa trên tổ chức nhà chùa. Với người Khmer, chùa không chỉ có chức năng tôn giáo mà nó còn có cả chức năng giáo dục, văn hoá, Chùa có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần, tang ma, cưới hỏi và là điểm vui chơi giải trí của người Khmer. Hàng năm, chùa là nơi diễn ra các hoạt động sinh hoạt văn hoá dân gian của cả cộng đồng người Khmer. Dưới tác động của quá trình đô thị hóa ở thành phố Trà Vinh đã hình thành một hình thái mới là “Phật giáo Nam tông Khmer đô thị”. Các chùa người Khmer ở thành phố Trà Vinh đã không còn xuất hiện các vị sư cùng làm nông nghiệp trên đất ruộng nhà chùa, phật tử cũng không hoàn toàn là người nông dân và một số hoạt động sản xuất của phật tử tách khỏi hoạt động nông nghiệp. Do không gian của các chùa Khmer ở thành phố Trà Vinh đã khác, nên các sinh hoạt ở chùa Phật giáo 3. Gọi “mê” nghĩa là mẹ tuy nhiên giữ chức vụ này theo truyền thống đều do người đàn ông đảm trách, đây được xem là chế độ mẫu hệ trong xã hội của người Khmer xưa. Nam tông Khmer tất yếu phải có sự điều chỉnh. Trước đây, bộ máy quản lý của chùa Khmer gồm có một vị sư cả, các vị sư phó, giúp việc cho họ là một ban quản trị chùa và các wên. Mỗi chùa có nhiều wên là tổ chức quần chúng của phật tử địa phương, nhà chùa lập ra để quản lý và là khu vực diễn ra hoạt động khất thực của sư sãi Khmer. Tuy nhiên, do quá trình đô thị hóa và tình trạng di cư tăng nhanh nên hằng năm mỗi chùa Khmer tại thành phố Trà Vinh có số lượng wên không ổn định và có xu hướng ngày càng giảm dần về số lượng. Thậm chí, một số chùa Khmer, đặc biệt là các ngôi chùa trong thành phố Trà Vinh đã không còn giữ vững được đặc trưng văn hóa wên. Số lượng các wên, ngày càng giảm. Chẳng hạn, vào năm 2010 chùa Sêlatro – Điệp Thạch ở phường 9 có 13 wên, đến năm 2015 chỉ còn 10 wên và hiện tại năm 2016 chỉ còn có 07 wên4. Thiết chế gia đình là một thành tố quan trọng trong xã hội của đồng bào Khmer. Theo truyền thống văn hóa, gia đình người Khmer thường có nhiều thế hệ cùng chung sống trong một mái nhà. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, mô hình trên cũng có nhiều biến đổi, số lượng các thế hệ cùng sống chung trong một mái nhà ngày càng giảm. Thay thế cho thiết chế gia đình truyền thống là gia đình hạt nhân, con cái độc lập với bố mẹ về kinh tế. Không gian sống, quan hệ cộng đồng theo kiểu truyền thống với đặc trưng là không có ranh giới rõ ràng giữa các hộ gia đình, sự phân định chỉ là những bụi tre, khóm chuối, hàng cây xương rồng thì nay được thay thế bởi những hàng rào bằng sắt, thép, kín cổng cao tường. Sự biến đổi này một mặt làm cho vai trò cá nhân được đề cao hơn, nhưng mặt khác yếu tố văn hóa, sự gắn kết, tương trợ cộng đồng như phum, sróc trước đây đã bị giảm đi đáng kể. Thứ hai, sự biến đổi về hoạt động tổ chức sản xuất truyền thống của người Khmer thành phố Trà Vinh 4. Tư liệu điền dã tại một số chùa Khmer tại thành phố Trà Vinh thực hiện tháng 8/2016 Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 32 Số 16 - Tháng 12 năm 2016 Người Khmer vốn là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Văn hóa nông nghiệp trở thành bản sắc của người Khmer. Trong nghề nông truyền thống, người Khmer phân biệt các loại ruộng đất khác nhau và trên mỗi loại, họ canh tác những loại cây trồng khác nhau cũng như có kỹ thuật canh tác thích hợp cho từng loại. Có hai loại ruộng đất chính là ruộng để canh tác lúa (vial sre) và rẫy (chom ka) để trồng các loại hoa màu. Ngày nay, nghề nông theo truyền thống của người Khmer tại thành phố Trà Vinh cũng có sự biến đổi theo sự phát triển của xã hội. Diện tích đất nông nghiệp trong nội đô thành phố Trà Vinh ngày càng bị thu hẹp. Phương thức canh tác, sản xuất của người Khmer cũng bị tác động bởi quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa. Chẳng hạn, năm 2011 dự án mở rộng đường từ trung tâm thành phố đến huyện Châu Thành đã có những ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc sản xuất, tưới tiêu của đồng bào dân tộc Khmer ở phường 9. Đặc biệt, năm 2013 dự án san lấp sông Tầm Phương để mở rộng không gian thành phố Trà Vinh đã có tác động rất lớn đến quá trình sản xuất nông nghiệp của hơn 50 hộ người Khmer tại phường 9, thay vì người dân trồng lúa ba vụ thì nay chỉ còn một vụ lúa, một vụ màu hoặc trồng cỏ, chăn nuôi bò. Sự tác động của quá trình đô thị hóa còn dẫn đến hệ quả một bộ phận người Khmer có xu hướng phải chuyển đổi việc làm sang các ngành nghề phi nông nghiệp như công nhân, buôn bán nhỏ, thợ thủ công,... Thứ ba, sự biến đổi trong đời sống văn hóa tinh thần của người Khmer thành phố Trà Vinh Đời sống văn hóa tinh thần của người Khmer tại thành phố Trà Vinh đã có những biến đổi to lớn so với bản sắc văn hóa truyền thống. Không gian văn hóa của người Khmer cũng ngày càng bị thu hẹp và biến đổi sâu sắc. Một số chùa trong thành phố Trà Vinh đã hạn chế sử dụng nhạc sống (plêng kse) như trước đây để phục vụ nhu cầu văn hóa, vui chơi cho thanh niên vào những dịp lễ hội bởi nó ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân xung quanh chùa. Thời gian diễn ra các hoạt động vui chơi tại các điểm chùa cũng đã được quy định giới hạn thay vì hoạt động thâu đêm như trước đây. Về nội dung, các hoạt động văn hóa tinh thần như: Ca, hát, nhảy múa trong các dịp lễ hội dân tộc tại điểm chùa trong thành phố nếu như theo truyền thống là những điệu: Romvong, Saravan, Lamleo, Chôkompứ, Kbach, thì ngày nay, thanh niên Khmer lại nghe nhạc trẻ, nhạc rock và nhạc nước ngoài. Trong điều kiện kinh tế thị trường, người Khmer được tiếp cận với nhiều loại hình giải trí mới nên họ đã dần quay lưng với các loại hình nghệ thuật truyền thống như Rô Băm, Dù Kê, Dì Kê, Trước đây, vào mỗi dịp các đoàn nghệ thuật Khmer biểu diễn luôn có rất đông đồng bào Khmer đến xem nhưng trong những năm gần đây, tại khu vực thành phố, các đoàn nghệ thuật biểu diễn của người Khmer đã không còn sân diễn do không có khán giả. Một số đông người Khmer làm công nhân cho các công ty, xí nghiệp phải lệ thuộc vào thời gian và lịch làm việc, vì thế họ đã không còn thường xuyên tham dự được các ngày rằm tại chùa, không thường xuyên được nghe sư thuyết pháp, giảng đạo hoặc tham dự các ngày lễ hội truyền thống dân tộc. Điều này càng làm cho thế hệ trẻ người Khmer mất dần ý thức, bản sắc văn hóa tộc người. Đặc biệt, do sự cư trú đan xen và quá trình giao thoa văn hóa với các dân tộc khác, nhất là người Kinh nên tiếng Khmer đã không còn được đồng bào sử dụng thường xuyên. Các bậc cha mẹ trẻ cũng thường đưa trẻ em đến các nhà trẻ sớm để thuận tiện cho việc học tiếng Việt sau này. Bởi lẽ, trong xã hội truyền thống của người Khmer, trường chùa đóng vai trò chủ đạo, ngoài dạy đạo lý và dung hòa đời sống tâm lý trong môi trường tôn giáo – Phật pháp, các chùa còn dạy tiếng nói và chữ viết của người Khmer cho trẻ em. Ngày nay, do chính sách giáo dục của nhà nước, trẻ em, thanh niên Khmer không còn thường xuyên tiếp xúc với ngôn ngữ dân tộc và học tại trường chùa như trước đây. Hoạt động giáo dục tại trường chùa trong thành phố Trà Vinh hiện nay có sự thay đổi không chỉ là giảng dạy tiếng Khmer, Pali như các chùa nông thôn, phum, sróc mà còn dạy tiếng Việt, Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 33Số 16 - Tháng 12 năm 2016 tiếng Anh, tiếng Thái. Điều này làm cho ngôn ngữ, chữ viết của người Khmer ngày càng bị mai một, đặc biệt là trong thế hệ trẻ. Tính chất thương mại hóa cũng đã làm biến đổi bản sắc, tính trung thực của cộng đồng người Khmer trong các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Nhiều đối tượng lợi dụng tôn giáo để mưu sinh, tình trạng “giả sư” để khất thực tại thành phố Trà Vinh trong những năm gần đây tăng lên đã ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín Phật giáo Nam tông trong lòng dư luận. 2. Quản lý phát triển xã hội bền vững vùng đồng bào dân tộc Khmer ở thành phố Trà Vinh trong quá trình đô thị hóa Với mục tiêu xây dựng cộng đồng dân tộc Khmer phát triển toàn diện, trong những năm qua, tỉnh Trà Vinh đã đặc biệt coi trọng nhiệm vụ phát triển xã hội. Nghị quyết số 03 – NQ/TU của Tỉnh ủy Trà Vinh về “Tiếp tục phát triển toàn diện vùng đồng bào Khmer giai đoạn 2011 – 2015” đã xác định “phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, nâng cao mức sống cho đồng bào dân tộc Khmer. Rút ngắn khoảng cách chênh lệch mức sống giữa các dân tộc, các vùng”5 là mục tiêu trọng tâm. Trên cơ sở mục tiêu định hướng, để giảm bớt những tác động tiêu cực của quá trình đô thị hóa đối với đời sống của đồng bào dân tộc Khmer ở thành phố Trà Vinh và phát triển đô thị theo hướng bền vững cần phải thực hiện một số nhiệm vụ sau: Một là, phát triển đô thị bền vững gắn liền với đảm bảo đời sống của người Khmer ở thành phố Trà Vinh Quy hoạch, phát triển đô thị gắn liền với phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở và cộng đồng, nhà chùa của người Khmer tại thành phố Trà Vinh. Hoàn thiện và khai thác hiệu quả các thể chế, thiết chế văn hóa phù hợp với điều kiện mới. Đổi mới việc thực hiện phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư gắn với 5. Tỉnh Ủy Trà Vinh, Nghị quyết số 03 – NQ/TU, ngày 9/9/2011 về “Tiếp tục phát triển toàn diện vùng đồng bào dân tộc Khmer giai đoạn 2011- 2015”. việc nêu gương những cá nhân điển hình, những hộ gia đình văn hóa tiêu biểu, hộ sản xuất giỏi, hộ đạt danh hiệu gia đình hiếu học, trong cộng đồng để khích lệ đồng bào Khmer cùng nhau xây dựng. Vận động các vị sư, Acha và những người có uy tín trong cộng đồng tham gia vào việc tuyên truyền người dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư trong thành phố. Quan tâm chăm sóc, giáo dục, bảo vệ thanh thiếu niên là người dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa của văn hóa đô thị đồng thời đấu tranh ngăn chặn, tiến đến xóa bỏ những tiêu cực, tệ nạn trong đời sống văn hóa xã hội. Giáo dục đồng bào Khmer nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, tích cực phát động các chùa, các hộ dân trồng cây phân tán có giá trị kinh tế trong khuôn viên chùa, khuôn viên nhà, lộ giao thông, bờ kênh thủy lợi, cơ quan trường học nhằm xanh hóa đô thị, tạo môi trường cảnh quan thân thiện với lối sống của đồng bào. Hai là, tiếp tục cải thiện sinh kế, nâng cao mức sống cho người Khmer ở thành phố Trà Vinh Chính quyền thành phố cần tiếp tục có những biện pháp để đa dạng hóa các hoạt động tạo thu nhập cho người Khmer ở thành phố Trà Vinh như: Mở và nâng cao chất lượng dạy nghề, hướng nghiệp cho đồng bào dân tộc, hỗ trợ sản xuất, ưu đãi về thuế, mặt bằng,... Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng mạnh mẽ các tiến bộ khoa học – kỹ thuật và cơ giới vào sản xuất khai thác có hiệu quả tiềm năng quỹ đất đai, Kết hợp hài hòa, giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa huy hoạch phát triển đô thị với huy hoạch phát triển nông nghiệp cho đồng bào, rà soát huy hoạch và lập dự án đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi, nâng cấp mở rộng các công trình hiện có kết hợp với đầu tư xây dựng mới hệ thống thoát nước, tưới tiêu tránh ngập úng ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp và đời sống cư dân. Tiếp tục tuyên truyền vận động đồng bào nhân rộng mô hình liên kết 04 nhà, tham gia phát triển các hình thức kinh tế hợp tác nhiều hình thức, nhiều quy mô nhằm thực hiện tốt liên kết sản xuất Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ 34 Số 16 - Tháng 12 năm 2016 gắn với chế biến tiêu thụ nông sản, cung ứng các dịch vụ cho sản xuất và đầu ra cho sản phẩm, tăng giá trị hàng hóa, góp phần tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống đồng bào dân tộc Khmer ở thành phố Trà Vinh. Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội; có chính sách phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm bớt sự gia tăng chênh lệch về mức sống trong vùng và giữa vùng đồng bào Khmer với các vùng và các nhóm xã hội khác. Ba là, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào Khmer thành phố Trà Vinh trong quá trình đô thị hóa. Trước hết cần phải có biện pháp nhằm giữ gìn tiếng nói và chữ viết của đồng bào Khmer trong các hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật dân tộc. Có chính sách để duy trì và phát triển các đoàn nghệ thuật và hoạt động nghệ thuật, khuyến khích phong trào văn nghệ quần chúng trong cộng đồng Khmer. Tổ chức trình diễn trang phục truyền thống, các trò chơi dân gian, khôi phục và bảo tồn các lễ hội truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo có tính giáo dục cao trong cộng đồng người Khmer ở thành phố Trà Vinh. Khơi dậy và phát huy giá trị của sinh hoạt văn nghệ truyền thống dân tộc trong không gian nhà chùa, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Khmer trong thời đại mới. Khuyến khích người Khmer ở đô thị gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống, kết hợp khai thác du lịch nhằm giới thiệu quảng bá hình ảnh tộc người và văn hóa tộc người Khmer tại Trà Vinh nói riêng và người Khmer Nam Bộ nói chung. Ngoài ra, cần thiết phải có những biện pháp nhằm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội; giải quyết tốt vấn đề dân tộc – tôn giáo; kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường phù hợp với đặc điểm phát triển của vùng đồng bào dân tộc Khmer ở thành phố Trà Vinh. Có thể nói, những biến đổi trong đời sống của đồng bào dân tộc Khmer thành phố Trà Vinh bắt nguồn từ những tác động của quá trình đô thị hóa và kinh tế thị trường. Mặc dù, sự biến đổi này là một một quá trình mang tính tất yếu và khách quan song để những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào Khmer không bị mất đi và được phát huy trong điều kiện mới, rất cần có những đánh giá và giải pháp tổng thể và lâu dài. Chỉ có như vậy, mục tiêu vừa bảo tồn các giá trị văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào dân tộc Khmer, vừa phát triển đô thị bền vững của thành phố Trà Vinh mới có thể đạt được. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan An (2009), Dân tộc Khmer Nam Bộ, NXB Chính trị Quốc gia. 2. Tỉnh ủy Trà Vinh, Nghị Quyết số 03 NQ/ TU ngày 9/9/2011 về tiếp tục phát triển toàn diện vùng đồng bào Khmer giai đoạn 2011-2015. 3. UBND tỉnh Trà Vinh (2012), Chương trình hành động phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào Khmer giai đoạn 2011-2015 ABSTRACT SOCIAL CHANGE OF KHMER, ETHNIC MINORITY IN TRA VINH CITY DURING URBANIZATION The process of urbanization has been making profound changes in many aspects of social life of Khmer people such as social organizations, production methods, spiritual culture, ... This study focuses on the change the lives of the Khmer peopledue urbanization process in the Tra Vinh city. From these findings, the authors offer solutions to ensure sustainable social development, ensure the life of Khmer ethnic in Tra Vinh city in the context of the current urbanization. Keywords: social transformation, urbanization, Khmer ethnic in Tra Vinh province.
Tài liệu liên quan