Tóm tắt
Văn học nhà nho Nam Bộ phát triển trong bối cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc nửa sau thế kỷ XIX,
trong giai đoạn này có sự chuyển biến lớn trong quan niệm trung nghĩa của các nhà nho Nam Bộ. Đó là,
con người t trong mối quan hệ l tư ng trung quân, l tư ng ái quốc, l i ch dân tộc à cộng đồng,
con người trước bài toán của lịch sử dân tộc à ng mi n trong giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX. Sự thể
hiện mẫu hình con người này đem lại một cái nhìn quan niệm con người trong thời kỳ đất nước bị
âm lăng, giúp cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn hình tư ng con người trung nghĩa, truy n thống yêu
nước ngàn đời của dân tộc ta
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 242 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự chuyển biến quan niệm trung nghĩa trong văn học nhà Nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 10 (35) - Thaùng 12/2015
50
Sự chuyển biến quan niệm trung nghĩa
trong văn học nhà Nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX
Changes in view of dedication to the good cause in literature of confucian scholars
in Nam Bo in second half of century XIX
ThS. Nguyễn Ngọc Phú,
Trường Đại học Đồng Tháp
M.A. Nguyen Ngoc Phu,
The University of Dong Thap
Tóm tắt
Văn học nhà nho Nam Bộ phát triển trong bối cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc nửa sau thế kỷ XIX,
trong giai đoạn này có sự chuyển biến lớn trong quan niệm trung nghĩa của các nhà nho Nam Bộ. Đó là,
con người t trong mối quan hệ l tư ng trung quân, l tư ng ái quốc, l i ch dân tộc à cộng đồng,
con người trước bài toán của lịch sử dân tộc à ng mi n trong giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX. Sự thể
hiện mẫu hình con người này đem lại một cái nhìn quan niệm con người trong thời kỳ đất nước bị
âm lăng, giúp cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn hình tư ng con người trung nghĩa, truy n thống yêu
nước ngàn đời của dân tộc ta.
Từ khóa: chuyển biến, trung nghĩa, văn học nhà nho
Abstract
Southern literary of scholars developed specifically in the context of national history in the latter half of
the nineteenth century, during this period there was a major shift in the concept of dedication to the
good cause of the Confucian scholars in the South. Human relations were considered and evaluated in
the light of the ideal to be loyal to one’s king, the ideal of patriotism, national interests and communities
and the problems of national history and regions Viet Nam had to be confronted with during the
second half of the nineteenth century. The expression of the prototype gives us an insight into the
human concept of time the country was invaded, makes us a deeper understanding of the image of
people faithful, the patriotic traditions of the perennial of our nation.
Keywords: transformation, loyalty, confuciannism literature
1. Mở đầu
Văn học nhà nho là bộ ph n cơ bản à
quan trọng hàng đ u trong lịch sử ăn học
Việt Nam thời trung đại t thế kỷ X đến
hết thế kỷ XIX . Bộ ph n ăn học này, đặc
biệt giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX - giai
đoạn cuối c ng của ăn học trung đại dân
tộc hiện c n đặt ra nhi u ấn đ phải tìm
hiểu, nghiên c u... Văn học nhà nho Nam
Bộ phát triển trong bối cảnh đặc biệt của
lịch sử dân tộc nửa sau thế kỷ XIX, là thời
kỳ Nam Bộ nói riêng, Việt Nam nói chung
rơi vào vòng thuộc địa của thực dân Pháp.
Thế kỷ XIX, Nho giáo cụ thể là Tống Nho,
giữ ị tr độc tôn trong đời sống ch nh trị
của các tri u đại phong kiến, đặc biệt trong
51
iệc củng cố ương quy n. Vua Gia Long
đã đưa Nho giáo lên địa ị quốc giáo à
ch nh sách đối ngoại sai l m của các tri u
đại ua Nguyễn là nguyên nhân quan trọng
làm cho đất nước lạc h u, trì trệ mọi
mặt. Dân tộc Việt Nam phải chịu sự xâm
lăng của thực dân phương Tây, nhân dân
sống trong bi kịch mất nước. Trong tri u
đình hình thành nhi u phái, phe muốn chủ
h a, phe muốn chủ chiến, có người chờ cơ
hội để đ i thời, tự an ủi bằng triết l t y
thời à tự l a dối mình bằng cái nghĩa quân
th n lạc lõng. Biết bao anh h ng đã ả thân
để quyết giữ giang sơn, nhưng ô hiệu.
Nhân dân Việt Nam nói chung, nhân dân
Nam Bộ nói riêng đồng l ng đ ng lên ới
tinh th n anh dũng bất khuất, thể hiện thái
độ cương quyết, bất h p tác đối ới kẻ th ,
hết l ng ì quê hương đất nước.
Những con người trung nghĩa trong
giai đoạn đặc biệt này đã có nhi u đóng góp
lớn đối ới lịch sử dân tộc. Trái ới giai
đoạn trước, nhân dân t p họp chung quanh
ch nh quy n, tạo nên b c tường thành
chống ngoại âm. C n giai đoạn này, qua
cảnh tư ng “ngui ngút tro tàn nền đạo
nghĩa” [3, tr.8], cho thấy những chuyển
biến lớn trong quan niệm trung nghĩa của
các nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX,
trong đó có nhi u quan niệm, tư tư ng phản
ánh thời thế, phản ánh thực tế ã hội đương
thời. Trong những năm sau đó, ua Tự Đ c
à một số quan lại tri u đình mới nh n th c
đư c n mệnh dân tộc, thay đổi tư tư ng
mới mong đất nước thoát khỏi họa mất
nước. Quan lại tri u đình nh n th c đư c
đi u này đã trình bày những ch nh sách
quân sự, kinh tế, ngoại giao ới tư duy
đổi mới nhằm tăng cường s c mạnh để bảo
ệ n n độc l p dân tộc nước nhà. Đến cuối
thế kỷ XIX, sự cải cách của tri u đình tr
thành một u hướng mới của tư tư ng dân
tộc đã thu hút các tr th c tiến bộ, các sĩ
phu yêu nước. Quan niệm trung nghĩa đư c
đặt ra đối ới các nhà nho Nam Bộ nửa sau
thế kỷ XIX, quan niệm này có sự chuyển
biến, thay đổi. Khi l i ch của qu n chúng
nhân dân không đư c đảm bảo trọn ẹn, thì
quan niệm trung nghĩa mâu thuẩn ới
tình yêu đối ới đất nước. Những nỗi ni m
này đư c thể hiện qua sáng tác thơ ăn của
các nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX.
Đó là nỗi ni m của những nhà nho yêu
nước, một ch tự cường, hết l ng ì nhân
dân, ì n n độc l p tự do của dân tộc.
Nghiên c u con người trung nghĩa à sự thể
hiện mẫu hình con người này trong sáng tác
ăn học nhà nho Nam Bộ trong một giai
đoạn đặc biệt của lịch sử dân tộc, đem lại
một cái nhìn quan niệm con người trong
thời kỳ nửa sau thế kỷ XIX khi đất nước bị
âm lăng. Đi sâu tìm hiểu sự chuyển biến
quan niệm trung nghĩa trong ăn học nhà
nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX có nghĩa
rất quan trọng, giúp cho chúng ta hiểu sâu
sắc hơn hình tư ng con người trung
nghĩa, truy n thống yêu nước qu báu ngàn
đời của ông cha ta. Sự cương trực thẳng
thắn ới tinh th n hy sinh lớn lao, l ng quả
cảm chống kẻ th âm lư c đã làm cho ăn
học nhà nho Nam Bộ có những đặc điểm
riêng nổi b t mà chúng ta c n phải đi sâu
nghiên c u.
2. a h
Các nhà nho Nam Bộ như Nguyễn Tri
Phương, Hoàng Diệu, Hồ Huấn Nghiệp,
Nguyễn Hữu Huân, Phan Văn Đạt, Phan
Văn Trị, đã tr thành những tác giả có
t m óc lớn ới những áng thơ ăn đ y
nhiệt huyết trong công cuộc c u nước của
dân tộc. Lớp nhà nho khẳng khái kh
phách, dám đ ng lên chống Pháp bằng
súng, bằng gươm. Và các nhà nho thời kỳ
này đã kế th a truy n thống oanh liệt ngàn
đời của dân tộc, đã c ng nhân dân Nam Kỳ
52
đ ng mũi chịu sào trước phong ba bão táp
suốt hàng chục năm dài. Nhi u sĩ phu uất
thân t t ng lớp dưới của giai cấp phong
kiến, không đư c tri u đình trọng dụng,
đ u đ ng ph a nhân dân chiến đấu
ngoan cường để bảo ệ quê hương s .
Trường h p như Trương Định đã ĩnh iễn
đi ào lịch sử kháng chiến của dân tộc. Với
tinh th n trung nghĩa c n có những ch sĩ
anh h ng t ng làm rạng danh quê hương
đất nước như Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn
Hữu Huân, Nguyễn Văn Đạt, Hồ Huân
Nghiệp, Trịnh Quang Nghị, Nguyễn
Thông, Trà Qúy Bình, Phan Tòng, Phan
Tôn, Phan Liêm, uất thân t nông dân
lao động. Nguyễn Trung Trực đã có 2
chiến công oanh liệt, một sông Nh t Tảo,
một đồn Kiên Giang à đã để lại cho
người đời sau một câu nói bất hủ: “Bao giờ
hết cỏ đất này thì dân Nam mới hết người
chống Tây” [7, tr.20]. Nguyễn Thông là
người có khả năng t p họp đoàn kết người
dân Nam Kỳ, có l ng thương dân yêu nước
nồng nàn. Ông không tán thành chủ trương
của ua Tự Đ c trước âm mưu của Pháp
định cướp cả nước ta à ông đã phê phán:
“Trên vua, dưới quan đều ngồi yên, chỉ lấy
việc tài lợi làm cốt yếu” [7, tr.72], và ông
cũng không tán thành lối sống của ua Tự
Đ c: Th ch đi chơi a, bỏ iệc nước, th ch
ây lăng tẩm làm tốn của dân. Nguyễn
Thông sau nhi u l n đ uất những iệc có
l i cho dân nhưng ua không nghe à cũng
tỏ ra chán nản, nỗi u uất của ông cũng bộc
lộ ra lời thơ một cách buồn bã: “Phù tung
vô địa tán cơ cầu” Đi lang thang chưa tìm
đư c nơi nào để giải mối s u [7, tr.76].
Hoặc: “Ngã cùng ná tỵ lâm hác tiếu!” (Tôi
nay gặp bước đường c ng, không thể tránh
đư c sự cười chê của núi khe [7, tr.77].
Có lúc cũng không tránh khỏi bi quan,
chán nản, những câu hỏi mang nghĩa của
thời đại: “Bao thuở đem về cơ nhất
thống?” Phan Văn Trị , “Bao giờ nhật
nguyệt vầy gương sáng/ Bốn biển âu ca
hiệp một nhà” Nguyễn Đình Chiểu ,
Nho giáo không c n giữ ai tr quan
trọng như trước nữa thì ấn đ đặt ra cho
các nhà nho lúc này là b tôi có nhất thiết
phải trung thành nữa không, khi đ c ua đi
ngư c lại quy n l i của dân tộc, à trong
trường h p đó thì b tôi phải làm sao đây?
Một số nhà nho không rời bỏ tri u đình,
một số nhà nho đã đặt yêu nước lên trên
ua, không tuân lệnh ua, khi ua không
t n trung ới nước thì b tôi không bắt
buộc phải trung ới ua. Ngày càng có
nhi u nhà nho nghiêng tư tư ng yêu
nước nhưng họ cũng chưa thể t bỏ chữ
“trung quân”. Nguyễn Đình Chiểu cũng đã
bộc lộ: “Hai chữ cương thường dằn cả
nước/ Một câu trung hiếu vững muôn nhà”
[6, tr.280]. “Sống đánh giặc, thác cũng
đánh giặc, Sống thờ vua, thác cũng thờ
vua” [6, tr.29]. Những nhà nho trung nghĩa
như Nguyễn Đình Chiểu, cho đến các sĩ
phu yêu nước, các nhà nho C n Vương
tất cả họ đ u bộc lộ nỗi đau đớn ót a
trước bi kịch mất nước. T bi kịch đó, họ
không thể làm khác ngoài con đường ẩn.
Đó chỉ là sự lựa chọn bất đắc dĩ của một số
nhà nho cuối m a của chế độ phong kiến.
Hơn bao giờ hết, quan niệm trung nghĩa
trong thời kỳ này đư c đặt ra rất quyết liệt,
nó là chỗ dựa tinh th n lớn nhất cho các
nhà nho yêu nước, thúc đẩy phong trào
qu n chúng nỗi d y chống áp b c, thúc đẩy
tinh th n cho các cuộc kh i nghĩa nông dân
các địa phương. Tiêu biểu là sự nh n
th c sâu sắc trước thời cuộc của nhà nho
Phan Thanh Giản nhằm làm cho đất nước
thoát khỏi sự lạc h u. Tuy nhiên, tư tư ng
này lại không đư c em trọng làm ông
phải mang nặng những nỗi ni m trước thời
cuộc: “Từ ngày đi sứ Tây Kinh/ Thấy việc
Âu Châu phải giật mình/ Kêu rủ đồng bào
53
mau thức dậy/ Hết lời năn nỉ chẳng ai tin”
[5, tr.178].
Một nhà nho yêu nước phải đánh giặc
để gìn giữ giang sơn, nếu không làm đư c
thì phải chọn cái chết như Phan Thanh Giản
để đ n ơn ua hoặc có trường h p thì rút
ẩn để chờ thời: “Tháy máy gặp thời ta sẽ
động” Phan Văn Trị . Họ nh n th c rằng,
không giúp đư c ua thì phải tìm cách lui
ẩn, ch không chịu làm tai sai cho
giặc, họ tìm nơi ắng ẻ làm bạn ới thiên
nhiên, giải s u bằng ch n rư u. Tâm trạng
mang đ y bi kịch của kẻ sĩ bất lực, ch
không nh n sự ưu đãi bằng cách đỡ đ u ào
những ch c tước ng đáng à cấp cho
lương bổng trọng h u. Có khi họ bị truy nã
phải bỏ trốn, bỏ hết cả sản nghiệp để c ng
thân quyến bỏ chạy cho khỏi bị nhục ì
phải hàng Tây. Đa số các sĩ phu quay
ruộng ườn thân yêu, rút sâu ào cái ỏ ẩn
d t. Kẻ lấy ngh y làm nhu c u mưu sinh,
kẻ sống lây lất ới một nhóm học tr trong
cảnh tàn lụi của ánh lửa nho học sắp tắt.
Trước khi Pháp âm lư c Nam Kỳ họ
không chịu ra làm iệc cho tri u đình. Hồ
Huân Nghiệp iện lẽ c n mẹ già, Phan Văn
Đạt đổ công ra Huế nh n một ch c quan
nhưng khi đến kinh đô lại bỏ . Khi Tôn
Thọ Tường, Nguyễn Tường Phong đã tiến
cử các nho sĩ Hồ Huân Nghiệp, Võ Mẫn à
các tú tài B i Văn L , Nguyễn Châu Cơ,
Mai Phương Mĩ, Huỳnh Văn Đạt, Võ Văn
Hữu. Nhưng tất cả đ u lẫn tránh, chẳng ai
chịu ra mặt ới Tây. Phan Văn Trị có l n
đ ng bên bờ sông Hương ng khẩu: “Phú
quý Trường An rong vấn cổ/ Phong lưu
kinh địa chí đầy đầu” [7, tr.17], hay C n
Thơ c ng bạn dạo chơi, ông a đi, a
đọc: “Đứng lại làm chi cho mất công/ Vừa
đi vừa đái vẽ nên rồng” [7, tr.17]. Rồng là
tư ng trưng cho ua, chán cảnh quan
trường, hạ thấp đám ua chúa đến thế, quả
là một b c yêu nước.
Trong thời Pháp Việt giao tranh,
Trương Định là tướng lãnh thiện chiến.
Trong lúc tri u đình nhà Nguyễn k h a
ước hàng giặc thì Trương Định phất cờ
kháng Pháp. Trương Định ốn ngay thẳng,
cương trực, nóng nảy, ông đã t ng đem
quân đánh chiếm G Công. Trong Điếu
Trương Định, Nguyễn Khoa có iết: “Dân
ba tỉnh cử tôi làm đầu để đánh khôi phục
đất nước lại, tôi buộc lòng phải làm theo ý
muốn của họ. Nếu các quan muốn bảo tồn
cái tình thế ngày nay thì tôi sẽ nghịch chỉ
Nam triều và tôi sẽ đánh tới hoài không kể
chi cả, chừng đó các quan đừng lấy làm
lạ” [2, tr.635]. Một khẩu kh hết s c mạnh
mẽ. Và, thực chất thì Trương Định rất nổi
tiếng, t ng là ni m tự hào của nhân dân
Nam Bộ à nỗi ám ảnh đáng s đối ới
thực dân Pháp à bè lũ tay sai bán nước:
“Trong Nam tên họ nổi như cồn/ Mấy trận
Gò Công nức tiếng đồn” [6, tr.29]. Và đặc
biệt là mấy tr n áp chiến ới Pháp G
Công, lực lư ng đôi bên chênh lệch, nhưng
ta thấy ẫn b ng b ng kh thế. Nguyễn
Đình Chiểu khi miêu tả tỏ ra rất tâm đắc,
h ng kh i: “Dấu đạn hãy chìm tàu bạch
qủi/ Hơi gươm thêm rạng thẻ hoàng môn”
[6, tr.29]. Nguyễn Đình Chiểu đ cao
Trương Định dám chống lại chiếu chỉ nhà
vua: “Giúp đời dốc trọn trang nam tử;
Ngay chúa nào lo tiếng nghịch thần Bởi
lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón
ngăn mấy dặm mã tiền; Theo bụng dân
phải chịu tiếng quân phù, gánh vác một vai
khổn ngoại” [6, tr.30-35]. Nhưng rồi thất
thủ G Công, Trương Định rút Biên
H a, tạm trú các c lao đ m l y có nhi u
d a nước che phủ. Với Trương Định,
Nguyễn Đình Chiểu ốn có tình tri kỷ. Cái
chết của Trương Định khiến nhà thơ ô
c ng đau ót, tiếc thương. Có ai hiểu
Trương Định như Nguyễn Đình Chiểu:
“May rủi phải chăng trời đất biết/ Một tay
54
chống chỏi mấy năm dài” [6, tr.31]. Khi
Trương Định mất, nhà thơ m đã có những
tiếng khóc thống thiết, khóc cho mình à
cũng là khóc cho thời đại. Thời đại mất đi
một trang anh h ng nghĩa kh : “Nói ra thì
nước mắt trào/ Tấm lòng ưu thế biết bao
giờ rồi/ Ôi! làm ra cớ ấy, tạo quá ghét
nhau chi/ Nhắc đến đoạn nào anh hùng rơi
lụy mãi”.
Cái ch của Trương Định là cái ch dốc
ra tay nâng ạc ngã, dù gian khổ ẫn b n
gan tiết thủ, ẫn quyết nâng thành đổ ạc
h u trọn đạo tôi con. Việc của Trương
Định là cái iệc cảm nỗi nhà nghiêng lăm
chống cột, ốn biết thế yếu, phải nhờ địa
thế, nhờ sông núi che ch , nhờ bưng bi n,
nhờ r ng bụi mà ngăn đón giặc, nhưng
mến đất G Công không đành bỏ đi chẳng
đành a bỏ cõi G Công, và: “Vì nước tấm
thân đã gửi, còn mất cũng cam; giúp đời
cái nghĩa đáng làm, nên hư nào nại”.
Nguyễn Đình Chiểu suốt đời ì nước ì
dân. Vì y, iết những con người ì
dân ì nước bao giờ cũng chân thành, tha
thiết. Bên cạnh một Trương Định đ y kh
khái thì nhân t Phan T ng uất hiện
trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu
cũng là con người ì nghĩa, ì nghĩa mà
đánh giặc à rồi cũng ì nghĩa mà anh
dũng hy sinh.
3. xét a h
h a
Một số nhà nho chấp nh n h p tác ới
ch nh quy n thực dân, một số nhà nho phó
mặc cho thời thế, một số nhà nho tìm
đường tránh n để giữ kh tiết à một số
thua keo n y bày keo khác, họ cố ch để
phục th . Tất cả các nhà nho ấy đ u có t
nhi u ch ng t ch tư tư ng biểu lộ qua thơ
ăn. “Nếu Nguyễn Thần Hiến, Nguyễn
Quang Diêu mãi mãi vẫn không nguôi hận
thì Huỳnh Đình Nguơn, Nguyễn Liên
Phong sẵn sàng thỏa hiệp hoặc Lê Quang
Chiểu nén lòng mà thỏa hiệp trong bợ ngợ
ngập ngừng rồi sau đó li khai. Nếu Học
Lạc, Nhiêu Tâm hay Trần Thới Hanh, Hồ
Bửu Ngoạn cam phận làm dân vong quốc
mà gửi hồn vào những vần châm biếm cho
khuây thì Trần Hữu Thường, Nguyễn Văn
Thới muốn khư khư một mực vì đạo nghĩa
luân thường, ngại sợ lấm lem danh tiết.
Còn nữa: Trần Kim Phụng, Sương Nguyệt
Anh, Trần Ngọc Lầu, Tạ Quốc Bửu, Lê
Lương Tri, Nguyễn Công Minh... với nhiều
khuynh hướng khác nhau, tả tình, tả cảnh,
nghĩ ngợi vẩn vơ, khóc than vô cớ...” [3,
tr.320]. Có những sĩ phu yêu nước chân
ch nh thời kì này a làm thơ, làm ăn,
a trực tiếp c m gươm, lãnh đạo nhân dân
chống giặc. Đó là Phan Văn Đạt, Đỗ Trình
Thoại, Nguyễn Hữu Huân, Hồ Huân
Nghiệp, Tr n Thiện Chánh, Phạm Văn
Nghị,... Có người không có cơ hội hoặc
đi u kiện tham gia đấu tranh trực tiếp, đã
d ng ng i bút của mình để ca ng i cuộc
kháng chiến, đ cao nghĩa cử anh h ng của
các lãnh tụ nghĩa quân, à qua đó mà kh ch
lệ, cổ ũ nhân dân t ch cực chống giặc. Có
khi d ng bút pháp đã có t nhi u nhân tố
hiện thực để tố cáo sự thối nát của ã hội,
sự ngột ngạt của chế độ, hoặc sự ươn hèn
nhút nhát của bọn thống trị. Đó là Phạm
Văn Nghị 1805 - 1880 ới Nghĩa Trai thi
văn tập, Miên Thẩm 1819 - 1870 ới
Thương Sơn thi tập, Nguyễn Đình Chiểu
(1822 - 1888 ới những bài thơ chữ Hán,
Nguyễn Thông 1827 - 1894 ới Ngọa du
sào thi văn tập, Tr n B ch San 1840 -
1877 ới Mai Nham thi thảo, Hoàng Văn
Hòe (1848 - 1885 ới Hạc nhân tùng
ngôn,... Tiêu biểu là nhà nho Phan Thanh
Giản 1796 - 1867 ới Lương khê thi thảo,
cũng rất lo lắng cho n mệnh của dân tộc
trước âm mưu âm lư c của bọn thực dân
Pháp. Với tấm l ng ì dân, ì nước, ông
cũng luôn trăn tr à mong muốn chấn
55
hưng đất nước trước sự âm lăng của ngoại
bang. B i thế, Phan Thanh Giản là một b c
trung nghĩa ới một tấm gương đạo đ c,
một phẩm chất cao đẹp, suốt cuộc đời làm
quan ông đã dốc hết s c lực ây dựng đất
nước à cũng đã trải nhi u thăng tr m
trong cuộc đời. Với t nh cương trực, suốt
đời lo cho dân cho nước ông đã bốn l n bị
giáng ch c dưới tri u ua Minh Mạng,
đi u đó đã thể hiện rõ một phẩm chất cao
đẹp, một tấm gương sáng của một nhà nho
yêu nước đất Nam Kỳ. Sự nh n th c sâu
sắc trước thời cuộc của Phan Thanh Giản
nhằm làm cho đất nước thoát khỏi sự lạc
h u. Tuy nhiên, tư tư ng này lại không
đư c em trọng làm ông phải nặng mang
những nỗi ni m trước thời cuộc: “Từ ngày
đi sứ Tây Kinh/ Thấy việc Âu Châu phải
giật mình/ Kêu rủ đồng bào mau thức dậy/
Hết lời năn nỉ chẳng ai tin” [5, tr.178]. Nỗi
ni m u uất này đã đư c nhân dân thấu hiểu
à mến mộ ông, đến hàng trăm năm sau
phẩm chất của Phan Thanh Giản ẫn đư c
người đời sau em trọng. Khi 3 tỉnh mi n
Đông rơi ào tay giặc rồi tiếp đến 3 tỉnh
mi n Tây, Phan Thanh Giản càng u uất hơn
khi phải th a hành một đường lối sai l m
của đất nước, mà người đ ng đ u ch nh là
ua Tự Đ c. Với tấm l ng yêu nước
thương dân nhưng đ ng trước thời cuộc
ông không sao làm trái đư c ới tư tư ng
trung quân của đạo nho, ông nh n thấy
mình có tội ới dân ới nước à đã kết liễu
đời mình để bày tỏ nỗi l ng ới người đời
sau. Vì thế nỗi l ng à phẩm chất của ông
càng đư c nêu cao, một con người luôn có
lẽ sống, có đạo đ c à tư tư ng canh tân
ới những cống hiến t ch cực cho Tổ quốc.
Giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX, có
nhi u sĩ phu, những người dân bị áp b c
bóc lột, họ không c n trông c y à tin
tư ng ào ua. Trái ới giai đoạn thời
phong kiến thịnh trị, nước ới ua, trung
quân ới ái quốc lúc bấy giờ là hai khái
niệm gắn li n làm một. Trong hoàn cảnh
ấy, không thể nào tìm thấy đư c ch qu t
cường, tinh th n tự hào dân tộc, như đã
t ng thấy trong các bài thơ của L Thường
Kiệt, Tr n Quang Khải, Phạm Ngũ Lão,
trong Hịch tướng sĩ của Tr n Quốc Tuấn,
trong Phú Bạch Đằng giang của Trương
Hán Siêu, đặc biệt trong Bình Ngô đại cáo
và Phú núi Chí Linh của Nguyễn Trãi. Đến
cả cái hơi nóng của thơ ca dân gian yêu
nước đương thời, tiếng dội của một Hịch
đánh Pháp, một Hịch Lãnh Cồ chẳng hạn,
cái kh thế của con người đang tạm thời bị
thua tr n nhưng ẫn nắm chắc ph n thắng
l i cuối c ng, cái hào h ng của những tâm
hồn dũng cảm, cái lạc quan tin tư ng của
những bản lĩnh kiên cường, đ u không thể
có đư c trong những thơ ăn này.
4. a
h h
a a a h k
Xã hội phong kiến nửa sau thế kỷ XIX
đã lâm ào khủng hoảng tr m trọng, tư
tư ng chi phối ã hội lúc này nói chung
ẫn c n là tư tư ng “trung quân”, nhưng
chữ “trung” đã mất hết nghĩa, chữ
“trung quân” mâu thuẩn ới chữ “ái
quốc”. Nho giáo dạy “thần sự quân dĩ
trung”, nhưng quân đã không minh thì
th n khó mà có thể giữ l ng trung. Thực tế
cho thấy nhà nho em ua cũng chẳng ra
gì, ch ng tỏ chữ “trung” đã mất giá trị nên
có những nhà nho đã chống lại ua, nhân
dân cũng đã chống lại ua. Trước sự âm
nh p của phương Tây, các nhà nho yêu
nước đã đón thêm một luồng gió mới, có
nhà nho cộng tác ới Pháp, đại biểu là Tôn
Thọ Tường, tình thế đã đến lúc thay đổi,
chống lại người Pháp như “chim lấp biển”,
phải theo thế cuộc: “Ở đời há dễ quên đời
đặng/ Tính thiệt so hơn c