Sự chuyển biến quan niệm trung nghĩa trong văn học nhà Nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX

Tóm tắt Văn học nhà nho Nam Bộ phát triển trong bối cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc nửa sau thế kỷ XIX, trong giai đoạn này có sự chuyển biến lớn trong quan niệm trung nghĩa của các nhà nho Nam Bộ. Đó là, con người t trong mối quan hệ l tư ng trung quân, l tư ng ái quốc, l i ch dân tộc à cộng đồng, con người trước bài toán của lịch sử dân tộc à ng mi n trong giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX. Sự thể hiện mẫu hình con người này đem lại một cái nhìn quan niệm con người trong thời kỳ đất nước bị âm lăng, giúp cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn hình tư ng con người trung nghĩa, truy n thống yêu nước ngàn đời của dân tộc ta

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 242 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự chuyển biến quan niệm trung nghĩa trong văn học nhà Nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 10 (35) - Thaùng 12/2015 50 Sự chuyển biến quan niệm trung nghĩa trong văn học nhà Nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX Changes in view of dedication to the good cause in literature of confucian scholars in Nam Bo in second half of century XIX ThS. Nguyễn Ngọc Phú, Trường Đại học Đồng Tháp M.A. Nguyen Ngoc Phu, The University of Dong Thap Tóm tắt Văn học nhà nho Nam Bộ phát triển trong bối cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc nửa sau thế kỷ XIX, trong giai đoạn này có sự chuyển biến lớn trong quan niệm trung nghĩa của các nhà nho Nam Bộ. Đó là, con người t trong mối quan hệ l tư ng trung quân, l tư ng ái quốc, l i ch dân tộc à cộng đồng, con người trước bài toán của lịch sử dân tộc à ng mi n trong giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX. Sự thể hiện mẫu hình con người này đem lại một cái nhìn quan niệm con người trong thời kỳ đất nước bị âm lăng, giúp cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn hình tư ng con người trung nghĩa, truy n thống yêu nước ngàn đời của dân tộc ta. Từ khóa: chuyển biến, trung nghĩa, văn học nhà nho Abstract Southern literary of scholars developed specifically in the context of national history in the latter half of the nineteenth century, during this period there was a major shift in the concept of dedication to the good cause of the Confucian scholars in the South. Human relations were considered and evaluated in the light of the ideal to be loyal to one’s king, the ideal of patriotism, national interests and communities and the problems of national history and regions Viet Nam had to be confronted with during the second half of the nineteenth century. The expression of the prototype gives us an insight into the human concept of time the country was invaded, makes us a deeper understanding of the image of people faithful, the patriotic traditions of the perennial of our nation. Keywords: transformation, loyalty, confuciannism literature 1. Mở đầu Văn học nhà nho là bộ ph n cơ bản à quan trọng hàng đ u trong lịch sử ăn học Việt Nam thời trung đại t thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX . Bộ ph n ăn học này, đặc biệt giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX - giai đoạn cuối c ng của ăn học trung đại dân tộc hiện c n đặt ra nhi u ấn đ phải tìm hiểu, nghiên c u... Văn học nhà nho Nam Bộ phát triển trong bối cảnh đặc biệt của lịch sử dân tộc nửa sau thế kỷ XIX, là thời kỳ Nam Bộ nói riêng, Việt Nam nói chung rơi vào vòng thuộc địa của thực dân Pháp. Thế kỷ XIX, Nho giáo cụ thể là Tống Nho, giữ ị tr độc tôn trong đời sống ch nh trị của các tri u đại phong kiến, đặc biệt trong 51 iệc củng cố ương quy n. Vua Gia Long đã đưa Nho giáo lên địa ị quốc giáo à ch nh sách đối ngoại sai l m của các tri u đại ua Nguyễn là nguyên nhân quan trọng làm cho đất nước lạc h u, trì trệ mọi mặt. Dân tộc Việt Nam phải chịu sự xâm lăng của thực dân phương Tây, nhân dân sống trong bi kịch mất nước. Trong tri u đình hình thành nhi u phái, phe muốn chủ h a, phe muốn chủ chiến, có người chờ cơ hội để đ i thời, tự an ủi bằng triết l t y thời à tự l a dối mình bằng cái nghĩa quân th n lạc lõng. Biết bao anh h ng đã ả thân để quyết giữ giang sơn, nhưng ô hiệu. Nhân dân Việt Nam nói chung, nhân dân Nam Bộ nói riêng đồng l ng đ ng lên ới tinh th n anh dũng bất khuất, thể hiện thái độ cương quyết, bất h p tác đối ới kẻ th , hết l ng ì quê hương đất nước. Những con người trung nghĩa trong giai đoạn đặc biệt này đã có nhi u đóng góp lớn đối ới lịch sử dân tộc. Trái ới giai đoạn trước, nhân dân t p họp chung quanh ch nh quy n, tạo nên b c tường thành chống ngoại âm. C n giai đoạn này, qua cảnh tư ng “ngui ngút tro tàn nền đạo nghĩa” [3, tr.8], cho thấy những chuyển biến lớn trong quan niệm trung nghĩa của các nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, trong đó có nhi u quan niệm, tư tư ng phản ánh thời thế, phản ánh thực tế ã hội đương thời. Trong những năm sau đó, ua Tự Đ c à một số quan lại tri u đình mới nh n th c đư c n mệnh dân tộc, thay đổi tư tư ng mới mong đất nước thoát khỏi họa mất nước. Quan lại tri u đình nh n th c đư c đi u này đã trình bày những ch nh sách quân sự, kinh tế, ngoại giao ới tư duy đổi mới nhằm tăng cường s c mạnh để bảo ệ n n độc l p dân tộc nước nhà. Đến cuối thế kỷ XIX, sự cải cách của tri u đình tr thành một u hướng mới của tư tư ng dân tộc đã thu hút các tr th c tiến bộ, các sĩ phu yêu nước. Quan niệm trung nghĩa đư c đặt ra đối ới các nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, quan niệm này có sự chuyển biến, thay đổi. Khi l i ch của qu n chúng nhân dân không đư c đảm bảo trọn ẹn, thì quan niệm trung nghĩa mâu thuẩn ới tình yêu đối ới đất nước. Những nỗi ni m này đư c thể hiện qua sáng tác thơ ăn của các nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. Đó là nỗi ni m của những nhà nho yêu nước, một ch tự cường, hết l ng ì nhân dân, ì n n độc l p tự do của dân tộc. Nghiên c u con người trung nghĩa à sự thể hiện mẫu hình con người này trong sáng tác ăn học nhà nho Nam Bộ trong một giai đoạn đặc biệt của lịch sử dân tộc, đem lại một cái nhìn quan niệm con người trong thời kỳ nửa sau thế kỷ XIX khi đất nước bị âm lăng. Đi sâu tìm hiểu sự chuyển biến quan niệm trung nghĩa trong ăn học nhà nho Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX có nghĩa rất quan trọng, giúp cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn hình tư ng con người trung nghĩa, truy n thống yêu nước qu báu ngàn đời của ông cha ta. Sự cương trực thẳng thắn ới tinh th n hy sinh lớn lao, l ng quả cảm chống kẻ th âm lư c đã làm cho ăn học nhà nho Nam Bộ có những đặc điểm riêng nổi b t mà chúng ta c n phải đi sâu nghiên c u. 2. a h Các nhà nho Nam Bộ như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Hồ Huấn Nghiệp, Nguyễn Hữu Huân, Phan Văn Đạt, Phan Văn Trị, đã tr thành những tác giả có t m óc lớn ới những áng thơ ăn đ y nhiệt huyết trong công cuộc c u nước của dân tộc. Lớp nhà nho khẳng khái kh phách, dám đ ng lên chống Pháp bằng súng, bằng gươm. Và các nhà nho thời kỳ này đã kế th a truy n thống oanh liệt ngàn đời của dân tộc, đã c ng nhân dân Nam Kỳ 52 đ ng mũi chịu sào trước phong ba bão táp suốt hàng chục năm dài. Nhi u sĩ phu uất thân t t ng lớp dưới của giai cấp phong kiến, không đư c tri u đình trọng dụng, đ u đ ng ph a nhân dân chiến đấu ngoan cường để bảo ệ quê hương s . Trường h p như Trương Định đã ĩnh iễn đi ào lịch sử kháng chiến của dân tộc. Với tinh th n trung nghĩa c n có những ch sĩ anh h ng t ng làm rạng danh quê hương đất nước như Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Văn Đạt, Hồ Huân Nghiệp, Trịnh Quang Nghị, Nguyễn Thông, Trà Qúy Bình, Phan Tòng, Phan Tôn, Phan Liêm, uất thân t nông dân lao động. Nguyễn Trung Trực đã có 2 chiến công oanh liệt, một sông Nh t Tảo, một đồn Kiên Giang à đã để lại cho người đời sau một câu nói bất hủ: “Bao giờ hết cỏ đất này thì dân Nam mới hết người chống Tây” [7, tr.20]. Nguyễn Thông là người có khả năng t p họp đoàn kết người dân Nam Kỳ, có l ng thương dân yêu nước nồng nàn. Ông không tán thành chủ trương của ua Tự Đ c trước âm mưu của Pháp định cướp cả nước ta à ông đã phê phán: “Trên vua, dưới quan đều ngồi yên, chỉ lấy việc tài lợi làm cốt yếu” [7, tr.72], và ông cũng không tán thành lối sống của ua Tự Đ c: Th ch đi chơi a, bỏ iệc nước, th ch ây lăng tẩm làm tốn của dân. Nguyễn Thông sau nhi u l n đ uất những iệc có l i cho dân nhưng ua không nghe à cũng tỏ ra chán nản, nỗi u uất của ông cũng bộc lộ ra lời thơ một cách buồn bã: “Phù tung vô địa tán cơ cầu” Đi lang thang chưa tìm đư c nơi nào để giải mối s u [7, tr.76]. Hoặc: “Ngã cùng ná tỵ lâm hác tiếu!” (Tôi nay gặp bước đường c ng, không thể tránh đư c sự cười chê của núi khe [7, tr.77]. Có lúc cũng không tránh khỏi bi quan, chán nản, những câu hỏi mang nghĩa của thời đại: “Bao thuở đem về cơ nhất thống?” Phan Văn Trị , “Bao giờ nhật nguyệt vầy gương sáng/ Bốn biển âu ca hiệp một nhà” Nguyễn Đình Chiểu , Nho giáo không c n giữ ai tr quan trọng như trước nữa thì ấn đ đặt ra cho các nhà nho lúc này là b tôi có nhất thiết phải trung thành nữa không, khi đ c ua đi ngư c lại quy n l i của dân tộc, à trong trường h p đó thì b tôi phải làm sao đây? Một số nhà nho không rời bỏ tri u đình, một số nhà nho đã đặt yêu nước lên trên ua, không tuân lệnh ua, khi ua không t n trung ới nước thì b tôi không bắt buộc phải trung ới ua. Ngày càng có nhi u nhà nho nghiêng tư tư ng yêu nước nhưng họ cũng chưa thể t bỏ chữ “trung quân”. Nguyễn Đình Chiểu cũng đã bộc lộ: “Hai chữ cương thường dằn cả nước/ Một câu trung hiếu vững muôn nhà” [6, tr.280]. “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, Sống thờ vua, thác cũng thờ vua” [6, tr.29]. Những nhà nho trung nghĩa như Nguyễn Đình Chiểu, cho đến các sĩ phu yêu nước, các nhà nho C n Vương tất cả họ đ u bộc lộ nỗi đau đớn ót a trước bi kịch mất nước. T bi kịch đó, họ không thể làm khác ngoài con đường ẩn. Đó chỉ là sự lựa chọn bất đắc dĩ của một số nhà nho cuối m a của chế độ phong kiến. Hơn bao giờ hết, quan niệm trung nghĩa trong thời kỳ này đư c đặt ra rất quyết liệt, nó là chỗ dựa tinh th n lớn nhất cho các nhà nho yêu nước, thúc đẩy phong trào qu n chúng nỗi d y chống áp b c, thúc đẩy tinh th n cho các cuộc kh i nghĩa nông dân các địa phương. Tiêu biểu là sự nh n th c sâu sắc trước thời cuộc của nhà nho Phan Thanh Giản nhằm làm cho đất nước thoát khỏi sự lạc h u. Tuy nhiên, tư tư ng này lại không đư c em trọng làm ông phải mang nặng những nỗi ni m trước thời cuộc: “Từ ngày đi sứ Tây Kinh/ Thấy việc Âu Châu phải giật mình/ Kêu rủ đồng bào 53 mau thức dậy/ Hết lời năn nỉ chẳng ai tin” [5, tr.178]. Một nhà nho yêu nước phải đánh giặc để gìn giữ giang sơn, nếu không làm đư c thì phải chọn cái chết như Phan Thanh Giản để đ n ơn ua hoặc có trường h p thì rút ẩn để chờ thời: “Tháy máy gặp thời ta sẽ động” Phan Văn Trị . Họ nh n th c rằng, không giúp đư c ua thì phải tìm cách lui ẩn, ch không chịu làm tai sai cho giặc, họ tìm nơi ắng ẻ làm bạn ới thiên nhiên, giải s u bằng ch n rư u. Tâm trạng mang đ y bi kịch của kẻ sĩ bất lực, ch không nh n sự ưu đãi bằng cách đỡ đ u ào những ch c tước ng đáng à cấp cho lương bổng trọng h u. Có khi họ bị truy nã phải bỏ trốn, bỏ hết cả sản nghiệp để c ng thân quyến bỏ chạy cho khỏi bị nhục ì phải hàng Tây. Đa số các sĩ phu quay ruộng ườn thân yêu, rút sâu ào cái ỏ ẩn d t. Kẻ lấy ngh y làm nhu c u mưu sinh, kẻ sống lây lất ới một nhóm học tr trong cảnh tàn lụi của ánh lửa nho học sắp tắt. Trước khi Pháp âm lư c Nam Kỳ họ không chịu ra làm iệc cho tri u đình. Hồ Huân Nghiệp iện lẽ c n mẹ già, Phan Văn Đạt đổ công ra Huế nh n một ch c quan nhưng khi đến kinh đô lại bỏ . Khi Tôn Thọ Tường, Nguyễn Tường Phong đã tiến cử các nho sĩ Hồ Huân Nghiệp, Võ Mẫn à các tú tài B i Văn L , Nguyễn Châu Cơ, Mai Phương Mĩ, Huỳnh Văn Đạt, Võ Văn Hữu. Nhưng tất cả đ u lẫn tránh, chẳng ai chịu ra mặt ới Tây. Phan Văn Trị có l n đ ng bên bờ sông Hương ng khẩu: “Phú quý Trường An rong vấn cổ/ Phong lưu kinh địa chí đầy đầu” [7, tr.17], hay C n Thơ c ng bạn dạo chơi, ông a đi, a đọc: “Đứng lại làm chi cho mất công/ Vừa đi vừa đái vẽ nên rồng” [7, tr.17]. Rồng là tư ng trưng cho ua, chán cảnh quan trường, hạ thấp đám ua chúa đến thế, quả là một b c yêu nước. Trong thời Pháp Việt giao tranh, Trương Định là tướng lãnh thiện chiến. Trong lúc tri u đình nhà Nguyễn k h a ước hàng giặc thì Trương Định phất cờ kháng Pháp. Trương Định ốn ngay thẳng, cương trực, nóng nảy, ông đã t ng đem quân đánh chiếm G Công. Trong Điếu Trương Định, Nguyễn Khoa có iết: “Dân ba tỉnh cử tôi làm đầu để đánh khôi phục đất nước lại, tôi buộc lòng phải làm theo ý muốn của họ. Nếu các quan muốn bảo tồn cái tình thế ngày nay thì tôi sẽ nghịch chỉ Nam triều và tôi sẽ đánh tới hoài không kể chi cả, chừng đó các quan đừng lấy làm lạ” [2, tr.635]. Một khẩu kh hết s c mạnh mẽ. Và, thực chất thì Trương Định rất nổi tiếng, t ng là ni m tự hào của nhân dân Nam Bộ à nỗi ám ảnh đáng s đối ới thực dân Pháp à bè lũ tay sai bán nước: “Trong Nam tên họ nổi như cồn/ Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn” [6, tr.29]. Và đặc biệt là mấy tr n áp chiến ới Pháp G Công, lực lư ng đôi bên chênh lệch, nhưng ta thấy ẫn b ng b ng kh thế. Nguyễn Đình Chiểu khi miêu tả tỏ ra rất tâm đắc, h ng kh i: “Dấu đạn hãy chìm tàu bạch qủi/ Hơi gươm thêm rạng thẻ hoàng môn” [6, tr.29]. Nguyễn Đình Chiểu đ cao Trương Định dám chống lại chiếu chỉ nhà vua: “Giúp đời dốc trọn trang nam tử; Ngay chúa nào lo tiếng nghịch thần Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền; Theo bụng dân phải chịu tiếng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại” [6, tr.30-35]. Nhưng rồi thất thủ G Công, Trương Định rút Biên H a, tạm trú các c lao đ m l y có nhi u d a nước che phủ. Với Trương Định, Nguyễn Đình Chiểu ốn có tình tri kỷ. Cái chết của Trương Định khiến nhà thơ ô c ng đau ót, tiếc thương. Có ai hiểu Trương Định như Nguyễn Đình Chiểu: “May rủi phải chăng trời đất biết/ Một tay 54 chống chỏi mấy năm dài” [6, tr.31]. Khi Trương Định mất, nhà thơ m đã có những tiếng khóc thống thiết, khóc cho mình à cũng là khóc cho thời đại. Thời đại mất đi một trang anh h ng nghĩa kh : “Nói ra thì nước mắt trào/ Tấm lòng ưu thế biết bao giờ rồi/ Ôi! làm ra cớ ấy, tạo quá ghét nhau chi/ Nhắc đến đoạn nào anh hùng rơi lụy mãi”. Cái ch của Trương Định là cái ch dốc ra tay nâng ạc ngã, dù gian khổ ẫn b n gan tiết thủ, ẫn quyết nâng thành đổ ạc h u trọn đạo tôi con. Việc của Trương Định là cái iệc cảm nỗi nhà nghiêng lăm chống cột, ốn biết thế yếu, phải nhờ địa thế, nhờ sông núi che ch , nhờ bưng bi n, nhờ r ng bụi mà ngăn đón giặc, nhưng mến đất G Công không đành bỏ đi chẳng đành a bỏ cõi G Công, và: “Vì nước tấm thân đã gửi, còn mất cũng cam; giúp đời cái nghĩa đáng làm, nên hư nào nại”. Nguyễn Đình Chiểu suốt đời ì nước ì dân. Vì y, iết những con người ì dân ì nước bao giờ cũng chân thành, tha thiết. Bên cạnh một Trương Định đ y kh khái thì nhân t Phan T ng uất hiện trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu cũng là con người ì nghĩa, ì nghĩa mà đánh giặc à rồi cũng ì nghĩa mà anh dũng hy sinh. 3. xét a h h a Một số nhà nho chấp nh n h p tác ới ch nh quy n thực dân, một số nhà nho phó mặc cho thời thế, một số nhà nho tìm đường tránh n để giữ kh tiết à một số thua keo n y bày keo khác, họ cố ch để phục th . Tất cả các nhà nho ấy đ u có t nhi u ch ng t ch tư tư ng biểu lộ qua thơ ăn. “Nếu Nguyễn Thần Hiến, Nguyễn Quang Diêu mãi mãi vẫn không nguôi hận thì Huỳnh Đình Nguơn, Nguyễn Liên Phong sẵn sàng thỏa hiệp hoặc Lê Quang Chiểu nén lòng mà thỏa hiệp trong bợ ngợ ngập ngừng rồi sau đó li khai. Nếu Học Lạc, Nhiêu Tâm hay Trần Thới Hanh, Hồ Bửu Ngoạn cam phận làm dân vong quốc mà gửi hồn vào những vần châm biếm cho khuây thì Trần Hữu Thường, Nguyễn Văn Thới muốn khư khư một mực vì đạo nghĩa luân thường, ngại sợ lấm lem danh tiết. Còn nữa: Trần Kim Phụng, Sương Nguyệt Anh, Trần Ngọc Lầu, Tạ Quốc Bửu, Lê Lương Tri, Nguyễn Công Minh... với nhiều khuynh hướng khác nhau, tả tình, tả cảnh, nghĩ ngợi vẩn vơ, khóc than vô cớ...” [3, tr.320]. Có những sĩ phu yêu nước chân ch nh thời kì này a làm thơ, làm ăn, a trực tiếp c m gươm, lãnh đạo nhân dân chống giặc. Đó là Phan Văn Đạt, Đỗ Trình Thoại, Nguyễn Hữu Huân, Hồ Huân Nghiệp, Tr n Thiện Chánh, Phạm Văn Nghị,... Có người không có cơ hội hoặc đi u kiện tham gia đấu tranh trực tiếp, đã d ng ng i bút của mình để ca ng i cuộc kháng chiến, đ cao nghĩa cử anh h ng của các lãnh tụ nghĩa quân, à qua đó mà kh ch lệ, cổ ũ nhân dân t ch cực chống giặc. Có khi d ng bút pháp đã có t nhi u nhân tố hiện thực để tố cáo sự thối nát của ã hội, sự ngột ngạt của chế độ, hoặc sự ươn hèn nhút nhát của bọn thống trị. Đó là Phạm Văn Nghị 1805 - 1880 ới Nghĩa Trai thi văn tập, Miên Thẩm 1819 - 1870 ới Thương Sơn thi tập, Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888 ới những bài thơ chữ Hán, Nguyễn Thông 1827 - 1894 ới Ngọa du sào thi văn tập, Tr n B ch San 1840 - 1877 ới Mai Nham thi thảo, Hoàng Văn Hòe (1848 - 1885 ới Hạc nhân tùng ngôn,... Tiêu biểu là nhà nho Phan Thanh Giản 1796 - 1867 ới Lương khê thi thảo, cũng rất lo lắng cho n mệnh của dân tộc trước âm mưu âm lư c của bọn thực dân Pháp. Với tấm l ng ì dân, ì nước, ông cũng luôn trăn tr à mong muốn chấn 55 hưng đất nước trước sự âm lăng của ngoại bang. B i thế, Phan Thanh Giản là một b c trung nghĩa ới một tấm gương đạo đ c, một phẩm chất cao đẹp, suốt cuộc đời làm quan ông đã dốc hết s c lực ây dựng đất nước à cũng đã trải nhi u thăng tr m trong cuộc đời. Với t nh cương trực, suốt đời lo cho dân cho nước ông đã bốn l n bị giáng ch c dưới tri u ua Minh Mạng, đi u đó đã thể hiện rõ một phẩm chất cao đẹp, một tấm gương sáng của một nhà nho yêu nước đất Nam Kỳ. Sự nh n th c sâu sắc trước thời cuộc của Phan Thanh Giản nhằm làm cho đất nước thoát khỏi sự lạc h u. Tuy nhiên, tư tư ng này lại không đư c em trọng làm ông phải nặng mang những nỗi ni m trước thời cuộc: “Từ ngày đi sứ Tây Kinh/ Thấy việc Âu Châu phải giật mình/ Kêu rủ đồng bào mau thức dậy/ Hết lời năn nỉ chẳng ai tin” [5, tr.178]. Nỗi ni m u uất này đã đư c nhân dân thấu hiểu à mến mộ ông, đến hàng trăm năm sau phẩm chất của Phan Thanh Giản ẫn đư c người đời sau em trọng. Khi 3 tỉnh mi n Đông rơi ào tay giặc rồi tiếp đến 3 tỉnh mi n Tây, Phan Thanh Giản càng u uất hơn khi phải th a hành một đường lối sai l m của đất nước, mà người đ ng đ u ch nh là ua Tự Đ c. Với tấm l ng yêu nước thương dân nhưng đ ng trước thời cuộc ông không sao làm trái đư c ới tư tư ng trung quân của đạo nho, ông nh n thấy mình có tội ới dân ới nước à đã kết liễu đời mình để bày tỏ nỗi l ng ới người đời sau. Vì thế nỗi l ng à phẩm chất của ông càng đư c nêu cao, một con người luôn có lẽ sống, có đạo đ c à tư tư ng canh tân ới những cống hiến t ch cực cho Tổ quốc. Giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX, có nhi u sĩ phu, những người dân bị áp b c bóc lột, họ không c n trông c y à tin tư ng ào ua. Trái ới giai đoạn thời phong kiến thịnh trị, nước ới ua, trung quân ới ái quốc lúc bấy giờ là hai khái niệm gắn li n làm một. Trong hoàn cảnh ấy, không thể nào tìm thấy đư c ch qu t cường, tinh th n tự hào dân tộc, như đã t ng thấy trong các bài thơ của L Thường Kiệt, Tr n Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, trong Hịch tướng sĩ của Tr n Quốc Tuấn, trong Phú Bạch Đằng giang của Trương Hán Siêu, đặc biệt trong Bình Ngô đại cáo và Phú núi Chí Linh của Nguyễn Trãi. Đến cả cái hơi nóng của thơ ca dân gian yêu nước đương thời, tiếng dội của một Hịch đánh Pháp, một Hịch Lãnh Cồ chẳng hạn, cái kh thế của con người đang tạm thời bị thua tr n nhưng ẫn nắm chắc ph n thắng l i cuối c ng, cái hào h ng của những tâm hồn dũng cảm, cái lạc quan tin tư ng của những bản lĩnh kiên cường, đ u không thể có đư c trong những thơ ăn này. 4. a h h a a a h k Xã hội phong kiến nửa sau thế kỷ XIX đã lâm ào khủng hoảng tr m trọng, tư tư ng chi phối ã hội lúc này nói chung ẫn c n là tư tư ng “trung quân”, nhưng chữ “trung” đã mất hết nghĩa, chữ “trung quân” mâu thuẩn ới chữ “ái quốc”. Nho giáo dạy “thần sự quân dĩ trung”, nhưng quân đã không minh thì th n khó mà có thể giữ l ng trung. Thực tế cho thấy nhà nho em ua cũng chẳng ra gì, ch ng tỏ chữ “trung” đã mất giá trị nên có những nhà nho đã chống lại ua, nhân dân cũng đã chống lại ua. Trước sự âm nh p của phương Tây, các nhà nho yêu nước đã đón thêm một luồng gió mới, có nhà nho cộng tác ới Pháp, đại biểu là Tôn Thọ Tường, tình thế đã đến lúc thay đổi, chống lại người Pháp như “chim lấp biển”, phải theo thế cuộc: “Ở đời há dễ quên đời đặng/ Tính thiệt so hơn c