TÓM TẮT
Sử dụng điển tích, điển cố là một trong những thư pháp quen thuộc của thơ ca trung
đại. Cũng như nhiều nhà thơ Việt Nam khác, Trịnh Hoài Đức sử dụng khá thành công hình
thức nghệ thuật này. Trong tác phẩm Gia Định tam thập cảnh, ông đã sử dụng nhiều điển
tích, điển cố có nguồn gốc từ Trung Quốc. Điều đó đã góp phần làm cho tác phẩm thêm
giàu hình ảnh, hàm súc và cao nhã.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 492 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng điển cố, điển tích trong thơ Trịnh Hoài Đức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 - Thaùng 6/2011
27
SỬ DỤNG ĐIỂN CỐ,
ĐIỂN TÍCH TRONG THƠ TRỊNH HOÀI ĐỨC
LÊ THỊ KIM ÚT (*)
TÓM TẮT
Sử dụng điển tích, điển cố là một trong những thư pháp quen thuộc của thơ ca trung
đại. Cũng như nhiều nhà thơ Việt Nam khác, Trịnh Hoài Đức sử dụng khá thành công hình
thức nghệ thuật này. Trong tác phẩm Gia Định tam thập cảnh, ông đã sử dụng nhiều điển
tích, điển cố có nguồn gốc từ Trung Quốc. Điều đó đã góp phần làm cho tác phẩm thêm
giàu hình ảnh, hàm súc và cao nhã.
ABSTRACT
The use of literary allusion and classic references is one of the familiar skills found in
mediaeval poetry. Like other Vietnamese poets, Trinh Hoai Duc was successful in this skill.
In his poem “Gia Dinh Thirteen Sceneries”, he used a lot of literary allusions and classic
references of Chinese origin, which add a lot of images, refinements and succinctness to
his works.
(*)
1. Trong thơ ca trung đại không thể
thiếu điển cố, điển tích. Nó mặc nhiên
được thừa nhận như một loại hình ngôn
ngữ đặc biệt của thơ ca giai đoạn này. Có
nhiều quan niệm khác nhau về điển cố,
điển tích. Có thể nêu ra một số định nghĩa
của Đặng Đức Siêu, Ngữ liệu văn học, Nxb
giáo dục, 1999; Nguyễn Ngọc San, Từ điển
điển cố văn học trong nhà trường, Nxb
Giáo dục, 2001; Mộng Bình Sơn, Điển tích
chọn lọc, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1989;
Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Văn Chiến
Điển cố với các đặc trưng ngôn ngữ và nội
hàm văn hoá của chúng Có thể nói, điển
cố, điển tích là sự kết tinh từ những chuyện
cũ, tích xưa được trích dẫn từ các sách kinh
điển và trở thành mẫu mực cho việc diễn
đạt một nội dung nào đó.
Việc sử dụng điển cố là nét đặc thù
trong văn học trung đại, nhất là ở phương
Đông. Nó chịu ảnh hưởng bởi nhân tố lịch
(*)
ThS, Trường Đại học Thủ Dầu Một
sử, triết học và cả quan niệm thẩm mĩ cổ
phương Đông. Trước hết nó thể hiện tinh
thần sùng cổ vì chính Khổng Tử trong
Luận ngữ đã phát biểu rằng “Thuật nhi
bất tác, tín nhi hiếu cổ” (Thuật lại chứ
không sáng tạo, tin tưởng và ưa chuộng
cái cũ). Đây cũng có thể xem là đặc trưng
của ý thức con người Trung Hoa thời xưa
nói riêng, người phương Đông nói chung
về phương diện sáng tác, đó là xu hướng
trở về quá khứ, xem quá khứ là bài học
muôn đời cho quan niệm sống, chết của
con người.
Một ý thức xã hội như vậy sẽ dẫn đến
một quan niệm thẩm mĩ tương ứng. Sáng
tác văn học được soi rọi, đánh giá qua tấm
gương đạo đức nên thủ pháp lặp lại ý
tưởng của người trước trong văn chương
được xem là đúng đắn, là hay, là đẹp. Thời
đại quá khứ, nhân vật lịch sử là những tấm
gương, là những bài học giá trị cho đời sau.
Từ điều xảy ra trước có thể đoán biết được
việc sau. Những câu nói của người xưa có
28
thể làm bài học về tư tưởng, đạo đức cho
người đời sau. Đó là những yếu tố cơ bản
của nguyên lí ôn cố tri tân. Trên cơ sở tôn
sùng cái cũ, suy tôn kinh, thánh, sử dụng
điển cố là một phương thức văn học có
chiều hướng thiên về quá khứ để tìm về
những hình ảnh, tư tưởng và bài học của
người xưa. Với nền văn học trung đại Việt
Nam, những ai đã từng qua “cửa Khổng
sân Trình” không thể không bị ảnh hưởng
bởi quan niệm sáng tác trên. Vì sử dụng
điển cố để tạo hình ảnh sinh động cho câu
thơ, câu văn, tránh sự khô khan, trần trụi,
kích thích sự liên tưởng, gói gọn trong một
vài từ nhưng biểu đạt nội dung phong phú,
sâu sắc.
Với thơ ca thời trung đại, điển cố là
phương tiện tu từ, cũng là chiếc chìa khoá
của bài thơ để đi vào thế giới tâm hồn mỗi
người. Tuy nhiên, thi nhân Việt Nam sử
dụng điển cố theo cách riêng phù hợp với
tâm hồn người Việt chứ không hẳn rập
khuôn theo nguyên tắc, đặc điểm dùng điển
cố của văn học Trung Quốc. Tính chất đa
dạng và linh động của điển cố làm cho câu
thơ, câu văn thêm sâu sắc, tinh tế, thanh
nhã, sinh động, nhiều màu sắc và uyên bác.
Trên cơ sở đó, nhà thơ, nhà văn xưa đã góp
nhiều công sức để khẳng định khả năng
sáng tạo và tính độc lập của mình về tư
tưởng, nghệ thuật trong sáng tác, đặc biệt
là nghệ thuật sử dụng điển cố.
2. Trịnh Hoài Đức (1765 – 1825) tự
Chỉ Sơn, hiệu Cấn Trai, là một nhà thơ,
nhà văn và là một sử gia nổi tiếng của
Việt Nam trong thế kỉ XVIII. Quê gốc của
ông ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Ông
nội của Trịnh Hoài Đức làm quan dưới
triều Minh, sau khi triều Minh sụp đổ,
ông đưa cả gia đình sang Việt Nam cư
ngụ tại dinh Trấn Biên (nay là Biên Hoà,
Tỉnh Đồng Nai). Trịnh Hoài Đức học
rộng tài cao, đỗ đạt làm quan, là một công
thần của triều Nguyễn, đã giúp cho vua
Gia Long rất nhiều về các phương diện
ngoại giao, chính trị và kinh tế. Bộ Gia
Định thành thông chí là một công trình có
giá trị cao về lịch sử, địa lí và văn hoá của
miền Nam bộ. Nội dung tập sách ghi chép
đầy đủ và tỉ mỉ về núi sông, khí hậu, việc
thành lập các trấn, thành trì, cũng như về
phong tục tập quán, tính cách và sinh hoạt
của người dân Nam Bộ.
Riêng Gia Định tam thập cảnh trong
Gia Định thành không khí, tác giả Trịnh
Hoài Đức sử dụng ba mươi sáu điển cố
trong 18/30 bài thơ. Đó là các bài: Gia
Định kim thành, Hoa Phong cổ luỹ Mai
khâu túc hạc, Liên chiểu miên âu, Phù Gia
điếu nguyệt, Lâu Viên giác liệp Điển cố
xuất hiện với tần suất khá nhiều trong Gia
Định tam thập cảnh, chủ yếu đề cập tới
những nhân vật nổi tiếng, các nội dung
trích từ Kinh thi và các tích xưa như: Lâm
Bô - ẩn sĩ đời Tống, Nghiêm Lăng thời
Đông Hán, bà Hậu phi - vợ vua Văn
Vương nhà Hán, Ngũ Đinh - vị thần thời
khai thiên lập địa, vua Phục Hy và Hoàng
Đế - thời cổ của Trung Hoa, nhà thơ Khuất
Nguyên, Thiệu Bình đời Tống
Dựa vào điển cố, có những lúc tác giả
đưa người đọc miên man bên dòng suy tư
về những chuyện trong quá khứ, về một
tình bạn thuở hàn vi như Nghiêm Quang và
Hán Quang Vũ chẳng hạn:
Tuý ngoạ thương giang tầm vãng sự,
Nghiêm Lăng tằng thị bố y giao.
(Phù Gia điếu nguyệt)
(Say nằm nơi dòng sông lạnh mà ôn lại
việc đã qua,
Nghiêm Lăng xưa từng là bạn áo vải).
Cũng có lúc tác giả lại mang niềm
thương cảm đến cho người đọc cũng từ
những nhân vật, những con người của quá
29
khứ. Chẳng hạn trong bài Quang Hoá hồ
già, chỉ một hồi kèn vang lên nhưng đã
thúc giục nhà thơ trở về với biết bao kí ức.
Tiếng kèn nối liền tình hữu nghị thắm thiết
giữa hai đất nước Việt – Miên
(Campuchia). Tiếng kèn làm lay động đến
cả không gian, làm cho mây thu cũng ngập
ngừng bay. Nơi miền biên ải xa xôi ấy,
người lính chợt buồn theo cỏ mới, để rồi
như thấu hiểu cái chết uất ức của Lí Tướng,
cái thần trong khúc đàn ai oán của Chiêu
Quân mà nhập điệu cùng nhau. Bài thơ
tưởng chừng như một lời chia sẻ nỗi buồn
với những người ở tận phương trời Trung
Hoa nhưng thật ra là lời an ủi, cảm thông
với vất vả, thiệt thòi của những người lính
đang canh gác nơi miền biên ải của nước
Việt thân yêu
Đặc biệt Liên chiểu miên âu có đến 4
điển cố gồm: phù tung (theo Thi nghĩa sớ),
điển vong cơ (trong điển âu lộ vong cơ,
điển cựu minh (trong điển âu minh), thu
tang thổ (mượn ý ở bài Xi hiệu trong Kinh
thi). Nếu vong cơ trong điển “âu lộ vong
cơ” được hiểu theo nghĩa bạn với con âu,
con cò mà quên việc đời (tức chỉ người ở
ẩn) và cựu minh do điển “âu minh” cũng
chỉ người ở ẩn chốn mây nước như có ước
hẹn làm bạn với chim âu thì đích thực bài
thơ chính là lời kí thác tâm sự của tác giả.
Cái tài của nhà thơ ở chỗ, ông viết về một
hình ảnh bình thường nhưng đằng sau nó là
một sức công phá to lớn. Dẫu có quy ẩn
hay không thì người hiền sĩ ấy luôn giữ
phẩm giá và nhân cách trong sạch của
mình. Liên chiểu miên âu vừa có cái trang
nhã, vừa mang chất phong lưu thoát tục
của người hiền sĩ là vậy:
Âm âm hạm đạm thủy trung tiêu,
Dục bãi sa âu liễm ngọc kiều ()
Vong cơ nhàn khách chẩm hương miêu.
(Hoa sen vươn cao lên trong nước, bóng
râm mát,
Chim le le tắm xong thu lông ngọc
lại ()
Quên đời, khách nhàn gối đầu vào búp
thơm).
Bốn bài thơ khác có đến 3 điển cố.
Trong đó, bài Gia Định kim thành có: Kim
thành (do chữ Kim thành thang trì), cửu
ngũ long phi (là hào 95 trong quẻ Càn
sách Chu Dịch, hào từ là Long phi tại
thiên), tam thiên hổ bái (do chữ hổ bôn
tam thiên); Trong bài Thuỳ Vân quất phố
có: Đắc nhĩ lương nô lũ bất hiềm (do điển
Lí Xung trồng quít trong Tương Dương
kí), Trung phẫn (chỉ nhà thơ Khuất
Nguyên), Hiếu tâm trường cảm bội hương
điềm (do tích số 13 trong Nhị thập tứ
hiếu); Trong bài Mĩ Tho dạ vũ có: Trạc
anh (dựa vào Ngư phủ từ của Khuất
Nguyên), Hòe thị (theo sách Tam phụ
hoàng đồ), Tang Lâm (dựa vào tích đời
Thành Thang nhà Thương) Những điển
cố có mặt trong Gia Định tam thập cảnh
nhiều nhất là điển cố về các nhân vật nổi
tiếng, các tích về việc xây dựng đất nước,
về nền thái bình thịnh trị Đó là tâm
trạng của người vừa tham gia chiến tranh
vừa tự hào với chiến công đạt được, đồng
thời được thừa hưởng những ân phúc lớn
lao của triều đình ban tặng. Vì vậy, Gia
Định tam thập cảnh lúc nào cũng mang
âm hưởng của tinh thần lạc quan, của
người thành đạt trong cuộc đời. Hơn cả,
đó là lòng yêu cuộc sống, biết sống vì mọi
người, điều đó đã tạo cho nhà thơ tâm
trạng an vui như thế.
Cách sử dụng điển cố của Trịnh Hoài
Đức không gây cho người đọc cảm giác
khó hiểu, xa vời mà ngược lại. Bởi nhà thơ
diễn đạt chúng một cách tự nhiên, thoải
mái, không khô khan trần trụi, cũng không
quá trau chuốt, vừa đủ tạo cho người đọc
30
sự kích thích liên tưởng. Chính những
ngôn ngữ gián tiếp này biểu đạt một cách
sâu sắc giá trị nội dung tư tưởng của tác
giả. Chẳng hạn bài thơ Quang Hoá Hồ già:
Lí tướng ai ngâm đồng nhập điệu,
Minh phi oán khúc nhược lưu thần.
(Cùng nhập điệu với tiếng ngâm buồn
của Lí Quảng,
Có cái thần của khúc đàn ai oán Chiêu
Quân).
Điển cố đã khơi gợi lại một câu
chuyện, đưa quá khứ hiện diện lên trang
thơ. Điển cố như một loại hình ngôn ngữ
gián tiếp với hai lần giá trị biểu trưng: đó là
những từ ngữ không biểu đạt hàm ý ngay
trong bản thân từ mà thay thế cho một câu
chuyện, một sự tích. Một lần nữa, những
câu chuyện, sự tích ấy lại chuyển tải một
nội dung ý nghĩa nhất định và nội dung ý
nghĩa ấy mới là cái đích hướng tới của các
tác giả. Đây là hai cấp độ ý nghĩa của điển
cố, trong đó cấp độ thứ hai thường gặp
trong văn học hơn cả. Tác giả sử dụng
chúng nhằm để diễn đạt nội dung chứ nó
không hẳn khơi gợi nguồn cảm hứng. Vì từ
hình thức sự vật, người ta nhìn thấy ngụ ý
bên trong. Điển cố luôn mang hai nghĩa,
nghĩa đen và nghĩa bóng. Xuyên qua lớp
nghĩa đen, đến lớp nghĩa bên trong mới
thực sự tìm thấy bản chất của vấn đề. Nếu
khéo sử dụng điển cố thì những chữ ngắn
gọn hàm chứa ý nghĩa sâu xa là phương
tiện diễn đạt tốt nhất, giúp lời, ý thêm đậm
đà, lí thú. Chọn điển cố hay có thể làm tăng
cái đẹp, hàm súc trong lời thơ, nhanh
chóng đạt hiệu quả “ngôn hữu tận nhi ý vô
cùng” (lời hết nhưng ý không cùng) [1].
Chẳng hạn, khi ca ngợi triều đại thịnh
vượng, nhà thơ dựa vào điển thuỳ củng nhi
thiên hạ trị (ông vua ngồi một chỗ mà thiên
hạ bình trị) trong Kinh thi. Muốn nói lên
khí tiết cao nhã, trong sạch, tác giả mượn
điển tích Lâm Bô - ẩn sĩ đời Tống, người
không cầu danh lợi để tự khẳng định bản
thân:
Mộng lí kí bằng Lâm xử sĩ,
Mạc lai u hác nhiễu khiên triền.
(Trong mộng gửi nương xử sĩ họ Lâm,
Đừng đến chốn thanh u mà quấy nhiễu
mãi).
Điển cố trong Gia Định tam thập cảnh
được sử dụng để tăng cường lượng thông
tin biểu đạt, tính hàm súc cho bài thơ.
Chúng đóng vai trò quan trọng trong việc
thể hiện giá trị biểu cảm của câu thơ. Qua
những tích đó, sức truyền cảm, tính hàm
súc của bài thơ càng tăng lên mạnh mẽ. Vì
chúng trước hết được bắt nguồn từ trong
sách vở thánh hiền nhưng khi vào thơ
Trịnh Hoài Đức, được ông tái hiện lại một
cách gần gũi với hiện thực đương thời, làm
cho người đọc dễ nắm bắt, dễ thông thuộc
hơn như:
Vong cơ nhàn khách chẩm hương
miêu.
(Quên đời, khách nhàn gối đầu vào búp
thơm)
Hoặc:
Cựu minh do đãi trục lai triều.
(Hẹn cũ còn chờ nước triều lên)
Cả vong cơ lẫn cựu minh đều chỉ khí
tiết của người nho sĩ, vì không thích nhập
thế, họ tìm về chốn mây nước để ở ẩn, để
quên đời, để làm bạn thanh sạch với chim
âu. Muốn nói rõ ý định của mình, tác giả
thật khó giải bày cho cặn kẽ. Nhưng khi
khái quát hai điển cố trên, tác giả đã diễn
đạt một cách trọn vẹn tâm tư của mình mà
lời thơ vẫn thanh nhã, tinh tế. Vì thế, Liên
chiểu miên âu nói về chim le nhưng thực ra
là để nói về con người, triết lí chiều sâu
trong thơ Trịnh Hoài Đức luôn làm người
đọc phải tự vấn là thế. Điển cố chính là
“trợ thủ đắc lực để lời được nhẹ nhàng, ý
31
được thanh tao, nghiêm túc”[2].
3. Việc vận dụng hệ thống điển cố
trong thơ Trịnh Hoài Đức vừa thể hiện
được đặc trưng hình thức của thơ ca trung
đại, vừa là nét độc đáo trong lối thể hiện
bút pháp nghệ thuật của nhà thơ. Điều đó
chứng tỏ, nhà thơ phải có vốn văn hoá
uyên bác mới có thể sử dụng một cách hiệu
quả điển cố để tăng cường khả năng biểu
đạt của nó, phù hợp với kiểu tư duy hình
tượng, lối suy nghĩ sâu sắc, thâm thuý, sự
ưa chuộng, bộc lộ cái thần, cái cốt lõi, nói
ít hiểu nhiều của con người Việt Nam thời
trung đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lixêvic. I. X (2000), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc (Trần Đình Sử dịch), Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
2. Đoàn Ánh Loan (2003), Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố, Nxb. Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Lộc (1990), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
4. Phương Lựu (2006), Tập 1 - Tuyển tập, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
5. Huỳnh Minh (2001), Gia Định xưa, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
6. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
7. Nhiều tác giả (2002), Nam Bộ đất và người, Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí
Minh, Nxb. Trẻ.