Tóm tắt
Từ xưa đến nay, chùa Việt ở Khánh Hòa không chỉ đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm
linh, mà nó còn dung hợp với tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống như tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín
ngưỡng thờ tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ danh nhân, thờ anh hùng liệt sĩ, Đạo giáo, Nho giáo. Đặc
biệt, sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa phản ánh truyền thống, thể hiện
sắc thái vùng miền và góp phần tạo nên tính đa dạng trong văn hóa Phật giáo Việt Nam.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 246 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự dung hợp tín ngưỡng thờ mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
17Số 25 - Tháng 9 - 2018
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
SỰ DUNG HỢP TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
TRONG CHÙA VIỆT Ở KHÁNH HÒA
NGUYỄN VĂN BỐN
Tóm tắt
Từ xưa đến nay, chùa Việt ở Khánh Hòa không chỉ đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm
linh, mà nó còn dung hợp với tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống như tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín
ngưỡng thờ tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ danh nhân, thờ anh hùng liệt sĩ, Đạo giáo, Nho giáo. Đặc
biệt, sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa phản ánh truyền thống, thể hiện
sắc thái vùng miền và góp phần tạo nên tính đa dạng trong văn hóa Phật giáo Việt Nam.
Từ khóa: Sự dung hợp, tín ngưỡng thờ Mẫu, chùa Việt, Khánh Hòa
Abstract
From ancient time up to present, Vietnamese pagodas in Khanh Hoa not only play an important
role in the spiritual life, but also acculturate with traditional beliefs and religions such as nature
worship beliefs, ancestors worship, worship of Mother Goddesses, worship of heroic martyrs, Taoism,
Confucianism. Especially, the harmonious worship of Mother Goddess in the Vietnamese pagodas in
Khanh Hoa reflects the traditions, expresses local nuances and contributes to the diversity of Buddhist
culture in Vietnam
Keywords: Acculturation, Mother Goddesses worship, Vietnamese pagoda, Khanh Hoa
1. Sự dung hợp tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na
Thánh Mẫu
Như chúng ta biết, tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu là kết quả của sự tiếp biến văn hóa Việt
- Chăm. Đó là sự dung hợp và Việt hóa từ Nữ
thần Mẹ xứ sở Pô Inư Nưgar của người Chăm
thành Thiên Y A Na Thánh Mẫu của người
Việt. Theo đó, tín ngưỡng này được người Việt
thờ phụng phổ biến ở Trung bộ nói chung và
Khánh Hòa nói riêng. Ở Khánh Hòa, tín ngưỡng
này được người Việt thờ phụng phổ biến từ
nông thôn đến thành thị. Theo thời gian, tín
ngưỡng thờ Thiên Y Thánh Mẫu đã dung hợp
với nhiều hình thức tín ngưỡng dân gian khác
của người Việt như tín ngưỡng thờ ông Nam
Hải, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tín
ngưỡng thờ tổ tiên... Song điển hình là sự dung
hợp và phổ biến của tín ngưỡng thờ Thiên Y A
Na Thánh Mẫu trong chùa Việt ở Khánh Hòa.
Theo quan niệm dân gian, Thiên Y A Na Thánh
Mẫu là Mẫu bản thổ, có vai trò quan trọng
trong đời sống tâm linh người Việt ở Khánh
Hòa. Chính vì thế, nhiều chùa Việt ở Khánh
Hòa từ lâu đã dung hợp với tín ngưỡng thờ
Thiên Y A Na Thánh Mẫu. Đó là chùa Suối Đổ
và chùa Hàng Thuận (Suối Hiệp, Diên Khánh),
chùa Oai Linh (Vĩnh Thọ, tp. Nha Trang), chùa
Sắc Tứ Chí Linh Sơn, chùa Đá Lố và chùa Thanh
Vân (Vĩnh Phương, tp. Nha Trang), chùa Nghĩa
Quang (Phương Sài, tp. Nha Trang), chùa Linh
Phong (Phương Sơn, tp. Nha Trang), chùa Đào
Viên (Ngọc Hiệp, tp. Nha Trang), chùa Chí Lý
(Vĩnh Hải, tp. Nha Trang), chùa Bửu Long (Ninh
Quang, Ninh Hòa), chùa Thiên Phước (Ninh
Đông, Ninh Hòa)...
Bên cạnh đó, sự dung hợp tín ngưỡng
thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu trong chùa Việt
ở Khánh Hòa thể hiện motip truyền thống
Phật giáo Việt Nam, đó là: “tiền Phật, hậu Mẫu”
hoặc “tiền Thánh, hậu Phật”. Theo tác giả Trần
Lâm Biền, “Việc thờ Mẫu là một đảm bảo cho
Số 25 - Tháng 9 - 201818
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
sự tồn tại của ngôi chùa, hay sự dung hội với
tín ngưỡng dân dã này là đường đi tất yếu
của Phật giáo, nhờ đó mà đạo Phật có bệ đỡ
quần chúng” (1, tr.637). Nói cách khác, đây là sự
hòa hợp giữa tín ngưỡng dân gian của người
Việt với Phật giáo để cùng tồn tại, phát triển
và thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của cư dân
nông nghiệp. Cơ sở cho sự dung hợp này là
niềm tin và nhu cầu vừa thờ Phật vừa thờ Thiên
Y A Na Thánh Mẫu của người Việt. Tuy nhiên,
theo không gian, hoàn cảnh lịch sử - xã hội và
đặc trưng văn hóa vùng miền mà sự dung hợp
tín ngưỡng thờ Mẫu trong chùa Việt có những
nét khác biệt. Nếu như chùa Việt vùng văn hóa
Bắc Bộ phổ biến là sự dung hợp tín ngưỡng
thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ như chùa Phật Tích
(Tiên Du, Bắc Ninh), chùa Trấn Quốc (Tây Hồ,
Hà Nội), chùa Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương)...,
thì ngược lại, trong quá trình Nam tiến, chùa
Việt ở Khánh Hòa thường dung hợp với tín
ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu và nhiều
vị nữ thần, mẫu thần khác.
Sự dung hợp tín ngưỡng Thiên Y A Na
Thánh Mẫu trong những ngôi chùa Việt ở
Khánh Hòa rất đa dạng và linh hoạt. Tùy theo
không gian của ngôi chùa mà có cung hoặc
ban thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu trong chính
điện. Ví dụ, cung thờ Thiên Y Thánh Mẫu trong
chùa Sắc Tứ Chí Linh Sơn, còn gọi là chùa Suối
Ngổ (Vĩnh Phương, tp. Nha Trang). Ngôi chùa
được tạo dựng từ thời Nguyễn trên đỉnh núi
Hòn Én gồm tam quan, khuôn viên và chính
điện. Khuôn viên chùa gồm am thờ Chiến sỹ,
tượng Phật Quan Thế Âm Bồ Tát, tượng Phật
Di Lặc, am ông Hổ, miếu ông Địa Tạng, am
Ngũ hành thần nữ và am Cô hồn. Chính điện
là một tòa nhà theo bình đồ chữ nhất, được
chia thành hai khu vực: điện thờ Phật và điện
thờ Mẫu. Thứ nhất, điện thờ Phật nằm bên
tay phải từ tam quan vào chùa, chính giữa là
tượng Thích Ca Mâu Ni, bên trái là tượng Quan
Thế Âm Bồ Tát và bên phải là tượng Bồ Đề Đạt
Ma. Thứ hai, điện thờ Mẫu ở bên tay trái từ tam
quan vào chùa, trên cùng là tượng Phật Mẫu
Diêu Trì, bên dưới là tượng Thiên Y A Na Thánh
Mẫu. Bên trái tượng Thiên Y A Na Thánh Mẫu là
ban thờ Quan Công. Bên phải tượng Thiên Y A
Na Thánh Mẫu là ban thờ nhị thập bát tiên, bài
vị của vị sư tổ, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh
và chân dung Đại tướng Võ Nguyễn Giáp.
Một ví dụ khác là cách bài trí trong chùa
Suối Đổ và chùa Nghĩa Quang, Thiên Y A Na
được thờ trong chính điện. Theo đó, chính
giữa là cung thờ Phật, bên phải từ tam quan
vào là cung thờ Quan Thánh Đế và bên trái là
cung thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu. Tuy nhiên
trong chùa Nghĩa Quang (Phương Sài, tp. Nha
Trang), thì cung thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu
lại bài trí như sau: Hàng trên cùng là tượng
Thiên Y A Na Thánh Mẫu, hàng thứ hai là Tam
tòa Thánh Mẫu, hàng thứ ba là Ngũ hành thần
nữ và bên dưới là hạ ban thờ Ngũ Hổ, Thanh
Bạch Xà. Ngoài ra, nhiều chùa chỉ tạo dựng
am hoặc cung thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu
trong khuôn viên như chùa Phước Huệ (Vĩnh
Hải, tp. Nha Trang), chùa Đá Lố (Vĩnh Phương,
tp. Nha Trang), chùa Bửu Long (Diên Thọ, Diên
Khánh)... Không những thế, vào những ngày
vía của Thiên Y A Na Thánh Mẫu, người Việt
không chỉ đến dâng hương hoa, tụng niệm
kinh, mà họ còn thực hành nghi lễ hầu đồng
theo Tam - Tứ phủ Bắc hoặc Tiên Thiên Thánh
giáo/Tứ phủ Huế. Tiêu biểu như chùa Suối Đổ
(Suối Hiệp, Diên Khánh), chùa Bửu Long (Diên
Thọ, Diên Khánh), chùa Đá Lố (Vĩnh Phương,
tp. Nha Trang)... Như vậy, chùa Việt ở Khánh
Hòa không chỉ dung hợp và đa dạng về hình
thức thờ tự, mà còn tích hợp cả thực hành văn
hóa tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na. Đồng thời
thực hành văn hóa Phật giáo đã ảnh hưởng
vào tín ngưỡng thờ Thiên Y A Na Thánh Mẫu
của người Việt ở Khánh Hòa như lễ cúng chay,
tụng kinh Phật, lễ cầu quốc thái dân an, lễ thả
hoa đăng,...
2. Sự dung hợp tục thờ Ngũ hành thần nữ
Việt Nam là một quốc gia có truyền thống
canh tác nông nghiệp lúa nước, cho nên hình
thành tục thờ các nhiên thần mang tính nữ,
19Số 25 - Tháng 9 - 2018
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
được thể hiện đậm nét trong tâm thức cộng
đồng các tộc người. Điều này được phản ánh,
lưu truyền thông qua những huyền thoại dân
gian của các tộc người ở nước ta. Trước hết,
để tạo lập vũ trụ là công của nữ thần Mặt Trời
và nữ thần Mặt Trăng. Hai nữ thần này đã soi
sáng và sưởi ấm cho mặt đất từ thuở chỉ có
bùn, nước và bóng tối. Theo đó, huyền thoại
bà Nữ Oa cùng ông Tứ Tượng đội đá vá trời, xây
núi, khơi sông, mà trong một cuộc thi tài bà
Nữ Oa đã chứng tỏ được sức mạnh của mình
nên đã giành chiến thắng. Bên cạnh đó là
những nữ thần gắn với những hiện tượng tự
nhiên như Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp
Điện. Những yếu tố cội nguồn của vũ trụ và
nguồn sống được dân gian người Việt cho là
mang nữ tính. Đồng thời với đó là xu hướng
nữ hóa các vị thần, đặc biệt là những nhiên
thần như trường hợp năm bà Ngũ hành còn
gọi là mẹ Ngũ hành. Đó là bà Thủy, bà Hỏa, bà
Kim, bà Mộc và bà Thổ. Theo quan niệm của
người phương Đông thì Ngũ hành tức là năm
loại vật chất gồm Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ, Kim.
Mọi sự vật trên thế giới đều được sinh thành
từ sự vận động và chuyển hóa từ năm loại vật
chất cơ bản này. Mặt khác, dựa trên mối quan
hệ tương sinh tương khắc trong Ngũ hành để
lý giải mối quan hệ giữa các sự vật. Tục thờ Nữ
thần, Mẫu thần là một hiện tượng khá phố
biến trong đời sống tâm linh của người Việt và
cộng đồng các tộc người khác ở nước ta, cũng
như trên thế giới. Tục thờ Nữ thần của người
Việt mang tính bản địa và đã có từ xa xưa. Tác
giả Đặng Văn Lung viết: “Với tính chất là một
tín ngưỡng bản địa, tục thờ Nữ thần xuất hiện
khá sớm, cách đây khoảng 2.500 năm. Hoa văn
trống đồng Đông Sơn ghi nhận ngày hội thờ
nữ thần Mặt Trời tràn trề sôi nổi. Đến thế kỷ II,
Phật giáo vào Luy Lâu, Nho giáo cũng vào đó,
hai tôn giáo quốc tế chèn ép tín ngưỡng bản
địa. Đặc biệt, Phật giáo đã đưa Man Nương,
một bà mẹ Nước lên làm Phật Mẫu” (3, tr.28).
Nhưng theo không gian, điều kiện tự
nhiên, chủ thể, phương thức sản xuất, bối
cảnh lịch sử - xã hội, nhu cầu tín ngưỡng mà
mỗi vùng miền ở nước ta có những nét tương
đồng và khác biệt trong tục thờ Nữ thần. Theo
đó, Khánh Hòa là vùng đất do chúa Nguyễn
mở cõi vào năm 1653, có điều kiện tự nhiên
đa dạng như núi rừng, đồng bằng, biển đảo và
cộng cư đa tộc người, cho nên đã hình thành
những phương thức sản xuất tương ứng. Đó là
sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, khai thác
rừng và thương mại dịch vụ. Vì vậy mà tục
thờ Nữ thần của người Việt ở đây không chỉ
phổ biến, đa dạng mà nó còn tạo nên sắc thái
riêng, đó là Ngũ hành thần nữ. Trong dân gian,
người Việt ở Khánh Hòa thường gọi là Mẹ Ngũ
hành hoặc Ngũ vị Thánh Bà... Đó là bà Thủy sắc
phục màu đen, bà Mộc sắc phục màu xanh, bà
Hỏa sắc phục màu đỏ, bà Kim sắc phục màu
trắng và bà Thổ sắc phục màu vàng. Trong Ngũ
vị Thánh Bà, bà Thổ được đặt ở vị trí trung tâm.
Đặc biệt là Ngũ hành thần nữ đã được các vua
triều Nguyễn ban tặng nhiều sắc phong chung
hoặc sắc phong riêng cho từng vị nữ thần. Tác
giả Đỗ Văn Khoái cho biết: “Sắc phong chung
cho Ngũ hành được tìm thấy sớm nhất vào
năm Duy Tân thứ 5 (1911), hiện có ở nhiều
di tích, như miếu Ấp Bạch Qua (Diên Khánh),
đình Phong Ấp (Ninh Hòa). Sắc phong riêng
cho từng vị trong năm vị thì Chủ thiết/Chúa sắt
thần nữ (tức là bà Kim) có sắc phong sớm nhất
là vào năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) tại miếu
Hội Đồng (Diên Khánh)” (2, tr.11).
Mặt khác, việc ban tặng sắc phong của
triều đình nhà Nguyễn cho Ngũ hành thần
nữ đã chính thức công nhận, tôn kính và cho
phép người dân được thờ tự. Theo kết quả
khảo sát của chúng tôi, nhiều ngôi chùa Việt ở
Khánh Hòa thường có miếu hoặc am thờ Ngũ
hành thần nữ như chùa Suối Đổ (Suối Hiệp, tp.
Nha Trang), chùa Đào Viên (Ngọc Hiệp, tp. Nha
Trang), chùa Sắc Tứ Chí Linh (Vĩnh Phương, tp.
Nha Trang), chùa Oai Linh (Vĩnh Thọ, tp. Nha
Trang)... Sự dung hợp tục thờ Ngũ hành thần
nữ trong chùa Việt ở Khánh Hòa xuất phát từ
nhu cầu và niềm tin dân gian của người Việt.
Số 25 - Tháng 9 - 201820
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Theo họ, đây là những nữ thần sáng tạo ra thế
giới vạn vật và mang lại cuộc sống cho cộng
đồng. Vì thế mà nhiều Phật tử dâng cúng và
xin phép các nhà sư được thờ phụng Ngũ hành
thần nữ trong chùa. Do đó, các am hoặc miếu
thờ Ngũ hành thần nữ trong chùa thường có
linh tượng và bài vị của 5 vị Nữ thần. Hơn thế
nữa, vào dịp vía Ngũ hành thần nữ (mùng
5 tháng 5 âm lịch), người Việt thường dâng
hương, hoa và thực hành lên đồng theo Tiên
Thiên Thánh giáo.
3. Sự dung hợp tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ, Tứ phủ
Như chúng ta đã biết, trên nền tảng của
tín ngưỡng thờ Nữ - Mẫu thần, tín ngưỡng thờ
Mẫu Tam phủ - một hình thức thờ cúng người
mẹ hóa thân ở các miền trời, sông nước, rừng
núi - được hình thành và phát triển sâu rộng
trong cộng đồng người Việt vùng châu thổ Bắc
Bộ. Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ có
mối quan hệ mật thiết với tục thờ Nữ thần và
Mẫu thần của người Việt. Mẫu Tam phủ là ba
người Mẹ mang biểu tượng siêu nhiên của ba
miền vũ trụ. Đây là các bà mẹ vũ trụ cai quản
những lĩnh vực quan trọng nhất của cư dân
nông nghiệp lúa nước: Mẫu Thiên phủ là bà
mẹ cai quản miền Trời; Mẫu Địa phủ là bà mẹ
cai quản miền Đất; Mẫu Thoải phủ là bà mẹ cai
quản miền Nước. Mẫu Tam phủ còn có thể gọi
là Tam tòa Thánh Mẫu trong tín ngưỡng thờ
Mẫu Việt Nam. Tác giả Trần Lâm Biền viết: “Ban
thờ Mẫu có ba tượng gọi là Tam tòa Thánh
Mẫu. Gốc xưa gồm Mẫu Thượng Thiên, Mẫu
Thoải, Mẫu Địa. Bà Thượng Ngàn gắn với người
chết nên để riêng. Khi đạo Mẫu phát triển
vào thành thị do Mẫu Thượng Ngàn ít nhiều
gắn với tài lộc, nên Tam tòa Thánh Mẫu gồm:
Thượng Thiên, Thượng Ngàn, Mẫu Thoải” (1,
tr.650). Theo tác giả Chu Quang Trứ, “Tam tòa
Thánh Mẫu là ba lực lượng siêu linh gắn với ba
khu vực của thế giới là Thiên phủ, Nhạc phủ
và Thủy phủ. Tứ phủ gồm: Thiên - Nhạc - Thủy
và Địa” (7, tr.11). Còn theo Trần Quốc Vượng, “Ở
đồng bằng Bắc Bộ, việc thờ thần Mẫu, dưới ảnh
hưởng Đạo giáo dân gian, được hệ thống hóa
thành “Tứ phủ công đồng” với ba Mẫu Thiên
Phủ, Địa phủ, Thủy phủ, hay có khi là bốn Mẫu,
thêm Mẫu Thượng Ngàn, đại diện Rừng Xanh.
Mẫu Liễu Hạnh thường được thờ riêng, hay
được đồng nhất với Mẫu Thiên phủ” (8, tr.238).
Đến thế kỷ XVI, tín ngưỡng này trở thành một
sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng có ảnh hưởng
sâu rộng trong đời sống xã hội và tâm thức
người dân Việt. Thánh Mẫu Liễu Hạnh được
thờ cúng cùng với các vị Thánh Mẫu cai quản
miền trời, rừng, nước và những nhân vật lịch
sử hoặc huyền thoại có công với nước, với dân.
Theo thư tịch và huyền thoại, Mẫu Liễu là tiên
nữ giáng trần, làm người, rồi quy y Phật giáo,
được tôn vinh là “Mẫu nghi thiên hạ” và là một
trong “Tứ bất tử” của người Việt. Tín ngưỡng
này còn hỗn dung với Đạo giáo, Phật giáo
và các tục thờ dân gian khác của người Việt.
Ngoài ra, trong thần điện Tam phủ, Tứ phủ còn
tích hợp nhiều vị thần của các tộc người khác
như người Mường, Tày, Nùng, Dao, Chăm...
Điều này không chỉ tạo nên tính đa dạng văn
hóa trong tín ngưỡng này, mà còn phản ánh
mối quan hệ và sự gắn kết đa tộc người ở Việt
Nam. Có thể nói tín ngưỡng này như một “bảo
tàng sống” góp phần lưu giữ, trưng bày, giới
thiệu về giá trị lịch sử - văn hóa Việt Nam. Nói
cách khác, tín ngưỡng này thể hiện bản sắc
văn hóa dân tộc, thỏa mãn nhu cầu của người
Việt về tài lộc và sức khỏe.
Theo thời gian, tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ, Tứ phủ đã xuất hiện ở Khánh Hòa từ
những năm đầu thế kỷ XX cùng với quá trình
nam tiến của người Việt ở vùng Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ. Đây chính là hiện tượng khuếch tán
văn hóa theo bước di cư của người Việt đến
vùng đất mới. Tuy nhiên, tín ngưỡng thờ Mẫu
Tam phủ, Tứ phủ của người Việt ở Khánh Hòa
gồm hai dòng, đó là Tam phủ, Tứ phủ Bắc và
Tứ phủ Huế/Tiên Thiên Thánh giáo. Tín ngưỡng
thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của người Việt ở
Khánh Hòa chủ yếu được thực hành ở những
đền, điện tư trong những gia đình người Việt
21Số 25 - Tháng 9 - 2018
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
gốc Huế, Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Kết quả
nghiên cứu thực địa cho biết, Tứ phủ Huế, còn
gọi là Tiên Thiên Thánh giáo, xuất hiện ở Khánh
Hòa từ những năm 30 của thế kỷ XX. Đó là đền
Diệu Linh (Phước Tiến, tp. Nha Trang), điện
Định Phước (Vạn Thắng, tp. Nha Trang), điện
Cứu Thế (Phương Sài, tp. Nha Trang), điện Nam
Minh (Vĩnh Thọ, tp. Nha Trang), điện Cô Chín
Thượng Ngàn (Vĩnh Phước, tp. Nha Trang),
Thủy Long Bích điện (Ninh Ích, Ninh Hòa)...
Tư liệu điền dã cho chúng tôi biết, tín
ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ Bắc của
người Việt ở Khánh Hòa xuất hiện từ sau năm
1954 bởi một bộ phận người Việt di cư từ các
tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (như Hà Tây (cũ),
Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương, Ninh
Bình, Thanh Hòa, Nghệ An) vào Khánh Hòa
lập nghiệp. Những thần điện Mẫu Tam phủ,
Tứ phủ Bắc cũng chủ yếu là những điện thờ
tư gia. Đó là đền Sòng Sơn (Phước Tiến, tp.
Nha Trang), đền Thánh Mẫu Đệ Nhất Thiên
Tiên (Cam Phúc Nam, Cam Ranh), Bảo Hà Linh
từ (Tân Phú, Cam Ranh), Tiên Hương Vọng từ
(Phước Tiến, tp. Nha Trang), điện Cửu Trùng
(Ninh Hiệp, Ninh Hòa), Bắc Lệ Linh từ (Phước
Long, Nha Trang), điện Trần Lộc Thiên Trường
(Phước Long, tp. Nha Trang)... Bên cạnh đó, tín
ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của người
Việt cũng được dung hợp trong chùa Việt ở
Khánh Hòa. Đó là ban thờ Mẫu trong chùa
Nghĩa Quang (Phương Sài, tp.Nha Trang), Pháp
Tánh Linh từ chùa Pháp Tánh (Vĩnh Thọ, tp. Nha
Trang), điện Ngọc Diêu cung trong chùa Bửu
Long (Diên Thọ, Diên Khánh), chùa Phước Huệ
(Vĩnh Hải, tp. Nha Trang). Do vậy, những cung
thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ trong ngôi chùa Việt
còn là không gian thiêng cho các ông đồng,
bà đồng thực hành nghi lễ lên đồng Bắc hoặc
hầu đồng Huế. Có thể nói rằng, việc tạo lập
những thần điện Mẫu Tam phủ, Tứ phủ của
người Việt ở Khánh Hòa từ xưa đến nay đã
góp phần vào quá trình gìn giữ và trao truyền
các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam. Bởi
vì, trong tâm thức của người Việt, dù đi đâu,
họ vẫn luôn mang theo và mong muốn bảo
lưu giá trị văn hóa truyền thống của họ trên
những vùng đất mới.
4. Sự dung hợp với các vị thần dân gian khác
Ngoài sự dung hợp tín ngưỡng thờ Thiên
Y A Na, tục thờ Ngũ hành thần nữ, tín ngưỡng
thờ Mẫu Tam - Tứ phủ, trong chùa Việt ở Khánh
Hòa còn có sự dung hợp các vị thần của tín
ngưỡng, tôn giáo khác, tiêu biểu như Cửu
Thiên Huyền Nữ, Diêu Trì Kim Mẫu.
Một là, sự dung hợp Cửu Thiên Huyền Nữ
trong chùa Việt ở Khánh Hòa. Cửu Thiên Huyền
Nữ còn gọi là Cửu Thiên Huyền Nữ nương
nương hoặc Huyền Nữ. Bà là nữ thần trong thần
thoại cổ đại Trung Quốc, sau được Đạo giáo tín
cử. Tác giả Nguyễn Tôn Nhan cho biết: “Cửu
Thiên Huyền Nữ cũng được gọi là Cửu Thiên,
Huyền Nữ, Cửu Thiên nương nương, là một nữ
thần trong thần thoại Trung Quốc cổ đại, sau
này được Đạo giáo tôn thờ, trở thành một vị
nữ thần nổi tiếng rất có ảnh hưởng trong dân
gian” (5, tr.407). Truyền thuyết dân gian Trung
Quốc kể rằng: “Một hôm Cửu Thiên Huyền Nữ
cưỡi chim phượng đỏ, mặc bộ y phục chín
màu, đáp xuống hạ giới, trao cho Hoàng Đế lá
bùa dùng binh Lục Giáp Lục Nhâm và sách sai
khiến quỷ thần, đồng thời chế ra 80 cái trống
mà đánh bại Si Long” (4, tr.2211).
Trong dân gian người Việt lưu truyền về
câu chuyện Cửu Thiên Huyền Nữ dạy Lỗ Ban
làm nhà. Truyện kể rằng: “Thuở hồng hoang,
con người có hỏi Thần Nông cách làm nhà để
ở. Thần Nông đứng thẳng dang hai tay ngang
vai, thế là con người làm nhà bằng mái như
giàn bầu, giàn bí. Kiểu nhà mái bằng này lợp
bằng lá cây nên gặp mưa dột tứ tung không
ở được. Bà Cửu Thiên thấy vậy bèn xuống trần
dạy cho cách làm nhà: Bà đứng thẳng hai tay
chống nạnh vào hông. Lỗ Ban theo đó dựng
cột bắt kèo làm nên kiểu nhà hai mái dốc. Thế
là con người có nhà để trú nắng tránh mưa.
Thần Nông thấy sự việc như vậy hận lắm, thề
rằng “Ta thề không chui qua dưới nách đàn
bà mà ở”. Bởi vậy, người đời hoặc đắp đàn cao
Số 25 - Tháng 9 - 201822
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
không lợp mái, hoặc xây miếu thì phải làm
mái bằng để thờ Thần Nông. Tục ấy còn duy
trì đến nay. Căn cứ vào truyền thuyết này, Cửu
Thiên Huyền Nữ được coi là tổ của ngành mộc,
ngành xây dựng nói chung và các ngành nghề
thủ công: dệt may, đục chạm, điêu khắc...” (6,
tr.78). Theo đó, chùa Việt