Tóm tắt. Nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập cho học sinh khuyết tật nói chung và học
sinh khiếm thính nói riêng đang ngày càng được quan tâm. Đối với học sinh khiếm thính,
hạn chế về khả năng nghe được xem là nguyên nhân dẫn đến những khó khăn về ngôn ngữ
nói. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của các em trong lớp hòa nhập. Dựa
vào khó khăn đặc trưng này, hiện nay, nhiều trường hòa nhập dành cho học sinh khiếm
thính đã sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong quá trình giảng dạy. Nội dung bài báo này
đề cập đến việc sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong các lớp hòa nhập cho học sinh khiếm
thính bao gồm: một số cách thức sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học hòa nhập,
đề xuất một số hướng dẫn để thực hiện sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học hòa
nhập học sinh khiếm thính.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 302 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học hòa nhập học sinh khiếm thính cấp tiểu học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0126
Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 6BC, pp. 187-193
This paper is available online at
SỬ DỤNG NGÔN NGỮ KÍ HIỆU HỖ TRỢ
TRONG DẠY HỌC HÒA NHẬP HỌC SINH KHIẾM THÍNH CẤP TIỂU HỌC
Bùi Thị Anh Phương
Khoa Giáo dục Đặc biệt, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Nâng cao chất lượng giáo dục hòa nhập cho học sinh khuyết tật nói chung và học
sinh khiếm thính nói riêng đang ngày càng được quan tâm. Đối với học sinh khiếm thính,
hạn chế về khả năng nghe được xem là nguyên nhân dẫn đến những khó khăn về ngôn ngữ
nói. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của các em trong lớp hòa nhập. Dựa
vào khó khăn đặc trưng này, hiện nay, nhiều trường hòa nhập dành cho học sinh khiếm
thính đã sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong quá trình giảng dạy. Nội dung bài báo này
đề cập đến việc sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong các lớp hòa nhập cho học sinh khiếm
thính bao gồm: một số cách thức sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học hòa nhập,
đề xuất một số hướng dẫn để thực hiện sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học hòa
nhập học sinh khiếm thính.
Từ khóa: Học sinh khiếm thính, ngôn ngữ kí hiệu, giáo dục hòa nhập, hỗ trợ, đánh vần
bằng tay.
1. Mở đầu
Những nghiên cứu về kết quả học tập của học sinh khiếm thính đã chỉ ra rằng: “Chính sự
suy giảm thính lực là nguyên nhân chính hạn chế khả năng học tập của trẻ điếc chứ không phải là
do môi trường học tập, đặc biệt là đối với trẻ điếc nặng và điếc sâu” [4]. Do đó, trong dạy học hòa
nhập, bên cạnh việc sử dụng các cách thức hỗ trợ nhằm hạn chế tối đa những ảnh hưởng của mức
độ suy giảm thính lực ví dụ như trang bị thiết bị trợ thính, giảm tiếng ồn,. . . việc sử dụng phương
thức giao tiếp cho phù hợp với học sinh cũng có vai trò quyết định. Ngày nay, trên thế giới cũng
như ở Việt Nam đã có sự thay đổi rõ rệt về quan điểm và thực tiễn lựa chọn phương thức giao tiếp
và sử dụng ngôn ngữ kí hiệu trong dạy học cho học sinh khiếm thính. Trong dạy học bên cạnh
việc sử dụng ngôn ngữ nói, giáo viên còn sử dụng kết hợp cả ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ. Trên thế
giới, việc sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học học sinh khiếm thính đã được đề cập đến
trong một số nghiên cứu của Juan Pablo Bonet (Tây Ban Nha), John Wallis (Anh), Charles Michel
Albe de L’epee (Pháp), Thomas Hopkin Gallaudet (Mĩ)...[3],[5]. Chẳng hạn như Juan Pablo Bonet
đã sử dụng điệu bộ tự nhiên để dạy học sinh khiếm thính phát âm các từ qua 3 bước: Bước 1. Sử
dụng điệu bộ tự nhiên để biểu đạt từ; Bước 2. Viết từ được biểu đạt ra; Bước 3. Dạy học sinh phát
âm từ đó. [3],[5]. Hoặc John Wallis dạy phát âm cho học sinh khiếm thính bằng việc sử dụng chữ
cái ngón tay. [3],[5]. . . Ở Việt Nam, các nghiên cứu về ngôn ngữ kí hiệu nói chung, sử dụng ngôn
ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học nói riêng còn rất ít ỏi. Các công trình nghiên cứu đã công bố vẫn
Ngày nhận bài: 25/5/2015. Ngày nhận đăng: 15/8/2015.
Liên hệ: Bùi Thị Anh Phương, e-mail: buianhphuongdhsp@gmail.com.
187
Bùi Thị Anh Phương
tập trung chủ yếu vào những đặc trưng của ngôn ngữ kí hiệu Việt Nam, xây dựng vốn kí hiệu như
nghiên cứu của các tác giả Vương Hồng Tâm, Đỗ Văn Ba, Lê Văn Tạc, Cao Xuân Mỹ. . . . Do đó,
việc nghiên cứu, đề xuất một số hướng dẫn sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học hòa
nhập cho giáo viên sẽ góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và giáo dục cho các em.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Ngôn ngữ kí hiệu
Ngôn ngữ kí hiệu là ngôn ngữ sử dụng hình dạng bàn tay, chuyển động cơ thể, cử chỉ điệu
bộ và sự thể hiện trên khuôn mặt để trao đổi kinh nghiệm, suy nghĩ, nhu cầu và cảm xúc. Ngôn
ngữ kí hiệu bao gồm cả những cử chỉ điệu bộ thông dụng và hàng nghìn kí hiệu mà người điếc đã
phát triển theo thời gian [2, 3].
Vào giữa những năm 1950, tiến sĩ ngôn ngữ học người Mĩ, William Stokoe [3, 6] là người
đầu tiên chính thức nghiên cứu các kí hiệu của người điếc dưới góc độ một ngôn ngữ thực thụ. Ông
khẳng định đó là một ngôn ngữ riêng, có quy luật, có các đặc tính riêng. Ông đã nghiên cứu và
đưa ra năm thành tố cơ bản của ngôn ngữ kí hiệu:
- Vị trí làm kí hiệu (Location);
- Hình dạng bàn tay (Handshape);
- Chuyển động của tay (Movement);
- Chiều hướng của lòng bàn tay (Orientation);
- Sự diễn tả không bằng tay (Non-manual).
Năm thành tố mà William Stokoe đã đưa ra không chỉ đúng với ngôn ngữ kí hiệu Mĩ, mà
đúng với bất kì ngôn ngữ kí hiệu nào trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Các thành tố này rất
cần thiết và được sắp xếp một cách đồng thời để tạo nên kí hiệu. Để phân biệt, nhận dạng kí hiệu,
người ta dựa vào các thành tố dấu của mỗi kí hiệu. Sự khác nhau của các thành tố tạo nên sự khác
nhau của các kí hiệu.
Điểm khác biệt giữa ngôn ngữ kí hiệu và ngôn ngữ nói là trật tự của các kí hiệu trong câu kí
hiệu thường khác trật tự từ trong ngôn ngữ nói hay nói cách khác cú pháp trong ngôn ngữ kí hiệu
khác với cú pháp trong ngôn ngữ nói. Nguyên nhân chủ yễu dẫn đến sự khác biệt này là cú pháp
của ngôn ngữ kí hiệu chịu ảnh hưởng của lối tư duy đặc thù của người khiếm thính là tư duy trực
quan- hành động và tư duy trực quan- hình tượng [1]. Những điểm khác biệt đặc trưng giữa ngữ
pháp của ngôn ngữ kí hiệu so với ngôn ngữ nói bao gồm: trong ngôn ngữ nói, một câu đơn thường
có vị trí các thành phần như sau: Chủ ngữ + Động từ + Bổ ngữ nhưng trong ngôn ngữ kí hiệu lại
có thứ tự: Chủ ngữ + Bổ ngữ + Động từ. Ví dụ: ngôn ngữ nói: Tôi/ thích/màu đỏ, ngôn ngữ kí hiệu:
Tôi/ màu đỏ/thích; Ngôn ngữ kí hiệu có tính giản lược, có nghĩa là câu trong ngôn ngữ kí hiệu bỏ
đi một số thành phần so với câu trong ngôn ngữ nói. Ví dụ: ngôn ngữ nói: “Bạn/ tên/ là gì?”, ngôn
ngữ kí hiệu “Bạn/ tên/ gì?”.
2.2. Sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học hòa nhập học sinh khiếm
thính
Sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học hòa nhập học sinh khiếm thính là việc giáo
viên vừa sử dụng lời nói kết hợp với làm kí hiệu trong quá trình giảng dạy hay nói cách khác, giáo
viên phải đồng thời sử dụng miệng để nói, vừa sử dụng tay để làm các kí hiệu.
Qua tìm hiểu ở một số trường hòa nhập dành cho học sinh khiếm thính, bài báo đưa ra một
số cách thức sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học hòa nhập học sinh khiếm thính:
188
Sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học hòa nhập học sinh khiếm thính cấp tiểu học
2.2.1. Sử dụng lời nói kết hợp với đánh vần bằng tay
Đánh vần bằng tay là một kĩ thuật được thực hiện bằng việc đánh chữ cái ngón tay. Chữ cái
ngón tay là hình thức thay các chữ cái A, B, C. . . của ngôn ngữ nói bằng các hình dạng bàn tay
khác nhau. Các từ có thể được đánh vần sử dụng các kí hiệu chữ cái đó. Để có thể sử dụng hình
thức giao tiếp này đòi hỏi cả giáo viên và học sinh cần phải biết hệ thống chữ cái ngón tay, sau đó
học cách ghép các chữ cái đó đúng trình tự để tạo thành tiếng/từ. Ví dụ từ “Môn Toán”, đánh vần
từ này bằng cách làm kí hiệu lần lượt từng chữ cái theo trình tự: M- Ô- N/ T- O- A- N- DẤU SẮC.
Mỗi quốc gia có một hệ thống chữ cái ngón tay riêng. Có hệ thống chữ cái ngón tay sử dụng
một tay. Có hệ thống chữ cái ngón tay sử dụng hai tay. Hệ thống chữ cái ngón tay Việt Nam gồm
29 chữ cái và các dấu thanh, dấu mũ. Hệ thống chữ cái ngón tay Việt Nam sử dụng một tay để làm
kí hiệu. Dưới đây là minh họa về hệ thống chữ cái ngón tay Việt Nam.
Bảng hệ thống chữ cái ngón tay tiếng Việt [5]
189
Bùi Thị Anh Phương
Trong lớp hòa nhập, việc sử dụng lời nói kết hợp với đánh vần bằng tay là một trong những
hình thức phổ biến được giáo viên sử dụng. Việc sử dụng đánh vần bằng tay kết hợp với lời nói
nhằm giúp học sinh khiếm thính nắm bắt được đúng, chính xác các từ mà học sinh khiếm thính
khó nghe hoặc khó tri giác được bằng hình miệng, từ đó giúp cho việc tiếp thu được thông tin mà
giáo viên truyền tải một cách đầy đủ, chính xác hơn. Đặc biệt, đối với học sinh khiếm thính nhỏ
tuổi, đánh vần bằng tay kết hợp với lời nói có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt, giúp cho các em
học đọc và viết chính xác hơn.
Tuy nhiên, việc sử dụng đánh vần bằng tay sẽ mất nhiều thời gian và công sức nên việc sử
dụng đánh vần bằng tay theo toàn bộ một câu không được sử dụng. Giáo viên chỉ sử dụng đánh
vần bằng tay như một hình thức hỗ trợ lời nói có nghĩa là giáo viên chỉ đánh vần bằng tay một số
từ trong câu trong một số trường hợp sau: Khi giáo viên muốn làm rõ các từ mà học sinh khiếm
thính không phân biệt được qua nghe và đọc hình miệng; Khi trong câu có một từ/ khái niệm mới.
Đây cũng là một cách nhằm giúp học sinh khiếm thính phát triển vốn từ; Khi giáo viên muốn giới
thiệu một tên riêng, ví dụ tên của một người nào đó hoặc tên một địa danh nào đó.
Trong lớp học hòa nhập, việc sử dụng đánh vần bằng tay hỗ trợ lời nói, giáo viên cần chú
ý: Lựa chọn vị trí đứng cho học sinh khiếm thính dễ tri giác được; Tốc độ đánh vần bằng tay vừa
phải; Chỉ sử dụng một tay (tay thuận) để đánh chữ cái ngón tay; Vị trí tay thuận để ở trước ngực,
ngang tầm vai, không quá cao, không quá thấp; Hình dạng bàn tay rõ ràng từng chữ cái; Nên đánh
chữ cái ngón tay theo cách viết chữ, điều này nhằm giúp học sinh khiếm thính không chỉ phát triển
kĩ năng đánh chữ cái ngón tay mà còn phát triển kĩ năng viết.
2.2.2. Sử dụng kí hiệu hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ lời nói
Sử dụng kí hiệu hỗ trợ một phần lời nói là hình thức mà giáo viên/ học sinh khiếm thính sử
dụng kí hiệu kết hợp cùng với ngôn ngữ lời nói, tuy nhiên chỉ sử dụng một số kí hiệu để hỗ trợ các
từ chính/quan trọng của câu nói. Ví dụ, giáo viên nói với cả lớp: “Bây giờ chúng ta sẽ cùng học
toán”, giáo viên vừa nói vừa kết hợp làm một số kí hiệu: “chúng ta/ học/ toán”.
Sử dụng kí hiệu hỗ trợ toàn bộ lời nói là hình thức mà giáo viên/ học sinh khiếm thính sử
dụng kí hiệu kết hợp cùng với ngôn ngữ lời nói, tuy nhiên sử dụng kí hiệu để hỗ trợ tất cả các từ
trong câu nói. Ví dụ, giáo viên nói với cả lớp: “Bây giờ chúng ta sẽ cùng học toán”, giáo viên vừa
nói vừa kết hợp làm kí hiệu: “Bây giờ/ chúng ta/ sẽ/ cùng/ học/ toán”.
Cả hai hình thức này, kí hiệu hỗ trợ một phần lời nói hay kí hiệu hỗ trợ toàn bộ lời nói đều
sử dụng yếu tố chính trong ngôn ngữ kí hiệu là các kí hiệu nhưng không theo trật tự ngữ pháp của
ngôn ngữ kí hiệu.
Hình thức sử dụng kí hiệu hỗ trợ một phần lời nói được sử dụng phổ biến hơn trong lớp hòa
nhập học sinh khiếm thính. Hình thức này nhằm giúp học sinh khiếm thính vừa tận dụng sức nghe
còn lại vừa sử dụng được điểm mạnh của mình là tri giác thị giác, nhờ đó học sinh nắm bắt được
thông tin dễ dàng hơn và giáo viên không phải nhắc lại nhiều lần.
Trong lớp hòa nhập, hình thức này được sử dụng trong mọi tiết học, trong giảng dạy cũng
như trong giao tiếp với học sinh bởi hình thức này một mặt hỗ trợ tích cực học sinh khiếm thính
mặt khác không ảnh hưởng đến việc học tập của học sinh bình thường, đồng thời giúp các học sinh
hiểu và chấp nhận sự đa dạng trong lớp học.
Khi sử dụng kí hiệu hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ lời nói, giáo viên cần lưu ý: giáo viên cần
phải có sự linh hoạt, tùy vào từng tình huống. Thông thường, giáo viên nên sử dụng theo hình thức
kí hiệu hỗ trợ một phần lời nói bởi một trong những đặc điểm đặc trưng của ngôn ngữ kí hiệu là
190
Sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học hòa nhập học sinh khiếm thính cấp tiểu học
tính giản lược. Việc bỏ bớt những thành phần phụ, tập trung vào các thành phần chính/ quan trọng
trong câu giúp học sinh khiếm thính nắm bắt được nội dung chính của thông tin được truyền tải.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp cần hướng dẫn học sinh khiếm thính viết đúng câu, ví dụ như
trong tiết chính tả hoặc tập làm văn, đôi khi việc sử dụng hình thức kí hiệu hỗ trợ toàn bộ lời nói
là cần thiết.
2.2.3. Sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ lời nói
Sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ lời nói là việc sử dụng kết hợp cả lời nói và ngôn ngữ kí
hiệu trong quá trình giảng dạy và giao tiếp. Khác với hình thức sử dụng kí hiệu hỗ trợ một phần
hoặc toàn bộ lời nói, khi sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ lời nói, giáo viên làm kí hiệu theo trật tự
ngữ pháp của ngôn ngữ kí hiệu.
Như trên đã trình bày, ngữ pháp của ngôn ngữ kí hiệu có những điểm khác biệt so với ngôn
ngữ nói nên trong lớp hòa nhập, hình thức này ít được sử dụng. Tuy nhiên, tùy vào mức độ nhận
thức của học sinh khiếm thính, giáo viên có thể sử dụng hình thức này, đặc biệt đối với học sinh
khiếm thính học hòa nhập ở bậc cuối tiểu học hoặc ở các bậc học cao hơn, hay các học sinh khiếm
thính có cơ hội tiếp xúc hoặc tham gia cộng đồng người điếc. Ngoài ra, giáo viên có thể sử dụng
hình thức này khi giao tiếp với học sinh khiếm thính hoặc trong khi tiếp cận cá nhân học sinh
khiếm thính trong giờ học hòa nhập.
2.2.4. Một số hướng dẫn để thực hiện sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học hòa
nhập học sinh khiếm thính
Nhiều trường lớp hòa nhập, nhiều giáo viên dạy hòa nhập học sinh khiếm thính hiện nay đã
nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ lời nói trong quá trình
giảng dạy. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, nhiều giáo viên dạy trong các lớp hòa nhập học sinh khiếm
thính rất hạn chế về vốn kí hiệu, hạn chế hiểu biết về ngôn ngữ kí hiệu; lúng túng trong việc sử
dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ lời nói. Để thực hiện có hiệu quả việc sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ
trợ trong dạy học hòa nhập nhằm giúp học sinh khiếm thính thành công hơn trong học tập, giáo
viên một mặt cần không ngừng nâng cao vốn kí hiệu cho bản thân, đồng thời chú ý đến kĩ thuật
khi sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học học sinh khiếm thính, cụ thể:
- Để có thể sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong quá trình dạy học hòa nhập học sinh
khiếm thính trước hết đòi hỏi người giáo viên phải có vốn kí hiệu phong phú. Bởi vậy, bản thân
người giáo viên phải tự học hỏi, làm giàu vốn kí hiệu cho mình. Hiện nay, việc học ngôn ngữ kí
hiệu không còn trở nên quá khó khăn bởi các nguồn tài liệu, băng đĩa dạy ngôn ngữ kí hiệu ngày
một phong phú hơn, trực quan hơn.
- Tôn trọng học sinh khiếm thính. Điều đó có nghĩa là hãy xuất phát từ học sinh khiếm
thính. Rất nhiều học sinh khiếm thính có vốn kí hiệu tự phát hoặc vốn kí hiệu thống nhất do có cơ
hội gặp gỡ, tiếp xúc với những người điếc trưởng thành hoặc lớn tuổi hơn. Do vậy, khi xuất hiện
một từ/ khái niệm mới, điều quan trọng là xuất phát từ học sinh khiếm thính, lấy hiểu biết từ phía
học sinh, xem học sinh đã biết kí hiệu cho từ/ khái niệm mới đó hay chưa.
- Một trong những đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ kí hiệu là tính tượng hình. Trong ngôn
ngữ kí hiệu, rất nhiều kí hiệu mô phỏng một phần hoặc toàn bộ đặc điểm đặc trưng của sự vật,
hiện tượng hay hành động. Ví dụ kí hiệu “Ăn” hay kí hiệu “Đánh răng” mô phỏng lại toàn bộ hành
động “Ăn” hoặc “Đánh răng”’; Kí hiệu “Con mèo” mô phỏng một phần đặc điểm của con mèo là
“râu mèo”. Do đó, dựa vào đặc điểm này của ngôn ngữ kí hiệu, với những từ/ khái niệm mới mà
191
Bùi Thị Anh Phương
cả giáo viên và học sinh chưa biết kí hiệu. Giáo viên nên cùng với học sinh thống nhất, quy ước
một kí hiệu cho từ/ khái niệm mới đó.
- Dạy học hòa nhập học sinh khiếm thính sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ đòi hỏi giáo viên
vừa phải sử dụng lời nói, vừa phải sử dụng kí hiệu, có nghĩa là giáo viên vừa phải sử dụng miệng,
vừa phải sử dụng tay và các cử chỉ, điệu bộ. Do đó, giáo viên cần chú ý đến vị trí đứng ở trong lớp
đồng thời chú ý đến cả vị trí tay khi làm kí hiệu để không bị che khuất hình miệng.
- Lời nói của giáo viên cần phải rõ ràng, có điểm nhấn với tốc độ bình thường, không quá
nhanh, không quá chậm, hình miệng rõ. Các kí hiệu hỗ trợ cần phối hợp nhịp nhàng với lời nói và
chính xác, rõ ràng về năm thành tố: Vị trí làm kí hiệu; Hình dạng bàn tay; Sự chuyển động của tay;
Chiều hướng của bàn tay; Sự diễn tả không bằng tay.
- Tùy vào độ tuổi và mức độ nhận thức của học sinh khiếm thính, giáo viên cần mở rộng
việc sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ. Ví dụ, ở các lớp nhỏ như đầu tiểu học, giáo viên sử dụng 2
hoặc 3 kí hiệu kết hợp, hỗ trợ cho 2 hoặc 3 từ chính/quan trọng trong câu nói nhưng ở các lớp lớn
hơn, giáo viên nên sử dụng nhiều kí hiệu kết hợp, hỗ trợ hơn trong câu nói. Mục đích của việc làm
này là để giúp học sinh khiếm thính phát triển ngôn ngữ, không chỉ ngôn ngữ kí hiệu mà cả ngôn
ngữ nói.
3. Kết luận
Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp và tư duy. Hạn chế về ngôn ngữ tạo ra những rào cản trong
giao tiếp và nhận thức. Chất lượng giáo dục hòa nhập cho học sinh khiếm thính phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố: môi trường lớp học; trang thiết bị dạy học; dịch vụ hỗ trợ; trình độ chuyên môn của
giáo viên... Và một trong các yếu tố then chốt là việc lựa chọn phương tiện để giao tiếp, để truyền
tải thông tin, kiến thức trong việc giảng dạy, giáo dục học sinh. Qua thực tiễn tìm hiểu cho thấy,
việc sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học hòa nhập cho học sinh khiếm thính cấp tiểu
học đã được các giáo viên quan tâm và chú trọng hơn, tuy nhiên hạn chế đối với giáo viên là vốn
kí hiệu, do đó họ gặp khó khăn trong việc sử dụng lời nói kết hợp với kí hiệu hỗ trợ. Trên cơ sở
tổng hợp lí luận và thực tiễn, bài viết đưa ra một số hình thức sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ và
những hướng dẫn để thực hiện việc sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học hòa nhập học
sinh khiếm thính là những gợi ý, đề xuất giúp giáo viên sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy
học hòa nhập học sinh khiếm thính có hiệu quả hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đỗ Thị Hiền, 2013. Vài nét về ngôn ngữ kí hiệu và việc dạy ngôn ngữ cho trẻ khiếm thính ở
Việt Nam. Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, trang 67, 68.
[2] Sandy Niemann, Devorah Greenstein and Darienna David, 2006. Giúp đỡ trẻ Điếc. Nhà xuất
bản Lao động, Hà Nội.
[3] Trần Thị Thiệp (chủ biên), Bùi Thị Anh Phương, Nguyễn Thị Cẩm Hường, Vương Hồng
Tâm, 2012. Giáo trình ngôn ngữ kí hiệu thực hành. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
[4] Nguyễn Thị Hoàng Yến, 2005. Đại cương giáo dục trẻ khiếm thính. Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội.
[5] Barbara Lee Crickmore, 1995. Education of the Deaf and Hearing impaired: A brief history,
2nd Edition. Mayfield, N.S.W. Education Management System.
192
Sử dụng ngôn ngữ kí hiệu hỗ trợ trong dạy học hòa nhập học sinh khiếm thính cấp tiểu học
[6] I.G Kyle and B.Woll with G.Pullen and F.Maddix, 2002. Sign Language, the study of deaf
and their language. Cambridge University, United Kingdom.
[7] NDCS, 2004. Sign Language and your deaf child. United Kingdom.
ABSTRACT
Using sign language to teach hearing impaired students in inclusive classes
Improving quality of inclusive education for students with disabilities in general and for
students with hearing impairment in particular are increasingly interested. For hearing impaired
students, restrictions on their hearing is considered the cause of the difficulties of the spoken
language. This affects clearly on the learning of the children in inclusive classes. Based on this
particular difficulty, nowaday, more inclusive schools for hearing impaired students have been
using supported sign language in the teaching process. This report refers to the use of supported
sign language in inclusive classes for hearing impaired students including: some ways of using
supported sign language in inclusive teaching; some instructions to perform using supported sign
language for teaching hearing impaired students in inclusive classes.
Keywords: Students with hearing impairment, Sign language, Inclusive education, Support,
Fingerspelling.
193