Tóm tắt
Tín ngưỡng Tam/ Tứ phủ và nghi lễ hầu đồng đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của
một bộ phận người dân Việt Nam hiện nay. Ngày 1/12/2016, “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ của người Việt” đã chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể
đại diện của nhân loại. Điều đó cho thấy tín ngưỡng này có một giá trị vô cùng quan trọng. Bởi vậy,
nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu Tam/ Tứ phủ nhằm phản ánh quá trình hình thành, phát triển
của tín ngưỡng; phản ánh đời sống xã hội, nhu cầu tâm linh của con người là việc làm cần thiết. Bài
viết tìm hiểu sự hình thành của tín ngưỡng này thông qua nghiên cứu truyền thuyết và tư liệu thành
văn cùng lịch sử giao lưu, tiếp biến văn hóa, như một đóng góp vào công việc có tính chất học thuật
và thực tiễn này.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 239 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam/Tứ phủ và nghi lễ hầu đồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5Số 22 - Tháng 12 - 2017
TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
SỰ HÌNH THÀNH TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
TAM/TỨ PHỦ VÀ NGHI LỄ HẦU ĐỒNG
BÙI QUANG THANH
Tóm tắt
Tín ngưỡng Tam/ Tứ phủ và nghi lễ hầu đồng đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của
một bộ phận người dân Việt Nam hiện nay. Ngày 1/12/2016, “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ của người Việt” đã chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể
đại diện của nhân loại. Điều đó cho thấy tín ngưỡng này có một giá trị vô cùng quan trọng. Bởi vậy,
nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu Tam/ Tứ phủ nhằm phản ánh quá trình hình thành, phát triển
của tín ngưỡng; phản ánh đời sống xã hội, nhu cầu tâm linh của con người là việc làm cần thiết. Bài
viết tìm hiểu sự hình thành của tín ngưỡng này thông qua nghiên cứu truyền thuyết và tư liệu thành
văn cùng lịch sử giao lưu, tiếp biến văn hóa, như một đóng góp vào công việc có tính chất học thuật
và thực tiễn này.
Từ khóa: Tín ngưỡng thờ Mẫu, nghi lễ Hầu đồng, Tam/Tứ phủ
Abstract
The belief of worship of Three Realms/Four Realms plays an important role in the spiritual life
of a part of the Vietnamese people today. On December 01, 2016, the “Practices related to the Viet
beliefs in the Mother Goddesses of Three Realms” was officially registered by UNESCO on the List of
Intangible Cultural Heritage of Humanity. This shows that this belief has a very important value.
Therefore, researches on the worship of Three Realms/Four Realms to reflect the formation and
development of beliefs, the social life, the spiritual needs of the people are necessary. The article
explores the origins of this belief through the study of legends and written materials and the history
of cultural exchanges and accculturation as a contribution to this scholarly and practical work.
Keywords: Beliefs in Mother Goddesses, Hau dong practices, Three Realms/Four Realms
1. Đặt vấn đề
Tín ngưỡng “được hiểu là niềm tin của con người vào cái gì đó thiêng liêng, cao cả, siêu nhiên, hay nói gọn lại là
niềm tin, ngưỡng vọng vào “cái thiêng”, đối
lập với cái “trần tục”, hiện hữu mà ta có thể sờ
mó, quan sát được” (10, tr.16). Nhìn trên bình
diện văn hóa dân gian nhân loại, các dân tộc
đều gặp nhau ở quá trình nhận diện vũ trụ và
thế giới khách quan, đi đến khái quát về mẫu
số chung cho một vũ trụ hiện tồn bao gồm 3
tầng. Đối với người Việt là 3 tầng (Thiên phủ
Số 22 - Tháng 12 - 20176
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
- Địa phủ - Thoải phủ) và 4 thế giới (miền trời,
miền đất - nơi con người sinh sống, miền nước
và miền rừng núi). Mỗi tầng có một bà mẹ cai
quản, từ đó sinh ra Mẫu Thượng Thiên, Mẫu
Địa, Mẫu Thoải/nước và Mẫu Thượng Ngàn/
rừng núi. Quan niệm mang tính vũ trụ luận
này trở thành cội nguồn cho sự sinh ra các
hình thức tín ngưỡng khác như tín ngưỡng
hướng cội, tín ngưỡng thờ lúa, tín ngưỡng thờ
nước, tín ngưỡng thờ đá, tín ngưỡng thờ cây,
tín ngưỡng thờ các nhân thần Tín ngưỡng
của người Việt mang bản sắc riêng, thể hiện
ở cung cách thực hành, ở các biểu tượng đại
diện hiện tồn trong không gian và thời gian
thực hiện nghi lễ. Điều này phụ thuộc vào hệ
tâm lý cộng đồng vốn được tích tụ, tôn tạo qua
nhiều thế hệ, gắn với một vận mệnh chung,
một xã hội với những điều kiện tự nhiên và lịch
sử nhất định để sinh tồn và phát triển.
Tuy nhiên, giữa những thành tựu khoa
học về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, hiện
dường như vẫn đã và đang lưu tồn một số “ẩn
số” khoa học gần như chưa được giới chuyên
ngành xem xét, nghiên cứu để đi đến những
“giải mã” hoặc những “đáp số” khả dĩ! Chẳng
hạn, tại sao phải đến giữa thế kỷ XV, dân
gian mới sáng tạo được hình tượng Mẫu Liễu
Hạnh giáng sinh lần đầu tiên trong lịch sử tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt (mà không
phải từ thời Lý, thời Trần trước đó)? Tại sao địa
chỉ giáng sinh lần đầu tiên (1434 -1473) của
Thánh Mẫu Liễu Hạnh lại chỉ hiện diện ở đất
Quảng Nạp, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh
Nam Định (chứ không phải ở một địa điểm
nào khác thuộc vùng Sơn Nam Hạ)?
Trong bài viết này, bằng những tư liệu văn
bản (dù còn hạn chế) đã được công bố cùng
nguồn tư liệu điền dã của cá nhân trong thời
gian gần đây, người viết bước đầu tiếp cận tìm
hiểu để đi đến đính chính hoặc nhận diện một
số vấn đề liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu
Tam phủ/Tứ phủ.
2. Sự xuất hiện của tín ngưỡng thờ Mẫu
Tam/Tứ phủ qua truyền thuyết và tư liệu
thành văn
Cho đến nay, trong khá nhiều công trình,
bài báo đã công bố, các nhà nghiên cứu cho
rằng loại hình sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu
hình thành ở Việt Nam từ giữa thế kỷ XVI. Trong
khi đó, những phát hiện về tư liệu văn hóa dân
gian liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ, Tứ phủ của người Việt (công bố từ năm
2009) vẫn chưa được quan tâm một cách thích
đáng (6, tr.195 - 208).
Trong những tư liệu ghi chép về tín
ngưỡng gắn với việc hầu đồng và múa hát
nghi lễ, có lẽ sách Thiền Uyển tập anh được coi
là xưa nhất, ghi về chuyện “đồng bóng” thời
Lý Thần Tông. Chuyện chép đại ý như sau:
Tăng thống Khánh Hỷ (1067 - 1142), người
huyện Hoài Đức, trụ trì chùa Chúc Thánh, khi
cùng theo Tịch (thày) đến cúng một nhà thí
chủ, trên đường đi, Khánh Hỷ hỏi: Cái gì là ý
chính Thiền tôn của các Tổ? Gặp lúc nghe nhà
dân đang đánh trống lên đồng, Tịch trả lời:
Ấy chẳng phải là thứ lời đồng bóng, đang triệu
thỉnh quỷ thần đó sao? Điều đó chứng tỏ hiện
tượng lên đồng, có trống phách đệm cho múa
hát đã có từ thời Lý (8, tr.133).
Tuy nhiên, theo truyền thuyết dân gian thì
thời điểm ra đời của Mẫu Liễu Hạnh lại muộn
hơn nhiều. Truyền thuyết dân gian có kể về sự
tích giáng sinh nhiều lần của Mẫu Liễu Hạnh.
Những câu chuyện này được lưu truyền ở
vùng Sơn Nam Hạ (Nam Định, Thái Bình) và lan
truyền khắp châu thổ Bắc Bộ từ nhiều thế kỷ
nay. Lần theo nội dung truyện kể, Thánh Mẫu
Liễu Hạnh giáng sinh lần thứ nhất vào ngày
mùng 6 tháng 3 năm 1434 (năm Thiệu Bình,
triều vua Lê Thái Tông), qua việc đầu thai làm
con gái trong gia đình họ Phạm ở thôn Quảng
Nạp, xã Trần Xá và hóa năm 1473, niên hiệu
Hồng Đức thứ tư. Câu chuyện giáng sinh và
chặng đời hiện trần lần thứ nhất của Thánh
Mẫu Liễu Hạnh đã được ghi lại trong một số tư
7Số 22 - Tháng 12 - 2017
TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
liệu thành văn và chạm khắc vào bi ký ở các địa
điểm phụng thờ. Với văn học thành văn, tập
sách Truyền kỳ tân phả của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn
Thị Điểm (1705 - 1748) được coi là những ghi
chép sớm nhất (còn lưu lại) và nội dung (thể
hiện trong phần Vân Cát thần nữ liệt truyện)
tương đối trùng hợp với truyền thuyết dân
gian về Thánh Mẫu Liễu Hạnh mà đời sau biết
được. Sau đó gần 2 thế kỷ, Tiến sĩ Tế tửu Quốc
tử giám Khiếu Năng Tĩnh (1833 -1915) căn cứ
vào sự tích giáng sinh Mẫu Liễu ở Quảng Nạp
để bổ sung cho tập Quảng Cung linh từ phả ký
do Tiến sĩ Vũ Huy Trác khởi thảo vào thời vua Lê
Cảnh Hưng và soạn ra Quảng Cung linh từ phả ký
(mới) vào năm Thành Thái (Quý Mão, 1903). Sau
đó chục năm, tập sách Cát Thiên tam thế thực
lục (bản khắc gỗ) ra đời do Tổng đốc Nam Định
Đoàn Triển cùng một số nho sinh soạn năm Duy
Tân thất niên (1913). Hầu như các tư liệu thành
văn này đều gặp nhau ở nội dung ghi lại các
điều đã được dân gian truyền kể về lần giáng
sinh đầu tiên của Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại Trần
Xá (Yên Đồng, Ý Yên, Nam Định) (6).
Từ đây, nảy sinh một vấn đề: Tại sao đến
thế kỷ XV lại sinh thành tín ngưỡng thờ Mẫu
Tam phủ, khởi từ thời điểm Mẫu Liễu Hạnh
hóa Thánh (1473)? Một câu hỏi tiếp theo đặt
ra là, những hình thức sinh hoạt tín ngưỡng
thờ Mẫu Tam phủ, trong đó có thực hành hầu
đồng với các lớp lang (từ dạng phôi thai đi
đến hoàn thiện dần, chắc hẳn chưa thể giống
như đang hiện diện trong xã hội đương đại)
thể hiện qua hệ thống các giá hầu (hàng Mẫu,
hàng Quan, hàng các ông Hoàng và hàng Cô,
hàng Cậu) đã nảy sinh và hiện tồn từ thời
điểm này hay chưa? Nhìn vào lịch sử giao lưu,
tiếp biến văn hóa, chúng ta sẽ khả dĩ giải đáp
được vấn đề này.
3. Sự hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam/Tứ
phủ qua lịch sử giao lưu, tiếp biến văn hóa
Chúng ta đã có đủ dữ liệu khoa học để
nhận biết rằng, vào những thế kỷ đầu Công
nguyên, khi Phật giáo và Đạo giáo truyền bá
đến Việt Nam, các hình thức sinh hoạt dân
ca, dân vũ gắn với tín ngưỡng dân gian Việt -
Mường (vốn đã được hình thành từ thời Hùng
Vương) vẫn tiếp tục sáng tạo, bồi đắp và phát
triển. Những hình thức này, một mặt, được các
thành tố văn hóa của Phật giáo và Đạo giáo
hút vào để tiếp biến và nương tựa; mặt khác,
chính các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng bản
địa trong quá trình lan truyền, thực hành trong
dân gian, lại “tự nguyện” hội nhập, tiếp nhận
một cách chủ động nhiều yếu tố văn hóa từ
Phật giáo và Đạo giáo thần tiên. Sự tương tác
đó được nâng lên thành xung lực hai chiều, tạo
ra chặng tiếp biến văn hóa đặc biệt trong sinh
hoạt nghi lễ Việt nói riêng và văn hóa trong
cộng đồng quốc gia đa dân tộc nói chung.
Cũng nhờ chặng đường tiếp biến văn hóa
tự nguyện này, tín ngưỡng bản địa đã hút nhập
(trên những bình diện, mức độ và cấp độ khác
nhau) các hình thức thực hành nghi lễ của Phật
giáo (hướng theo lớp lang các chủ điện thờ)
với mục đích thiêng hóa để củng cố, bồi đắp
cho tín ngưỡng thờ nữ thần, mà đại diện là
Man Nương cùng với sự cắm chốt song hành
của những Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp
Điện. Và, tương sinh vào đó là sự thâm nhập
nhanh chóng của Đạo giáo phù thủy/thần tiên
với tín ngưỡng ma thuật cổ truyền, góp phần
tạo ra nhiều sự thay đổi/biến hóa về mặt hình
thức thực hành của các tín ngưỡng bản địa.
Điều đó thực sự thể hiện rõ nét khi tín ngưỡng
bản địa Việt hình thành nên tục thờ Mẫu và
hoàn thiện dần thành một kiểu Đạo Mẫu bản
địa mà đi kèm là những hình thức hoạt động
nhảy múa, nhập hồn, bùa chú, chứa nhiều
hành vi phù thủy được tiếp biến từ Đạo giáo/
Đạo thần tiên sau này (3) (4).
Xuất phát từ quá trình tiếp biến văn hóa
nhiều thế kỷ đó, tín ngưỡng dân gian phụng
thờ các Mẫu bản địa (Tam phủ) đã dần mở
rộng thành việc phụng thờ các vị thần linh
Số 22 - Tháng 12 - 20178
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
đạo Tứ phủ (các Mẫu cùng các vị Thánh hàng
quan, các Ông Hoàng, các vị chầu Bà, Cô, Cậu),
thông qua sự hiện diện thực hành của các Ông
đồng, Bà đồng trong môi trường hoạt động
tín ngưỡng mang tính diễn xướng linh thiêng,
huyền bí.
Từ thời Lý Thánh Tông và Lý Cao Tông (được
ghi trong Khâm định Việt sử chính biên), quan
hệ qua lại về văn hóa nói chung và múa hát
nghi lễ nói riêng giữa người Việt với người
Chăm đã hình thành. Nhiều công trình nghiên
cứu sau này đã chỉ rõ những tương đồng (kết
quả sự giao lưu) về âm nhạc, vũ điệu, dân ca
của hai dân tộc Việt - Chăm, trong đó, cụ thể là
những âm điệu Chăm chứa trong Quan họ Bắc
Ninh và sự giống nhau về nhạc cụ, điệu múa,
lời ca trong quá trình hầu bóng của người Việt
(từ đồng bằng Bắc Bộ đến miền Trung và miền
Nam), đặc biệt là từ thời Nguyễn trở đi. Dương
Quảng Hàm, trong sách Việt Nam văn học sử
yếu, khi chép về nguồn gốc các lối ca Huế,
đã nêu rõ: “Năm 1044 (Thiên cảm Thành vũ
nguyên niên), vua Lý Thái Tông đi đánh Chiêm
Thành () rồi vào thành Phật Thệ (nay ở xã
Nguyệt Biều, huyện Hương Thủy, Tỉnh Thừa
Thiên Huế), bắt vợ, thiếp cùng cung nữ của vua
Chiêm biết múa hát khúc Tây Thiên về. Khi về,
ngài sai làm cung riêng cho các cung nữ ấy ở
(2). Sách Đại Việt sử lược, bộ sử vào loại cổ xưa
nhất còn lại, cho biết: “Mùa đông, tháng Mười,
vua đi chơi ở hành cung Hải Thanh. Ở đây
đêm nào cũng sai nhạc công gảy đàn Bà Lỗ,
xướng điệu hát phỏng theo nhạc khúc Chiêm
Thành” (5, tr.86). Đối chiếu, so sánh các bài
múa hát nghi lễ của người Chăm với các bài
hát văn và nhạc cụ sử dụng đi kèm trong nghi
lễ thờ Tam/Tứ phủ, các nhà nghiên cứu đã phát
hiện nhiều sự tương đồng, sinh ra do quá trình
tiếp biến trong âm nhạc giữa hai dân tộc. Thực
tế đó cho thấy, quá trình tiếp biến văn hóa đã
góp phần dần hoàn thiện hình thức hát văn/
hát hầu đồng của người Việt, có thể là ngay từ
thế kỷ XV (ứng với sự xuất hiện/giáng sinh rồi
hóa Thánh của Mẫu Liễu Hạnh tại phủ Nấp) và
được “bồi đắp” vào các thế kỷ sau này, đặc biệt
là từ thời Nguyễn.
Trên con đường vận hành, tiếp biến văn
hóa theo tiến trình lịch sử phát triển dân tộc,
hát văn gắn với tục thờ mẫu, lên đồng ở châu
thổ Bắc Bộ đã: một mặt, hút thêm những nét
văn hóa - nghệ thuật phù hợp để ngày một
hoàn thiện nhu cầu thực hành hát văn trong
đời sống tâm linh Việt (đặc biệt hướng tới sự
hoàn thiện hệ thống biểu tượng nhân vật
được huyền thoại hóa/thiêng hóa từ các nhân
vật lịch sử đích thực mà đại diện tiêu biểu nhất
là Đức Thánh Trần); mặt khác, nó thể hiện rõ
rệt vai trò chủ đạo, ảnh hưởng đến các hình
thức múa bóng, hát văn trong tục thờ Mẫu
ở miền Trung và miền Nam; bên cạnh đó, nó
còn tiếp biến, ảnh hưởng (qua lại) với hát múa
bóng trong tục thờ Mẹ xứ sở của người Chăm
từ các tỉnh nam Trung Bộ đến miền Đông và
Tây Nam Bộ qua hàng trăm năm. Vấn đề này đã
được hàng chục tiểu luận đề cập tại các cuộc
hội thảo khoa học quốc tế về Đạo Mẫu ở trong
và ngoài nước1.
Cũng lại nhìn vào tiến trình lịch sử văn
hóa dân tộc, cho đến thế kỷ XV, hàng loạt các
thương thuyền phương Tây mang theo các
giáo sĩ đã cập bến Việt Nam qua đường biển,
tiếp cận các cửa sông lớn để đổ bộ lên đất
liền ở nhiều nơi, tập trung vào các vị trí “đắc
địa” thuộc phía nam Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ,
với ý đồ truyền bá và xây dựng các tụ điểm
Thiên Chúa giáo. Các giáo sĩ đã từng bước cắm
chốt, xây dựng nhà thờ, giáo đường và lan tỏa
thuyết pháp Thiên Chúa giáo từ các địa phận
của Nghĩa Hưng, Hải Hậu (Nam Định), Kim Sơn
(Ninh Bình), Nga Sơn (Thanh Hóa) vào các thế
kỷ tiếp theo. Cạnh đó, còn một thực tế lịch sử
nữa cũng cần được soi tỏ. Đó là, từ thời điểm
giáng sinh lần thứ nhất của Thánh Mẫu Liễu
Hạnh trở về trước, trong đời sống sinh hoạt
9Số 22 - Tháng 12 - 2017
TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
văn hóa tín ngưỡng tâm linh của người Việt,
chủ yếu mới có tục thờ Nữ thần chứ chưa có
tục thờ Mẫu thần để rồi phát triển lên thành
hình hài của tôn giáo Đạo Mẫu sau đó. Ngay
tại chùa Đồi - gần phủ Nấp, trước khi có hiện
tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện, người
dân trong vùng đã hàng trăm năm phụng thờ
Man Nương và Bố Cái Đại Vương. Trong khi
đó, ngay từ thế kỷ X, người Trung Hoa đã có
tín ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, một vị
thần biển (theo truyền thuyết) có nhiều công
lao giúp đỡ ngư dân, thương gia bôn ba hải
ngoại làm ăn, buôn bán. Và, cho đến cuối thế
kỷ XIV, ngay từ khi nước Đại Việt độc lập tự chủ
đang tìm cách hướng biển để tìm đường giao
lưu kinh tế, thì nhiều thương gia Trung Hoa
đã dùng tàu/thuyền vượt biển sang Việt Nam
buôn bán, cập bến đông đảo từ rất sớm vào
các cửa biển Hội An, Khánh Hội, và đã xây
dựng không ít nơi thờ tự Thánh Mẫu Thiên Hậu
và Tứ vị Thánh nương trên một số vùng đất
ven biển miền Trung Việt Nam. Như vậy, có thể
giả định rằng, cùng với quá trình bản địa hóa
tín ngưỡng ngoại lai để hình thành nên sinh
hoạt tín ngưỡng phụng thờ Thiên Hậu và Tứ vị
Thánh nương cực kỳ phổ biến ở các làng ven
biển từ Trung Bộ đến Nam Bộ (9), việc lựa chọn
địa danh Vỉ Nhuế/thôn Quảng Nạp để “cắm
chốt” như một thứ “phòng tuyến văn hóa” ven
biển, cận kề cửa Đại Nha (dân gian gọi là cửa
Đại Ác, đời Lý đổi tên thành Đại An, nay là cửa
Liêu), nơi sông Đáy đổ ra biển, tạo dựng nên
một biểu tượng Mẫu “đứng ra” thống lĩnh -
thiết lập - cai quản - bảo vệ vành đai văn hóa
bản địa của người Việt để đối trọng, ngăn chặn
sự xâm lấn của làn sóng Mẫu văn hóa ngoại lai,
chắc là lý do thực tiễn có sức thuyết phục!
4. Kết luận
Như vậy là, tín ngưỡng Tam/Tứ phủ trên
chặng đường phôi thai ban đầu (giữa thế kỷ
XV) ở vùng Sơn Nam Hạ “chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ của Đạo giáo Trung Quốc - vốn đã du nhập,
bám rễ vào đất Việt từ hàng trăm năm trước.
Do vậy hệ thống thần linh đã định hình; các
đền miếu, việc thờ cúng, các quy tắc lễ nghi đã
dần quy củ. Cũng tại đây, hình thức Đạo Mẫu
và lên đồng đã sớm cung đình hóa, quy chế
hóa, thể hiện qua việc tổ chức các cuộc thi hát
cung văn, có nhiều danh sĩ tham gia đặt các
bài văn chầu bằng chữ Hán hay chữ Nôm”(8,
tr.133). Nhờ đó, tín ngưỡng Tam/Tứ phủ mới
đủ sức trở thành thứ “phòng tuyến văn hóa”,
chặn sức lan tỏa của các hình thức tôn giáo tín
ngưỡng ngoại lai tràn vào Đại Việt. Mặt khác,
sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu, từ sau khi Mẫu
Liễu Hạnh hóa lần thứ nhất (1473), đã trải qua
nhiều chục năm luôn nằm trong sự “va đập”
với các tôn giáo tín ngưỡng hiện tồn trước đó,
vượt qua những xung khắc với thứ thiết chế
triều chính đậm chất Nho giáo, tích hợp các
tín ngưỡng địa phương cùng văn hóa các tộc
người khác trong cộng đồng dân tộc để đi đến
định hình một khuôn dạng văn hóa bản địa khả
dĩ đủ sức tồn tại trước sức ép của tư tưởng Nho
gia và sức mạnh vốn đã bén sâu của lễ nghi
và tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo. Truyền ngôn
về trận chiến Sòng Sơn (cuộc chiến giữa Thánh
mẫu Liễu Hạnh với Nội Đạo tràng) như một ví
dụ điển hình cho sự “vùng vẫy” thoát thai để đi
đến những phản kháng hoặc dung hòa về tư
tưởng và văn hóa trong quá trình tồn tại của
tín ngưỡng thờ Mẫu cũng như hình thức Đạo
Mẫu buổi sơ khai. Nhìn tổng thể, “thực chất đó
là cuộc đấu tranh giữa tín ngưỡng thờ mẫu
bản địa chống lại sự thâm nhập của tôn giáo
ngoại lai mang đầy tính phù thủy, chống lại
những tư tưởng cuối thời Nho giáo, đòi quyền
sống của con người, nhất là của phụ nữ bị áp
bức và coi khinh” (7, tr.496).
Chính vì thế, có thể nhận thức rằng, ngay từ
nửa cuối thế kỷ XV trở đi, sinh hoạt tín ngưỡng
thờ Mẫu, mà đặc trưng nghi lễ là hình thức lên
đồng đã dần dần hình thành nên một không
gian điện thần Mẫu Tam/Tứ phủ, trong đó xác
Số 22 - Tháng 12 - 201710
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
lập, định vị, châu tuần cho một hệ thống thần
điện, từ Thánh Mẫu đến hàng Quan, hàng
Chầu, hàng các ông Hoàng và hàng các Cô, Cậu
với thành phần “xuất thân” đa dạng, có gốc gác
từ nhiều dân tộc khác nhau như Mường, Tày,
Nùng, Dao, H’Mông, Chăm,
B.Q.T
(PGS.TS., Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia
Việt Nam)
Chú thích
1 Chỉ tính từ đầu thế kỷ XXI trở lại đây, đã có
các cuộc hội thảo khoa học quốc tế sau: Đạo Mẫu
và các hình thức Shaman ở Việt Nam và châu Á (tổ
chức năm 2001 tại Hà Nội); Việt Nam trong thế kỷ
XXI - Những cuộc hành trình trong đời sống thực và
trong tâm tưởng (tổ chức năm 2003 tại Bảo tàng
Lịch sử tự nhiên Hoa Kỳ, New York); Đạo Mẫu và
lên đồng ở Việt Nam thời hiện tại (tổ chức năm
2004 tại Đại học California); Nghiên cứu thực hành
tín ngưỡng trong xã hội đương đại (trường hợp tín
ngưỡng thờ Mẫu) (tổ chức tháng 1/2015 tại Nam
Định, Việt Nam),
Tài liệu tham khảo
1. Trần Thị An (2008), Tìm hiểu sự hình thành
truyền thuyết Tứ vị thánh nương (qua các nguồn
thư tịch, truyền thuyết dân gian và tục thờ cúng), in
trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam
học lần thứ 3.
2. Thành Phú Chung (2011), Yếu tố Chăm trong
vùng văn hóa Trung bộ Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ
lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM.
3. Trần Anh Đào (2007), Sơ lược về nghiên cứu
Đạo giáo ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,
số 10-2007.
4. Nguyễn Duy Hinh (2005), Văn minh Đại Việt,
Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
5. Khuyết danh (1993), Đại Việt sử lược (Thế kỷ
thứ XIV), bản dịch của Nguyễn Gia Tường, lời giới
thiệu của Trần Ngọc Thêm, Nxb. Tp.HCM, 1993.
6. Bùi Quang Thanh (2010), Nhận diện địa chỉ
giáng sinh lần thứ nhất của Thánh mẫu Liễu Hạnh,
in trong: Phủ Quảng Cung trong hệ thống đạo
Mẫu Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
7. Bùi Quang Thanh (2016), Từ bước đường
hình thành đến sự va đập/xung đột giữa tín ngưỡng
thờ Mẫu với Nội Đạo Tràng, in trong Kỷ yếu Hội
thảo khoa học quốc tế: Nghiên cứu thực hành tín
ngưỡng trong xã hội đương đại - Trường