Sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964: Nguồn gốc và tác động

TÓM TẮT Ngày 4-8-1964, Mĩ đã dựng lên cái gọi là “Sự kiện Vịnh Bắc bộ” để leo thang, mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ra miền Bắc Việt Nam. Mặc dù đây là “sự lừa dối” của chính quyền Lyndon B.Johnson nhưng sự kiện này trở thành duyên cớ để Mĩ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam lần thứ nhất và chuyển sang chiến lược Chiến tranh cục bộ ở miền Nam Việt Nam. Sự kiện này cũng mở đầu cho quá trình “sa lầy” của Mĩ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Theo thời gian, nhiều tư liệu liên quan đã được công khai và sự thật xoay quanh sự kiện này cũng dần được bộc lộ. Bài viết nhằm góp phần làm rõ nguồn gốc và tác động của sự kiện này sau 55 năm đã diễn ra.

pdf10 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 821 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964: Nguồn gốc và tác động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 67 (01/2020) No. 67 (01/2020) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: 12 SỰ KIỆN VỊNH BẮC BỘ NĂM 1964: NGUỒN GỐC VÀ TÁC ĐỘNG The Gulf of Tonkin Incident in 1964: Origin and impacts TS. Lê Tùng Lâm Trường Đại học Sài Gòn TÓM TẮT Ngày 4-8-1964, Mĩ đã dựng lên cái gọi là “Sự kiện Vịnh Bắc bộ” để leo thang, mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ra miền Bắc Việt Nam. Mặc dù đây là “sự lừa dối” của chính quyền Lyndon B.Johnson nhưng sự kiện này trở thành duyên cớ để Mĩ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam lần thứ nhất và chuyển sang chiến lược Chiến tranh cục bộ ở miền Nam Việt Nam. Sự kiện này cũng mở đầu cho quá trình “sa lầy” của Mĩ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Theo thời gian, nhiều tư liệu liên quan đã được công khai và sự thật xoay quanh sự kiện này cũng dần được bộc lộ. Bài viết nhằm góp phần làm rõ nguồn gốc và tác động của sự kiện này sau 55 năm đã diễn ra. Từ khóa: Chiến tranh cục bộ, Chiến tranh Việt Nam, Mĩ, Vịnh Bắc Bộ ABSTRACT On August 4, 1964, the US erected the so-called "Gulf of Tonkin Incident" to escalate and expand the aggression war into North Vietnam. Although it was a "deceit" by the Lyndon B. Johnson administration, this event became an excuse for the US to wage the first North Vietnam destruction war and move to the Local War Strategy in South Vietnam. It also opened the US "bogs" process during the Vietnam War. Over time, many documents related to "The Gulf of Tonkin" have been made public and the truth surrounding this incident has gradually been revealed. The article aims to clarify the origin and impacts of this event after 55 years it took place. Keywords: Local War, Vietnam War, US, The Gulf of Tonkin Đặt vấn đề Ngày 2-8-1964, Hải quân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) đụng độ với tàu khu trục Maddox trong Vịnh Bắc bộ. Chính quyền Mĩ không có phản ứng gì về sự kiện này. Tuy nhiên, đêm ngày 4-8- 1964, Mĩ dựng lên “Sự kiện Vịnh Bắc bộ” khi cho rằng hai tàu khu trục của Mĩ bị Hải quân VNDCCH “tấn công” trong hoàn cảnh trời tối hơn đêm 30. Ngày 5-8-1964, lấy cớ “trả đũa” cho sự kiện Vịnh Bắc bộ, Không quân và Hải quân Mĩ đã tiến hành cuộc ném bom, bắn phá nhiều mục tiêu kinh tế, quân sự ở miền Bắc Việt Nam, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam lần thứ nhất. Đầu năm 1965, Mĩ tiến hành “cuộc chiến tranh kép” (Double War) ở cả hai miền Nam – Bắc Việt Nam. Có thể nói, sự kiện Vịnh Bắc bộ đã tác động trực tiếp đến quyết sách của Washington đối với Việt Nam. Vậy nguồn gốc của sự kiện này là gì và tác động của nó như thế nào đến chính sách của Mĩ? Email: letunglam@sgu.edu.vn LÊ TÙNG LÂM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 13 1. Nguồn gốc sự kiện Vịnh Bắc bộ (4-8-1964) và sự lừa dối của Chính quyền Johnson Ở Việt Nam, sự kiện Vịnh Bắc Bộ được xem là do Mĩ dựng lên ngày 4 và ngày 5-8-1964 để có cớ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam lần thứ nhất. Đối với giới cầm quyền Mĩ, bất kì một sự kiện nào cũng được chuẩn bị từ rất lâu. Ở đây, chúng tôi sẽ tìm hiểu quá trình chính phủ Mĩ chuẩn bị (nguồn gốc) cho sự kiện này. Trong giáo trình hay sách giáo khoa Lịch sử (dùng cho học sinh) thường đề cập quá trình Mĩ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam là từ cuối năm 1964 đến đầu năm 1965. Tuy nhiên, sự thật từ những năm 60, Mỹ đã bí mật tiến hành những cuộc tấn công lén lút vào miền Bắc Việt Nam. Từ đầu, người Mĩ đã nhận thấy được mối liên hệ mật thiết giữa VNDCCH với lực lượng Quân giải phóng miền Nam (LLQGPMN) Việt Nam. Vì thế, chính quyền Mĩ đã tiến hành nhiều hoạt động bí mật nhằm kiểm soát và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho Quân giải phóng miền Nam. Theo các tài liệu mật của Mĩ đã được giải mật, từ tháng 2-1961, toán lính biệt kích đầu tiên (do CIA huấn luyện) mang mật danh Ares đã mang theo máy truyền tin và xâm nhập vào miền Bắc Việt Nam một cách “an toàn”. Sự kiện này mở đầu quá trình tiến hành chiến tranh lén lút của Mĩ tại miền Bắc Việt Nam. Từ năm 1962, “CIA bàn giao việc tổ chức các hoạt động thâm nhập ở Đông Nam Á lại cho quân đội Mĩ triển khai trong vòng 18 tháng” (Vũ Đình Hiếu, 2011, tr.9). Từ tháng 2-1961 đến tháng 10-1967 đã có 52 toán biệt kích được tung vào các vùng Tây Bắc, Đông Bắc cho đến Nghệ Tĩnh, biển Quảng Bình và cả Khe Sanh, Hạ Lào để đột kích miền Bắc Việt Nam. Kết quả, khoảng 500 lính biệt kích bị mất tích (chết, lạc trong rừng sâu do xác định sai toạ độ, hoặc bị bắt) (Vũ Đình Hiếu, 2011, tr.66). Nhiệm vụ của những toán biệt kích là xâm nhập bí mật vào miền Bắc Việt Nam để thu thập thông tin tình báo và gây rối trong nhân dân. Đồng thời, Bộ trưởng Ngoại giao McNamara cũng xác nhận: “các kế hoạch hoạt động bí mật ở Bắc Việt Nam đã được chuẩn bị tốt. Các kế hoạch này đã đề ra rất nhiều hoạt động phá hoại và hoạt động tâm lý chống lại miền Bắc Việt Nam” (Neil Sheehan, H.Smith, E.W.Kenworthy, and F.Butterfield, 1971, tr.273). Không những thế, Mĩ còn thực hiện nhiều kế hoạch xâm nhập vào miền Bắc Việt Nam như: Ngày 15-12-1963, Kế hoạch Tác chiến 34A (OPLAN 34A) được Tổng thống Johnson phê chuẩn ngày 24-1-1964. Ngày 1-2-1964, Kế hoạch Tác chiến 34A được triển khai. Hoạt động của Nhóm tác chiến đặc biệt (SOG) được chia làm 4 nhóm: nhóm biệt kích dù (vận chuyển bằng đường không); nhóm yểm trợ đường không; nhóm biệt hải (vận chuyển bằng đường biển) và nhóm tâm lý chiến (Sedgwick Tourison, 2004, tr.214). Trên lý thuyết, SOG sử dụng chiến thuật chiến tranh không quy ước để vừa quấy rối, làm suy yếu nền kinh tế miền Bắc Việt Nam, vừa tổ chức xâm nhập, bắt cóc con tin khai thác tin tức, phá hoại, tuyên truyền, thu thập tin tức tình báo và phản gián. Trong Bị vong lục gửi Tổng thống Johnson ngày 7-1-1964, McBundy đã nêu lên một Kế hoạch cho các hoạt động bí mật nhằm “Tăng cường các hoạt động phá hoại ở miền Bắc Việt Nam bằng lực lượng SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 67 (01/2020) 14 của Việt Nam Cộng hòa (VNCH)” (John P.Glennon (General Editor), 1992, tr.4). Rõ ràng, từ đầu những năm 1960, Mĩ và Chính quyền Sài Gòn (CQSG) đã lén lút tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại tiềm lực kinh tế, gây rối xã hội ở miền Bắc Việt Nam. Mục tiêu của Mĩ cùng CQSG là làm giảm nhuệ khí của quân và dân miền Bắc Việt Nam. Không những thế, các Kế hoạch tấn công bí mật trên biển (DESOTO) được Mĩ thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban cố vấn Hải quân Mĩ (AND). Mục tiêu chính của DESOTO là “xác định tất cả radar ven biển, giám sát con đường viện trợ, xâm nhập của VNDCCH cho Việt cộng ở miền Nam”(The Truth Abouth Tonkin) dọc theo bờ biển Bắc bộ. Theo kế hoạch DESOTO, Mĩ dùng tàu hải quân tuần tra ở Vịnh Bắc bộ nhằm thu thập thông tin về hệ thống radar của miền Bắc Việt Nam, thu thập thông tin của tình báo quân đội, và tiến hành một cuộc "biểu dương lực lượng" (Sanford Wexler, 1990, tr.82). Như vậy, âm mưu tấn công ra miền Bắc Việt Nam nhằm phá hoại từ bên trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và ngăn chặn sự chi viện về mọi mặt của VNDCCH cho LLQGPMN Việt Nam đã được tiến hành từ rất sớm. Hàng trăm toán biệt kích, những hoạt động Biệt Hải (OPLAN 34A), tâm lý chiến, tuần tra DESOTO được Mĩ và CQSG lén lút thực hiện nhằm chống lại cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam và bảo vệ cho CQSG. Tuy nhiên, kết quả mong đợi của người Mĩ đã không thành hiện thực. Cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam giành nhiều thắng lợi quan trọng từ Phong trào Đồng Khởi (đầu năm 1960) đến chiến thắng Ấp Bắc (tháng 1-1963) cùng nhiều thắng lợi khác trên mặt trận chống, phá Ấp Chiến lược. Thực tế này đặt Chính quyền Sài Gòn trước nguy cơ thất bại. Tháng 8- 1961, Theodore H.White cho rằng “tình hình (Nam Việt Nam - ND) xấu đi hầu như mỗi tuần. Du kích giờ đây kiểm soát toàn bộ vùng đồng bằng phía Nam, đến nỗi tôi không tìm thấy một người Mĩ nào muốn dùng xe chở tôi ra ngoài phạm vi Sài Gòn (cho dù vào ban ngày) mà không có sự hộ tống của quân đội” (Lê Phụng Hoàng, 2008, tr.219). Thậm chí, Mc Namara còn bi quan khi cho rằng, “khả năng nắm giữ quyền lực của Khánh (1) chỉ là 50/50, CQSG mang nhiều triệu chứng của chủ nghĩa thất bại (Defeatism)” (Mc Namara, 1995, tr.157). Quân đội Sài Gòn đào ngũ với số lượng lớn và không ngừng tăng lên. Trong khi đó, LLQGPMN đang ngày càng lớn mạnh. Trong số đất của 22/43 tỉnh ở Nam Việt Nam, Việt cộng kiểm soát đến 50% hoặc nhiều hơn thế, bao gồm 80% ở Phước Tuy, 90% ở Bình Dương, 75% ở Hậu Nghĩa, 90% ở Long An (John P.Glennon (General Editor), 1992, tr.155). Như vậy, những hoạt động lén lút đã không mang lại kết quả nào đáng kể. Ngược lại, hầu như những lực lượng xâm nhập vào miền Bắc Việt Nam đều bị bắt, bị xử tội và gây ra thiệt hại nặng nề cho Mĩ và CQSG. Trước tình hình này, giới quân sự Mĩ mong muốn Tổng thống Lyndon B.Johson phải có những chính sách quyết liệt hơn đối với VNDCCH. Họ muốn Tổng thống cho mở cuộc tấn công công khai ra miền Bắc Việt Nam. Ngày 16-3-1964, McNamara - Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ đã gửi cho Tổng thống Johnson một báo cáo và nêu rõ Mĩ cần phải “chuẩn bị ngay lập tức để có được tư thế khi được báo cáo trước 72 giờ là có thể tiến hành toàn bộ các “hoạt động kiểm LÊ TÙNG LÂM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 15 soát biên giới” (Border Control Actions) với Lào và Campuchia, các “hoạt động trả đũa” (Retaliatory Actions) chống miền Bắc Việt Nam và chuẩn bị tư thế khi được báo trước 30 ngày là có thể tiến hành chương trình “gây sức ép” quân sự công khai từng bước chống miền Bắc Việt Nam” (Neil Sheehan, etc..1971; John P.Glennon (General Editor), 1992, tr.167). Ngay hôm sau, ngày 17-3-1964, trong Bị vong lục Hành động An ninh Quốc gia (NSAM) 288, Mĩ muốn cho VNDCCH biết “họ phải trả giá đắt nếu tiếp tục can thiệp vào miền Nam Việt Nam” (George Herring, 1996, tr.131). Bên cạnh đó, các quan chức dân sự cũng cho rằng “một nước nhỏ bé như Việt Nam, với một nền công nghiệp nhỏ xíu vừa ra khỏi chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, sẽ không muốn hi sinh sức sống của nền kinh tế non trẻ để hỗ trợ cuộc nổi dậy ở miền Nam” (Earl H. Tilford, 1991, tr.92). Như vậy, chúng ta nhận thấy hầu như cả giới quân sự, dân sự của Mĩ đều muốn mở rộng việc tiến hành ném bom miền Bắc Việt Nam để góp phần quan trọng làm suy giảm sự chi viện của VNDCCH cho LLQGPMN. Vấn đề chính bấy giờ là Mĩ phải tạo ra một cái cớ để phá hoại miền Bắc Việt Nam. Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mĩ đề nghị Tổng thống Johnson nên có “một chiến dịch khiêu khích Bắc Việt Nam” (Mai Thắng, 2011) để có thể công khai tấn công vào VNDCCH. Từ tháng 7-1964, Mĩ phái các tàu chiến đến Vịnh Bắc Bộ để “tuần tra”. Ngày 1 và ngày 2-8-1964, Tàu khu trục hạm Maddox 731 tiến qua khu vực Đèo Nga, Hòn Ngư và tiến vào vùng biển thuộc hải phận của VNDCCH, lực lượng Hải quân VNDCCH gồm các đội tàu phóng lôi đã trực tiếp tiến ra nghênh chiến khi USS Maddox tiến đến vùng biển Thanh Hóa. Sau đó, đụng độ đã diễn ra, kết quả mà hai bên đều xác nhận, có một chiếc ca nô tuần duyên của Việt Nam đã bị loại khỏi vòng chiến, còn khu trục hạm Mỹ thì chẳng hề xây xước thiệt hại gì, chính phủ Mỹ quyết định không phản ứng về vụ việc này. Thế nhưng, ngày 4 và 5-8-1964, Mĩ đã dựng lên “một cuộc tấn công giả tạo” trong Vịnh Bắc bộ khi cho rằng hai tàu khu trục Maddox và Turner Joy đang hoạt động trên vùng biển cách bờ biển miền Bắc Việt Nam 100km thì bất ngờ bị tấn công trong hoàn cảnh trời “tối hơn đêm 30” và những chứng cứ về một cuộc tiến công vẫn chưa đủ chính xác. John J. Herrick - Thuyền trưởng tàu Maddox cho rằng, trong hoàn cảnh “sấm sét và mưa gió giật làm giảm tầm nhìn và tăng chiều cao những con sóng đến 6 feets thì hoạt động tầm xa để tìm kiếm trên không của radar tàu Maddox và cả radar kiểm soát hỏa lực của tàu Turner Joy đều không hoạt động” (The Truth Abouth Tonkin). James B.Stockdale - phi công trên máy bay Ticonderoga đang bay trên tàu Maddox (năm 1964) ở độ cao dưới 2.000 feets cũng tuyên bố rằng “tôi đã có chỗ ngồi tốt nhất trong buồng lái để quan sát sự kiện và tàu khu trục của chúng tôi chỉ bắn vào các mục tiêu ảo Không có gì ở đó ngoài nước đen và hỏa lực Mĩ” (The Truth Abouth Tonkin). Thậm chí, John J.Herrick cũng thấy “nghi ngờ về tin tức đã báo cáo về các vụ nổ ngư lôi. Thực tế, tàu Maddox không nhìn thấy gì” (Peter A. Poole, 1986, tr.160; Nguyễn Phương Nam, 2010, tr.175). Cuối cùng, J.Herrick và B.Stockdale đã kết luận “không có nghi ngờ gì về những gì đã xảy ra, chúng tôi đã về để khởi động một cuộc chiến tranh giả SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 67 (01/2020) 16 tạo” (The Truth Abouth Tonkin). Tháng 12-1967, Ủy ban đối ngoại của Thượng viện Mĩ đã kết luận rằng “sự kiện Vịnh Bắc bộ do phía Mĩ bày đặt ra thì đúng hơn” (Anatoly Dobrynin, 2001, tr.210). Như vậy, những người trong cuộc và Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mĩ đều phủ nhận cái gọi là “cuộc tấn công” của VNDCCH vào hai tàu Maddox và Turner Joy của Mĩ trong Vịnh Bắc Bộ (ngày 4 và 5-8-1964). Thậm chí, McNamara khi được hỏi về sự kiện này thì ông ta cũng hoài nghi về khả năng xảy ra của nó. Đây là một cái cớ để Mĩ công khai ném bom phá hoại miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, sự kiện Vịnh Bắc Bộ vẫn được giới cầm quyền và Quốc hội Mĩ xem là “sự thật” và họ đã sẵn sàng cho một cuộc ném bom trả đũa miền Bắc Việt Nam. 2. Tác động của sự kiện Vịnh Bắc bộ tháng 8-1964 Từ đầu năm 1964, giới chức Mĩ đã đặt vấn đề phải mở rộng cuộc chiến tranh ra miền Bắc Việt Nam. Ngày 22-1-1964, Tham mưu trưởng liên quân (TMTLQ) quả quyết rằng “để giành thắng lợi, Mĩ phải sẵn sàng gạt sang một bên những áp đặt đang hạn chế cố gắng của chúng ta, và phải có những hành động táo bạo hơn dù có thể có những rủi ro lớn hơn” (Neil Sheehan,etc, 1971, tr.274). Hành động táo bạo hơn mà giới cầm quyền Mĩ muốn là phải tăng cường lực lượng quân sự Mĩ tại miền Nam Việt Nam và ném bom phá hoại miền Bắc, từng bước leo thang và mở rộng cuộc chiến tranh Việt Nam. Do đó, lấy cớ sự kiện Vịnh Bắc Bộ, Tổng thống Johnson và các cố vấn đều nhất trí rằng Mĩ phải nhanh chóng quyết định thực hiện “một trận ném bom trả đũa chớp nhoáng nhưng kiên quyết” nhằm vào các căn cứ của các tàu phóng ngư lôi của miền Bắc Việt Nam (Charles Fourniau, 2007, tr.122). Thậm chí, Johnson còn đỗ lỗi hoàn toàn cho VNDCCH khi tuyên bố “những hành động mới nhất của Bắc Việt đã đưa ra một sự thay đổi nghiêm trọng đối với tình hình ở Đông Nam Á và khẳng định rằng tất cả các cuộc tấn công như vậy sẽ được đáp trả” (The Tonkin Gulf Incident). Rõ ràng, chính quyền Johnson đã dàn dựng lên Sự kiện Vịnh Bắc Bộ để từ lấy lý do tấn công, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc Việt Nam. Ngày 5-8-1964, lấy cớ “trả đũa” cho sự kiện Vịnh Bắc bộ, Không quân và Hải quân Mĩ đã tiến hành các cuộc ném bom, bắn phá nhiều mục tiêu kinh tế, quân sự ở miền Bắc Việt Nam. Hành động này được xem là “sự trả đũa thận trọng" tức thì và hoàn toàn phù hợp với các yêu cầu chiến dịch của Tổng thống để tranh thủ các lá phiếu và sự ủng hộ của hai đảng cho hành động của Tổng thống Johnson (Daniel Ellsberg, 2006, tr.84). Từ trưa ngày 5-8- 1964, nhiều tốp máy bay Mĩ đã ném bom khu vực Cảng Gianh (Quảng Bình), Lạch Trường (Thanh Hóa), Cửa Hội (Nghệ An), Hòn Gai, Bãi Cháy (Quảng Ninh), vv. Sáng ngày 7-8-1964, Nghị quyết Vịnh Bắc bộ được Thượng nghị viện thông qua với 88 phiếu thuận và 02 phiếu chống. Hai Thượng Nghị sĩ Wayne Morse và Ernest W.Gruening (Đảng Dân chủ) bỏ phiếu chống lại; Hạ nghị viện đã nhất trí thông qua, 416/416 (Sedgwick Tourison, 2004, tr.147). Như vậy, Tổng thống Johnson đã tranh thủ được sự ủng hộ gần như tuyệt đối của Quốc hội về chiến tranh Việt Nam với số phiếu áp đảo 504/506 phiếu. Sự kiện Vịnh Bắc Bộ còn tạo ra một sự thay đổi quan trọng trong chính sách và thực trạng chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam. Thứ nhất, quyền lực của Tổng thống LÊ TÙNG LÂM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 17 Johnson được tăng cao khi Quốc hội đồng ý cho phép Tổng thống Johnson áp dụng mọi bước đi cần thiết, kể cả sử dụng lực lượng vũ trang, để chi viện cho bất kì thành viên hoặc quốc gia nào ở Đông Nam Á. Đây là lần thứ hai sau sự kiện Trân Châu Cảng (12-1941), Quốc hội đã thông qua một Nghị quyết quân sự nhanh chóng và đồng thuận gần như tuyệt đối. Rõ ràng, sự kiện Vịnh Bắc Bộ đã góp phần quan trọng tạo nên một “sự đoàn kết” trong nội bộ chính quyền Mĩ (vốn đã bất ổn vì chiến tranh Việt Nam). Tổng thống Johnson được toàn quyền quyết định trong việc mở rộng chiến tranh ở Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung. Đây là điều kiện tiên quyết để Tổng thống Johnson và nội các công khai tấn công miền Bắc Việt Nam. Thứ hai, Mĩ được quyền công khai mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam. Giới quân sự Mĩ xem việc tấn công miền Bắc Việt Nam là điều kiện thành hay bại của Mĩ tại Việt Nam. Ngày 27-1-1965, McNamara và Mc George Bundy gửi Tổng thống Johnson một bản báo cáo và nhấn mạnh rằng “kế hoạch hành động kém hiệu quả nhất là tiếp tục duy trì vai trò rất thụ động hiện nay mà cuối cùng chỉ dẫn đến thất bại và thoát ra khỏi tình cảnh nhục nhã này trừ khi Mĩ thay đổi chính sách và các ưu tiên của chúng ta” (Robert S.McNamara, 1995, tr.171). McBundy và McNamara cho rằng “đã đến lúc thực hiện những lựa chọn triệt để hơn” (Robert S.McNamara, 1995, tr.172). Có thể nói, bản báo cáo này xác định một đường lối hành động quyết liệt của Mĩ tại Việt Nam. Ngày 7-2-1965, McGeorge Bundy đã gởi cho Tổng thống Johnson một Bị vong lục cho rằng “cách tốt nhất để tăng thêm cơ hội thành công ở Việt Nam là phát triển và thi hành một chính sách trả đũa liên tục chống lại miền Bắc Việt Nam - bao gồm cả hành động của không quân và hải quân. Tuy thương vong của Mĩ có thể nặng nhưng so với cái giá của sự thất bại ở Việt Nam thì chương trình này rõ ràng rẻ hơn và thậm chí giá trị đạt được của cố gắng này vượt quá tốn kém của nó” (Neil Sheehan, etc..,1971, tr.423). Như vậy, McBundy đã phân tích cho Tổng thống thấy được sự lợi và hại trong các hành động chống lại miền Bắc Việt Nam. M.Taylor triệu tập các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự chóp bu của VNCH và thông báo rằng Mĩ sẽ xem xét đến việc “leo thang” chiến tranh nếu họ có thể đoàn kết với nhau và ổn định chính quyền Sài Gòn (George Herring, 1996, tr.141). Đồng thời, Tổng thống Johnson còn phê chuẩn việc sẽ tiến hành chiến dịch ném bom kéo dài miền Bắc Việt Nam với mật danh Sấm Rền (Rolling Thunder) vào ngày 20-2-1965. Ngày 15-2-1965, Tổng thống Johnson chính thức cho phép chương trình ném bom kéo dài với mật danh Sấm Rền và xem “đó là giải pháp duy nhất để nâng cao tinh thần chiến đấu của quân đội Sài Gòn” (Tường Hữu, 2005, tr.199). Sấm Rền là một chiến dịch không kích miền Bắc kéo dài, cách quãng và tuân theo một số mục tiêu hạn chế do Tổng thống Johnson và McNamara đặt ra. Ngày 18-2-1965, William Bundy cho rằng “một chương trình tiến công bằng máy bay có mức độ, có giới hạn và cách quãng cùng tiến hành với CQSG chống lại khu liên hợp thâm nhập của VNDCCH” (Neil Sheehan, etc,1971, tr.429) là một hành động phù hợp nhất lúc này. Tuy nhiên, Mĩ cũng cho rằng, “nếu phong trào nổi dậy ở miền Nam vẫn tiếp diễn với sự hỗ trợ của VNDCCH SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 67 (01/2020) 18 thì các cuộc không kích sẽ được kéo dài với các nỗ lực cao hơn nữa để chống lại các mục tiêu phía Bắc vĩ tuyến 19” (H.R.McMaster, 1997, tr.226), tin rằng việc gây áp lực có chọn lọc kết