Ngày nay căn cứ vào hình thái giải phẫu 
của các cơ quan sinh dưỡng và sinh sản 
đặc biệt là sự phát triển phôi, nhiều nhà 
phân loại đã phân chia ngành Thực vật có 
hạt thành hai ngành: ngành thực vật Tiền 
hạt gồm lớp Tuế và lớp Bạch quả và 
ngành Thực vật có hạt, ngành này chia 
thành 3 phân ngành: phân ngành Hạt 
trần, phân ngành thực vật bao noãn 
(Chlamydospermae) (Ma Hoàng, Hai lá, 
Dây gắm) và phân ngành Hạt kín. Thể 
bào tử của chúng hoàn toàn chiếm ưu 
thế, là cây sinh dưỡng gồm có thân, lá, rễ 
trụ hoặc rễ chùm (Một lá mầm) và mang 
noãn [gồm túi bào tử lớn (phôi tâm) được 
bảo vệ bởi võ noãn bao xung quanh], do 
đặc trưng này mà gọi là thực vật có noãn. 
Do hạn chế khung chương trình, nên 
chúng tôi chỉ trình bày sự sinh sản và chu 
trình phát triển cá thể theo sự phân loại
truyền thống của ngành Hạt trần và 
ngành Hạt kín là chính.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 20 trang
20 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2913 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự sinh sản của thực vật bậc cao (Hạt trần), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sự sinh sản của 
thực vật bậc cao 
(Hạt trần) 
3. Sự sinh sản và chu trình phát triển 
cá thể của ngành Hạt trần 
3.1. Thể bào tử của Hạt trần 
Ngày nay căn cứ vào hình thái giải phẫu 
của các cơ quan sinh dưỡng và sinh sản 
đặc biệt là sự phát triển phôi, nhiều nhà 
phân loại đã phân chia ngành Thực vật có 
hạt thành hai ngành: ngành thực vật Tiền 
hạt gồm lớp Tuế và lớp Bạch quả và 
ngành Thực vật có hạt, ngành này chia 
thành 3 phân ngành: phân ngành Hạt 
trần, phân ngành thực vật bao noãn 
(Chlamydospermae) (Ma Hoàng, Hai lá, 
Dây gắm) và phân ngành Hạt kín. Thể 
bào tử của chúng hoàn toàn chiếm ưu 
thế, là cây sinh dưỡng gồm có thân, lá, rễ 
trụ hoặc rễ chùm (Một lá mầm) và mang 
noãn [gồm túi bào tử lớn (phôi tâm) được 
bảo vệ bởi võ noãn bao xung quanh], do 
đặc trưng này mà gọi là thực vật có noãn. 
Do hạn chế khung chương trình, nên 
chúng tôi chỉ trình bày sự sinh sản và chu 
trình phát triển cá thể theo sự phân loại 
truyền thống của ngành Hạt trần và 
ngành Hạt kín là chính. Chu trình phát 
triển cá thể của chúng lưỡng di truyền - 
Lưỡng Đơn bội (diplohaplophase) 
3.1.1. Túi bào tử bé của Hạt trần 
Các loài trong bộ Thông sản sinh ra các 
nón đực được cấu tạo bởi nhiều vảy (lá 
bào tử bé), ở mặt dưới của mỗi vảy mang 
từ 2 đến 20 túi bào tử bé mà các bào tử 
bé của chúng chỉ phát tán (bao phấn mở 
bởi vách nứt ngoà..i) sau khi sự phát triển 
của các bào tử bé được bắt đầu. Mỗi vảy 
có giá trị như một nhị của thực vật Hạt 
kín, nón đực tương đồng với hoa đực xếp 
xoắn. 
+ Bào tử bé của thực vật Hạt trần 
Sự hình thành và cấu tạo dị bào tử của 
thực vật Hạt trần cũng có cùng quy luật 
với sự hình thành dị bào tử của Quyết 
thực vật. 
- Sự hình thành bào tử bé của Hạt trần 
Trong bao phấn còn non, khi phân bào 
giảm nhiễm, các tế bào mẹ phân cắt theo 
hai cách như ở Quyết để hình thành các 
bào tử bé là tế bào sinh sản vô tính đực. 
Nhưng cách sắp xếp bốn bào tử bé và 
hình dạng của chúng có sự khác nhau. 
• Sự phân cắt liên tiếp và sự sắp xếp chéo 
chữ thập của bộ bốn bào tử. Mỗi bộ bốn 
có hai mặt bên và một mặt bụng: bộ Tuế, 
một số Hạt trần (bộ Thông đỏ và họ 
Thông), cũng có ở đa số lớp Một lá mầm, 
các thực vật lớp Hai lá mầm nguyên thuỷ 
(Chi Ngọc lan, Chi Rong đuôi chó, chi 
Hoa không lá, chi Nam mộc hương, họ 
Bông trai, họ Trúc đào. 
• Sự phân cắt đồng thời và sự sắp xếp bộ 
bốn của các bào tử bé. Mỗi bộ bốn có ba 
mặt bên và một mặt bụng: bộ Bạch quả, 
đa số Hạt trần và cũng có ở lớp thực vật 
Hai lá mầm, một số loài của lớp Một lá 
mầm (họ Hành, họ Củ nâu, họ Lan, họ 
Đuôi diều). 
3.1.2. Noãn và phôi tâm của Hạt trần 
Các nón cái của Thông (trừ vài loài 
Juniperus communis, Taxus) được cấu 
tạo các lá bắc ở nách của mỗi vảy, mang 
hai noãn ở bề mặt trên lá noãn trần. Vì 
vậy, mỗi vảy này có lá bắc ở nách giống 
với một hoa cái và nón là một cụm hoa 
(hình 11). 
Nếu các vảy của nón đực và nón cái của 
thông luôn luôn đối xứng hai bên, sự đối 
xứng này là ngược (xylem xa trục) với 
nón cái. Hiện tượng này giải thích các 
vảy của nón thông cái hình thành từ sự 
phát sinh cá thể của chúng (hình 11). 
"Vảy cái của thông thể hiện như một cơ 
quan mới, gồm một phần thân và một 
phần lá và vì vậy các vảy của chúng là sự 
hợp nhất bẩm sinh" (Lemoine), vảy này 
được cấu tạo bởi sự chập lại hài hoà của 
trục A2 và của lá f (hình 11). Noãn một 
vỏ, bao bọc phôi tâm (n) thẳng hay đảo, 
có lỗ noãn ít nhiều kéo dài ra và có dạng 
nuốm nhụy. Tế bào nguyên bào tử, nằm 
sâu trong phôi tâm, dễ dàng nhận biết nó, 
do có kích thước lớn. Mặt khác, nó 
không phân bào nguyên nhiễm (không có 
mũ) và trực tiếp có vai trò của tế bào mẹ 
bào tử bởi vì nó trải qua sự phân bào 
giảm nhiễm. Vì vậy, phôi tâm còn có giá 
trị của túi bào tử lớn tương ứng với túi 
bào tử lớn của Quyết. 
3.2. Thể giao tử của Hạt trần 
Thể giao tử Hạt trần có cùng nguồn gốc 
với các nguyên tản của Quyết dị bào tử, 
các sản phẩm nảy mầm của các bào tử bé 
là thể giao tử đực và các sản phẩm nẩy 
mầm bào tử lớn là thể giao tử cái cùng 
nguồn với Quyết dị bào tử. 
3.2.1. Hạt phấn- thể giao tử đực 
Sự phát triển của các bào tử bé, tế bào 
sinh sản vô tính đực, thường bắt đầu 
trong các túi bào tử bé dẫn đến hình 
thành các hạt phấn ngay trong chúng và 
sẽ phát tán ra khỏi túi bào tử bé hay túi 
phấn. 
3.2.2. Nội nhũ - Thể giao tử cái của Hạt 
trần 
Chỉ một bào tử lớn duy nhất mà nó còn 
lại sau khi đã tiêu biến ba bào tử lớn 
khác, nó khởi đầu cho sự hình thành nội 
nhũ trong túi bào tử lớn (phôi tâm). Bào 
tử lớn phát triển thành nội nhũ không bao 
giờ phát tán ra khỏi túi bào tử lớn. 
+ Sự hình thành nội nhũ của Thông 
Sau khi thụ phấn, sự phát triển của phôi 
tâm và vỏ noãn tiếp tục làm tăng khối 
lượng noãn. Bào tử lớn to ra, sự phân bào 
nguyên nhiễm xảy ra nhiều lần, nhưng nó 
không tiếp tục ngăn vách xenluloza. Vì 
vậy, nội nhũ là dạng cọng bào gồm vài 
chục nhân nằm trong tế bào chất bao 
xung quanh một không bào lớn. Sự tăng 
trưởng ngừng lại trong mùa đông, và trở 
lại tăng trưởng trong năm tiếp theo và 
kèm theo sự ngăn vách xenluloza bắt đầu 
từ phía ngoài vào. Khi nội nhũ trở thành 
tế bào, chúng vẫn tiếp tục lớn lên. (H.12). 
+ Các túi noãn 
- Mỗi túi noãn của Thông (2-3 túi noãn) 
được hình thành vào cuối mùa xuân của 
năm thứ hai, từ bề mặt ngoài của nội nhũ 
nằm cạnh lỗ noãn (Hình 13a). Sau khi đã 
lớn và nhô lên trên phôi tâm (hình 13b), 
nó phân chia thành tế bào gốc lớn và một 
tế bào ngọn nhỏ (lần phân chia thứ nhất ở 
giai đoạn 13c). Sau khi tăng trưởng 
mạnh, tế bào thứ nhất hình thành noãn 
cầu lớn và tế bào nhỏ là nguồn gốc của 
rãnh bụng tồn tại ngắn ngủi. Lần phân 
chia thứ hai sẽ sinh ra cổ túi noãn (hai 
dãy, mỗi dãy 4 tế bào như ở thông rừng). 
Nội nhũ được hình thành từ bào tử lớn và 
mang các túi noãn lớn, vì vậy, nội nhũ rõ 
ràng là thể giao tử cái (H.13). 
Khi các túi noãn hình thành ở cực lỗ 
noãn của nội nhũ, thì nội nhũ lớn lên, có 
dạng trứng, trăng trắng và nhiều nước, to 
bằng hạt gạo như ở loài Pinus pinea. Như 
vậy, nội nhũ là phần lớn nhất của noãn 
khi đạt tới độ trưởng thành. 
Ở Hạt trần bào tử giảm nhiễm cũng như 
nội nhũ ít gắn chặt vào phôi tâm. Do vậy 
dễ dàng tách nhân hạt ra. 
- So sánh với túi noãn của Quyết, người 
ta nhận thấy rằng: 
• tế bào gốc hình thành noãn cầu 
• sự hình thành túi noãn ngắn hơn do sự 
huỷ bỏ các lần phân cắt 2 và 3 mà điều 
đó quan sát thấy ở Dương xỉ. 
• các túi noãn đơn giãn hơn (cổ ngắn hơn, 
không có tế bào rãnh cổ) và hoàn toàn 
nằm sâu trong nguyên tản, kể cả cổ noãn. 
3.3. Sự thụ phấn và sự thụ tinh đơn 
của Hạt trần 
3.3.1. Sự thụ phấn 
- Các hạt phấn là thể giao tử đực được 
bắt đầu phát triển ngay khi chúng trong ở 
các túi bào tử bé: hạt phấn của Tuế, Bạch 
quả, Thông ..., chúng được phát tán ra 
ngoài để thụ phấn và một số ít trong 
chúng được thụ tinh. 
- Bào tử lớn luôn luôn nằm trong túi bào 
tử lớn, và tại đó phát triển thành nguyên 
tản cái, do đó mà có tên là nội nguyên 
tản. 
Do thực vật chồi cành không có động bào 
tử, nên bào tử Quyết cũng như hạt phấn 
thực vật Tiền hạt và Hạt trần, mỗi lần 
phát tán ra ngoài, chúng không có khả 
năng tự vận động. Sự phát tán thụ động 
của chúng phụ thuộc các yếu tố vật lý 
(trọng lực, nước, gió và các tác nhân sinh 
học (côn trùng, chim, thú). Ngoài ra 
trong khi thụ phấn, sự vận chuyển hạt 
phấn từ các túi phấn đến các noãn của 
ngành Hạt trần, đôi khi cũng có con 
người tham gia. 
Ở thực vật Hạt trần thì sự thụ phấn đến 
rất sớm trước khi noãn phát dục, bởi vì 
sự thụ phấn xảy ra khi nội nhũ còn ở giai 
đoạn cọng bào, nó chưa kết thúc sự tăng 
trưởng. Vì vậy, các túi noãn còn chưa 
hình thành. Thụ phấn nhờ gió là rất bấp 
bênh và kèm theo sự hoang phí lớn vật 
chất sống. Do đó, người ta xem thụ phấn 
nhờ gió là nguyên thuỷ. Trong số thực 
vật như loài Bạch Quả (bộ Bạch quả) 
kiểu thụ phấn nhờ gió là điển hình, 
nhưng bộ Tuế như Encephalartos thụ 
phấn bởi sâu bọ có cánh. Cũng như thế, 
sự thụ phấn nhờ sâu bọ được biết rõ ở 
loài Welwitschia mirabilis. 
- Sự nẩy mầm của hạt phấn Thông 
(H.14): Ở các loài thông (họ Thông), 
trong các túi bào tử bé, các bào tử bé một 
nhân với hai bóng khí. Lần phân chia thứ 
nhất, bào tử bé tạo ra tế bào gốc và tế bào 
lớn (c), lúc đó xảy ra sự phát tán của hạt 
phấn ra ngoài, hạt phấn được giữ lại bởi 
giọt chất nhầy ở lỗ noãn và được dẫn vào 
tiếp xúc với phôi tâm, ở đây không có 
buồng phấn. Sự nảy mầm bắt đầu ngay, 
tế bào lớn phân chia cho ra tế bào chân 
nằm sát tế bào gốc và tế bào con. Tế bào 
con phân chia tạo ra tế bào sinh tinh và tế 
bào ống phấn. Lúc này, tế bào phấn đã 
phát dục hoàn toàn và ống phấn bắt đầu 
đi vào phôi tâm. Khoảng hai tháng sau, tế 
bào đế và tế bào mẹ của giao tử hay tế 
bào sinh tinh sẽ dừng lại trong mùa đông. 
Sự tăng trưởng ống phấn trở lại vào mùa 
xuân và tiếp tục đi đến cổ túi noãn. Tế 
bào mẹ phân chia cho hai giao tử. Vì vậy, 
ngoài tế bào đế và nhân sinh dưỡng, ống 
phấn còn chứa hai giao tử (hình 14). 
Có lúc, nhờ vào các nhú của vỏ noãn hay 
phôi tâm mà hạt phấn được giữ lại cũng 
giống như nuốm nhuỵ của Hạt kín. 
Ống phấn của Hạt trần tương tự như vách 
túi tinh của Quyết nó sẽ mở ra lúc thụ 
tinh. Cũng như hạt phấn của Tuế, Bạch 
quả, ống phấn của Hạt trần tăng trưởng 
chậm hơn nhiều (trung bình 15µm/ngày) 
so với ống phấn của Hạt kín nhưng 
đường đi cũng ngắn hơn nhiều, vì rằng 
nó lá noãn trần. Ngoài ra, sự tăng trưởng 
của ống phấn bằng cách khuếch tán và 
phân nhánh trong suốt chiều dài của nó. 
3.3.2. Sự thụ tinh của Thông 
Sự thụ tinh xảy ra trên cây, trong không 
khí. Ống phấn của Hạt trần, sau khi đi 
vào phôi tâm, nó tiếp tục mang các nhân 
đực vào kết hợp với noãn cầu. Ngược với 
thụ tinh động, Hạt trần thụ tinh qua ống 
phấn. Ống phấn là tác nhân dẫn các giao 
tử, ở đây không còn nữa thụ tinh noãn 
giao (oogamia) mà là thụ tinh qua ống 
phấn (siphogamia) (H.15). 
Đến noãn cầu, ống phấn của hạt phấn 
Thông trút ra nội chất của nó, nằm bên 
cạnh tế bào chất của giao tử cái. Một 
trong hai nhân của tinh tử xâm nhập sâu 
vào đến tận giao tử cái và kết hợp với nó. 
Nhân của hợp tử phân chia ngay mà vẫn 
còn chưa qua giai đoạn nghỉ như ở Hạt 
kín. Nhân đực thứ hai, nhân sinh dưỡng 
và tế bào đế thoái biến nhanh, nó hoàn 
toàn không tham gia vào sự thụ tinh. Do 
vậy, thụ tinh của Hạt trần là thụ tinh đơn. 
3.3.3. Sự hình thành phôi Hạt trần và 
mối quan hệ giữa thể giao tử và thể 
bào tử 
Noãn cầu được thụ tinh xảy ra trên thể 
giao tử (nội nhũ). Hợp tử phát triển ngay 
trên nội nhũ và kí sinh tạm thời trên 
chúng. Mối quan hệ của thể bào tử với 
thể giao tử rất ngắn, chỉ xảy ra ở giai 
đoạn phôi và giai đoạn nảy mầm thành 
cây con. 
Chúng ta sẽ nghiên cứu sự phát sinh phôi 
Thông (hình 16). Tiền phôi ở giai đoạn 
cọng bào 4 nhân của Thông, các nhân 
của chúng di chuyển xuống cực dưới hợp 
tử, trong vùng xa nhất kể từ cổ của túi 
noãn. Chúng tiếp tục phân chia và ngăn 
các vách thành một tầng 4 tế bào và đạt 
được tiền phôi có cấu tạo 4 tầng, mỗi 
tầng 4 tế bào, như vậy giai đoạn tiền phôi 
được cấu tạo từ cao đến thấp như sau 
(H.16): 
- Một tầng tế bào, mở ra trên tế bào chất 
đang thoái hoá của noãn cầu cũ. 
- Tầng hoa thị mà các tế bào của chúng 
có thể phát sinh phôi được. 
- Tầng giây treo sơ cấp 
- Tầng ngọn được cấu tạo 4 tế bào phôi 
Bằng cách kéo dài ra, các tế bào dây treo 
sơ cấp đẩy các tế bào phôi vào nguyên 
tản cái. Mỗi tế bào phôi tiếp tục phân 
chia. Bốn dây treo thứ cấp được hình 
thành và tách các phôi ra. Kết quả được 4 
phôi (đa phôi sinh do sự chẽ ra) mà 3 
trong 4 phôi sẽ thoái hoá. Chỉ một phôi 
phát triển với rễ mầm, thân mầm, chồi 
mầm và các lá mầm (đến 18 lá mầm). 
3.3.4. Chu trình tóm tắt phát triển cá 
thể của Thông 
Thể bào tử đơn tính cùng gốc, nón đực 
mang các "nhị" có hai túi phấn mang các 
bào tử bé. Hạt phấn là thể giao tử đực; 
nón cái mang các lá noãn trần có hai 
noãn với các bào tử lớn. Nội nhũ tương 
ứng với nguyên tản cái. Thụ tinh đơn qua 
ống phấn, xảy ra trên cây ở trong không 
khí. Tiền phôi tế bào và phát triển liên 
tục. Phôi gồm có rễ mầm, thân mầm, 
chồi mầm và nhiều lá mầm (18 lá mầm).