Trên thế giới, đất không bị phủ băng có
diện tích là 13.251 triệu ha, chiếm
91,53% tổng diện tích lục địa, trong đó
chỉ có 1500 triệu ha (11%) dùng để trồng
trọt, 24% diện tích đất được dùng làm
đồng cỏ chăn nuôi, 32% là rừng và đất
rừng, 32% diện tích đất còn lại được sử
dụng với các mục đích khác nhau
(Theo UNEP, 1987).
Hiện nay, theo đánh giá của FAO
trong diện tích đất trồng trọt thì đất cho
năng suất cao chiếm 14%, đất cho năng
suất trung bình chiếm 28% và đất cho
năng suất thấp chiếm 58%. Trong tương
lai, có thể khai phá và đưa vào sử dụng
nông nghiệp khoảng 15 - 20%, tối đa
khoảng 3200 triệu ha, gấp hơn hai lần
diện tích đất đang sử dụng hiện nay.
Nhưng rõ ràng, trên phạm vi toàn thế giới
đất tốt thì ít, đất xấu thì nhiều và quỹ đất
ngày càng bị thoái hoá.
6 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2947 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự suy thoái tài nguyên đất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sự suy thoái
tài nguyên đất
Trên thế giới, đất không bị phủ băng có
diện tích là 13.251 triệu ha, chiếm
91,53% tổng diện tích lục địa, trong đó
chỉ có 1500 triệu ha (11%) dùng để trồng
trọt, 24% diện tích đất được dùng làm
đồng cỏ chăn nuôi, 32% là rừng và đất
rừng, 32% diện tích đất còn lại được sử
dụng với các mục đích khác nhau
(Theo UNEP, 1987).
Hiện nay, theo đánh giá của FAO
trong diện tích đất trồng trọt thì đất cho
năng suất cao chiếm 14%, đất cho năng
suất trung bình chiếm 28% và đất cho
năng suất thấp chiếm 58%. Trong tương
lai, có thể khai phá và đưa vào sử dụng
nông nghiệp khoảng 15 - 20%, tối đa
khoảng 3200 triệu ha, gấp hơn hai lần
diện tích đất đang sử dụng hiện nay.
Nhưng rõ ràng, trên phạm vi toàn thế giới
đất tốt thì ít, đất xấu thì nhiều và quỹ đất
ngày càng bị thoái hoá.
Nguyên nhân gây ra sự tổn thất và suy
thoái đất rất đa dạng, trước hết phải kể
đến là sự mất rừng hoặc khai thác rừng
đến cạn kiệt (gây xói mòn, làm đá ong
hoá, làm mất nước, sạt lở...) đã đóng góp
tới 37%, chăn thả quá mức (làm chặt đất,
giảm độ che phủ của cây cỏ) 34%, hoạt
động nông nghiệp (mặn hoá thứ sinh do
tưới tiêu không hợp lý; dùng quá nhiều
phân bón hoặc hoàn toàn không dùng
phân bón làm xói mòn đất; ô nhiễm đất
do phân bón, các hợp chất bảo vệ thực
vật và ô nhiễm sinh học) 28% và hoạt
động công nghiệp (sử dụng đất làm
bãi thải gây ô nhiễm môi trường
đất...) 1%
Ở Việt Nam: Việt Nam có diện tích tự
nhiên gần 33 triệu ha, trong đó diện tích
đang sử dụng là 22.226.830 ha, chiếm
68,83% tổng quỷ đất. Còn 10.667.577 ha
đất chưa sử dụng, chiếm 33,04% diện
tích đất tự nhiên. Đất nông nghiệp ít, chỉ
có 8,146 triệu ha, chiếm 26,1% diện tích
tự nhiên (Tổng cục Địa chính, 1999).
Với đặc điểm đất đồi núi chiếm 3/4
toàn lãnh thổ lại nằm trong vùng
nhiệt đới, mưa nhiều và tập trung, nhiệt
độ không khí cao, các quá trình khoáng
hoá diễn ra rất mạnh trong đất nên dễ bị
rữa trôi, xói mòn, nghèo chất hữu cơ và
chất dinh dưỡng dẫn đến thoái hoá đất.
Đất đã bị thoái hoá rất khó có thể khôi
phục lại trạng thái màu mỡ ban đầu.
Nguyên nhân của quá trình thoái hoá đất
có thể là:
- Quá trình rửa trôi và xói mòn đất: Đây
là quá trình phổ biến vì 3/4 diện tích đất
tự nhiên là đồi núi, có độ dốc cao, lượng
mưa lớn lại tập trung 4 - 5 tháng trong
mùa mưa, chiếm tới 80% tổng lượng
mưa năm. Ngoài ra, quá trình xói mòn,
rửa trôi gia tăng do hoạt động của con
người mà đặc trưng là: mất rừng, đốt
nương làm rẫy và canh tác không hợp lý
trên đất dốc.
- Quá trình hoang mạc hoá: Theo định
nghĩa của FAO thì hoang mạc hoá là quá
trình tự nhiên và xã hội phá vỡ cân bằng
sinh thái của đất, thảm thực vật, không
khí và nước ở các vùng khô hạn và bán
ẩm ướt... Quá trình này xãy ra liên tục,
qua nhiều giai đoạn, dẫn đến giảm sút
hoặc huỷ hoại hoàn toàn khả năng
dinh dưỡng của đất trồng, giảm thiểu
các điều kiện sinh sống và làm gia tăng
sinh cảnh hoang tàn”. Chỉ tiêu quan trọng
nhất để xác định độ hoang mạc hoá là tỷ
lệ lượng mưa hàng năm so với lượng
bốc thoát hơi nước tiềm năng trong
giới hạn từ 0,05 - 0,65 (Công ước
chống sa mạc hoá). Hiện nay hiện tượng
hoang mạc hoá thể hiện rõ nhất trên đất
trống đồi núi trọc, không còn lớp phủ
thực vật, địa hình dốc, chia cắt mạnh,
nơi có lượng mưa thấp (700 -
1500mm/năm), lượng bốc hơi tiềm
năng đạt 1000 - 1800mm/năm (Ninh
Thuận, Bình Thuận, Cheo Reo, Sông
Mã, Yên Châu). Ở Việt Nam, do hậu quả
của việc phá rừng, đốt rừng bừa bãi, sử
dụng đất không bền vững qua nhiều thế
hệ (du canh, du cư, độc canh, quãng
canh…) nên đất bị thoái hoá nghiêm
trọng, nhiều nơi mất khả năng sản xuất
và khả năng hoang mạc hoá ngày càng
phát triển.
Thảo Hiên