Tóm tắt
Bất kì nền văn hóa, văn học nào, ở mọi yếu tố, cấp độ cũng có phần trung tâm và ngoại biên. Với văn
học nói chung, truyện ngắn nói riêng giai đoạn 1945 – 1975 cũng vậy. Qua xem xét diễn ngôn truyện
ngắn khu vực ngoại biên, có thể thấy tiếng nói, tư tưởng của vùng diễn ngôn này không đối kháng mà
đối thoại theo tinh thần phản tư với diễn ngôn truyện ngắn khu vực trung tâm chính thống. Bài viết này
tập trung làm sáng tỏ phần nào điều đó qua việc chỉ ra ý thức vượt khung phương pháp hiện thực xã hội
chủ nghĩa của chủ thể sáng tạo truyện ngắn khu vực ngoại biên giai đoạn 1945 – 1975 [1].
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 320 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự vượt khung phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa của diễn ngôn truyện ngắn khu vực ngoại biên giai đoạn 1945 – 1975, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 (31) - Thaùng 8/2015
11
Sự vượt khung phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa
của diễn ngôn truyện ngắn khu vực ngoại biên giai đoạn
1945 – 1975
The excess of methods of socialist realism of the discourse of peripheral area short
stories in period 1945 – 1975
TS. Hoàng Thị Thu Giang
Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Ninh
Ph.D. Hoang Thi Thu Giang
Quang Ninh Teacher Training College
Tóm tắt
Bất kì nền văn hóa, văn học nào, ở mọi yếu tố, cấp độ cũng có phần trung tâm và ngoại biên. Với văn
học nói chung, truyện ngắn nói riêng giai đoạn 1945 – 1975 cũng vậy. Qua xem xét diễn ngôn truyện
ngắn khu vực ngoại biên, có thể thấy tiếng nói, tư tưởng của vùng diễn ngôn này không đối kháng mà
đối thoại theo tinh thần phản tư với diễn ngôn truyện ngắn khu vực trung tâm chính thống. Bài viết này
tập trung làm sáng tỏ phần nào điều đó qua việc chỉ ra ý thức vượt khung phương pháp hiện thực xã hội
chủ nghĩa của chủ thể sáng tạo truyện ngắn khu vực ngoại biên giai đoạn 1945 – 1975 [1].
Từ khóa: diễn ngôn, diễn ngôn truyện ngắn, diễn ngôn ngoại biên, truyện ngắn Việt Nam 1945-1975
Abstract
As for every culture and literature as well as factors and levels, it also consists of the peripheral and
central parts. This is similar to the literature, short stories in particular during the period 1945 – 1975.
By researching the discourse subject of the the short stories of the peripheral area, it can be seen that
the peripheral discourse is not antagononistic but dialogic based on the rethinking with the speech of
discourse of the orthodox short stories. This article mainly focuses on making some parts clear in order
to show the excess sense of methods of socialist realism of the writer creativity of the peripheral area
during the period 1945 – 1975.
Keywords: discourse, short story discourse, peripheral discourse, Viet Nam short story in periol 1945 – 1975
1. Mở đầu
Bất kì nền văn hóa, văn học nào, ở
mọi yếu tố, cấp độ cũng có phần trung tâm
và ngoại biên. Với văn học nói chung,
truyện ngắn nói riêng giai đoạn 1945 –
1975 cũng vậy. Nếu những tác phẩm viết
theo phương pháp hiện thực xã hội chủ
nghĩa, theo chủ trương đường lối của
Đảng, cổ vũ, tuyên truyền cho cách mạng,
bảo vệ chủ nghĩa xã hội là văn học được
đặt vào vùng trung tâm – được đông đảo
người tiếp nhận và giới phê bình giai đoạn
này quan tâm cổ vũ thì những tác phẩm
viết không theo tinh thần đó hoặc không
quán triệt tinh thần đó một cách triệt để sẽ
bị quyền lực đẩy ra ngoại biên. Nói gọn lại,
toàn bộ những tác phẩm từng bị cấm đoán,
bị phê phán trong giai đoạn 1945 – 1975
đều là văn học ngoại biên, diễn ngôn [1]
ngoại biên. Về phần ngoại biên [2] này,
12
chúng tôi đồng tình với quan điểm của một
nhà nghiên cứu: “Chúng ta có thể không
thích nó, thậm chí ghét bỏ nó, nhưng nó
vẫn là một phần, dù là rất bé nhỏ, rất phụ,
đã lui vào quá khứ của quá trình văn học.
Hiểu như thế mọi hiện tượng văn học ngoại
biên đều đáng được xem xét, đều có ý
nghĩa để soi sáng lịch sử văn học từ chỗ
này hay chỗ khác” [3]. Theo quan điểm
như vậy, trong khuôn khổ bài viết này,
chúng tôi xem xét phương pháp sáng tác
của chủ thể sáng tạo truyện ngắn khu vực
ngoại biên để bước đầu có cái nhìn toàn
diện hơn về nền văn học 1945 – 1975.
2. Vượt khung phương pháp hiện thực
xã hội chủ nghĩa
Những sáng tác văn học bị đẩy ra
ngoại biên trước hết vì nó không tuân thủ
theo phương pháp sáng tác hiện thực xã hội
chủ nghĩa mà Đảng đã định hướng cho văn
hoá, văn nghệ. Trong những diễn ngôn
truyện ngắn [4] ngoại biên có sự hiện diện
con mắt hiện thực tỉnh táo của chủ nghĩa
hiện thực phê phán, có kiểu nói trào phúng
giễu nhại, có âm điệu của chủ nghĩa lãng
mạn, có màu sắc của chủ nghĩa hiện thực
huyền ảo .v.v. và điều này đương thời đã bị
một số nhà phê bình văn học cách mạng
phê phán là “xuyên tạc”, “bôi đen” chế độ,
có tư tưởng “độc hại” .v.v. và .v.v.
Tuy nhiên với độ lùi thời gian, với cái
nhìn nghiêm túc trong tình hình có nhiều
thay đổi sau thời kì đổi mới 19 , nhiều
tác phẩm văn học trong đó có truyện
ngắn trước đây bị gạt ra ngoại biên nay
được đánh giá lại đúng với giá trị của nó.
Những vấn đề được nêu ra trong những
diễn ngôn từng bị xếp vào phần ngoại biên
của truyện ngắn 1945 – 1975 cho đến thời
điểm hiện tại và cả tương lai vẫn đáng
được lắng nghe và suy ngẫm. Đó là chuyện
quan liêu, cửa quyền, lối làm việc công
thức, máy móc, rập khuôn,... của một bộ
phận không nhỏ cán bộ trong các cơ quan
Nhà nước đó là thói hư tật xấu, những
mâu thuẫn của con người trên bước đường
đi đến tương lai, đi đến chân thiện, trung
thực đó là sự tàn phá văn hoá cổ dân gian
bởi những quan niệm ấu trĩ. v.v. Nhiều
truyện ngắn bị coi là “có vấn đề” lúc ấy là
bởi vì nó đề cao tính trung thực của ng i
bút. ục đích của những diễn ngôn này là
nói thẳng, nói thật về cuộc sống hiện tại và
những vấn đề trong cuộc sống ấy. Để thể
hiện được tiếng nói đó, chúng không tuân
theo duy nhất nguyên tắc phản ánh của
phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, tinh thần phê phán của những
diễn ngôn ngoại biên này khác biệt với tinh
thần của những tác phẩm viết theo phương
pháp hiện thực phê phán giai đoạn 1930 –
1945. Căn cốt tinh thần của những diễn
ngôn bị xếp vào vùng ngoại biên của
truyện ngắn giai đoạn 1945 – 1975 là phê
phán mang tính xây dựng. Thái độ và quan
điểm của người viết với cuộc sống mới, với
Đảng và cách mạng là thái độ gắn bó, hy
vọng. Do đó, nguyên tắc sáng tạo của
những diễn ngôn truyện ngắn thuộc khu
vực ngoại biên là sự vượt khung phương
pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa
[5] chứ không phải là sự quay về với tinh
thần của những kiểu phương pháp sáng tác
trước cách mạng hay của một kiểu sáng tác
nào khác.
Dấu hiệu vượt khung dễ nhận thấy
nhất ở diễn ngôn truyện ngắn ngoại biên là
sự hiên diện mang tính thường trực, xuyên
suốt của con mắt hiện thực tỉnh táo trong
chủ thể diễn ngôn [ ]. Con mắt này cho
phép chủ thể diễn ngôn nhìn thấy, chỉ ra
được những góc khuất, những chỗ chìm
lấp, những cái bên trong, ở bề sâu của sự
vật và đưa đến tiếng nói khác với tiếng nói
13
của chủ thể diễn ngôn trong truyện ngắn
khu vực trung tâm. Cùng một tác giả văn
học nhưng sử dụng phương pháp sáng tác
khác nhau – con mắt nhìn khác nhau sẽ dẫn
đến những tiếng nói khác nhau. Kim Lân,
trong những truyện ngắn như Ông Cả Luốn
gốc me [7], Người chú dượng [8] với cách
phản ánh của phương pháp hiện thực xã hội
chủ nghĩa đã cất lên tiếng nói ghi nhận
những ý nghĩa tốt đẹp mà Cải cách ruộng
đất mang lại cho người nông dân, nhất là
với lực lượng bần, cố nông. Và những
truyện ngắn này của ông được đánh giá là
những diễn ngôn “đúng đường lối” Nhưng
Kim Lân cũng là tác giả của truyện ngắn
Ông o h ng m [9], một diễn ngôn bị
xem là “lệch chuẩn” và bị chỉ trích nặng nề.
Không phải Kim Lân mâu thuẫn mà ở Ông
o h ng m, ông đã nhìn và đánh giá cải
cách ruộng đất bằng con mắt hiện thực tỉnh
táo, nhờ đó mà thấy được những cái được
và những cái mất của công cuộc cải cách
ruộng đất. Là một cán bộ từng tham gia cải
cách ruộng đất, đã chứng kiến cái không
khí “long trời lở đất” ở nông thôn miền Bắc
sau năm 1954, chứng kiến những bi kịch
của một giai đoạn lịch sử nhiều thăng trầm,
nhiều người bị sống trong cảnh oan sai,
thậm chí dẫn đến tự tử, Kim Lân viết Ông
o h ng m trong bối cảnh sau cải cách
ruộng đất và sửa sai của Đảng với mong
muốn góp tiếng nói rút kinh nghiệm cho
công cuộc này. Nhưng tác phẩm đầy nhân
bản này đã bị “đưa lên bàn mổ”. ng tâm
sự: “Truyện Ông o h ng m khi tôi viết
ra bị phê phán gay gắt. Nhưng đến nay, tôi
thấy truyện này đã nói được sự thật không
khí thời gian cải cách ruộng đất ... . Dù có
nói đến sự thật nào, người viết luôn muốn
vươn lên một cấp độ cao hơn, đó là cái ý
nghĩa của sự thật ấy ... . Đoạn kết truyện,
tôi đã mở ra một hướng thoát li, một hi
vọng cho nhân vật cũng như người đọc ở
truyện” [10]. Rõ ràng, chọn cách kết thúc
tuy chưa phải là có hậu nhưng ít ra cũng
mang lại niềm tin, hi vọng cho con người là
cách để Kim Lân bày tỏ niềm tin, hi vọng
vào Đảng, cách mạng.
Đoàn, nhân vật truyện Ông o h ng
m là bộ đội trong kháng chiến 9 năm, đã
từng ra sống vào chết, nay bị quy oan là
Quốc dân Đảng, bị bắt làm kiểm điểm, bị
đấu tố. Trong cơn quẫn bách anh đã định tự
tử. Nhưng rồi, nhìn sang ông lão hàng
xóm, người kép tuồng giờ sống đơn độc
trong cái nhà thờ họ đổ nát, đêm đến ông
lão uống rượu, làm bạn với con m o và hát
những trích tuồng cổ, anh lại suy xét về
hành động của mình. Và anh đã quyết định
viết đơn kêu oan với hi vọng “thế nào cũng
có ngày Đảng xét lại”. Tiếng nói của chủ
thể diễn ngôn ở đây chính là lời tâm sự rất
tâm huyết của nhà văn với một tinh thần
của người đảng viên cộng sản: “Cải cách
ruộng đất không sai với tất cả mọi người,
nhưng ngay cả khi đúng, nó vẫn để lại một
cái gì căng thẳng, bi kịch đối với con
người” [11].
Chủ thể diễn ngôn với con mắt hiện
thực phê phán và tinh thần nhân bản như
vậy xuất hiện trong nhiều diễn ngôn thuộc
khu vực ngoại biên của giai đoạn 1945 –
1975. Và tiếng nói của những diễn ngôn ấy
là: đả phá những k mặt nạ, giả dối, háo
danh (L n ng – Hữu Loan [12], L ch
m t c u chuyện t nh - Bùi Quang Đoài
[13], Bức thư g i m t người bạn cũ – Trần
Lê Văn [14] .v.v. , lên án tư tưởng quan
liêu, tắc trách trong công việc Đống máy –
inh Hoàng [15] , phê phán thói đạo đức
giả Hai c u chuyện – ạnh Tường [1 ]
và cả những thói hư, tật xấu thường gặp
trong cuộc sống Văn ngan tướng công –
Vũ Tú Nam [17] , cảnh báo tư tưởng bảo
14
thủ, sống lâu lên lão làng Ông b nh ôi –
han Khôi [1 ] , những k không dám nói
thật l ng mình, bị “cầm tù” trong địa vị,
quyền lợi Con ng a gi c a chúa r nh –
hùng Cung [19] .v.v.
Tiếng nói phê phán trong diễn ngôn
truyện ngắn ngoại biên không nhằm “xuyên
tạc”, “bôi đen” chế độ như lời nhận xét của
các nhà phê bình văn học thời ấy mà nó xuất
phát từ ý thức đấu tranh với những mặt trái
đang hình thành trong chế độ xã hội mới.
Điều này thể hiện ý thức nhân đạo, nhân văn
của chủ thể diễn ngôn. Cũng trên tinh thần
nhân bản ấy, tác phẩm Chú bé m ăn Trần
Dần [20], Hai đứa trẻ trong đêm giao thừa
Trần Dần [21] là tiếng nói chia s nhẹ
nhàng về cuộc sống c n nhiều khốn khó của
nhân dân sau khi miền Bắc được hoà bình.
Nhưng dù là chia s nhẹ nhàng thì đây cũng
là diễn ngôn “có vấn đề”, vì nó không nói về
cuộc sống mới với hơi thở thời đại mà lại
loanh quanh chuyện “cơm áo gạo tiền” vụn
vặt. Vì thế, tiếng nói này cũng bị đẩy ra khu
vực ngoại biên. Trong số đó c n có Con ch
u Kim Lân - một tác phẩm mang sức
nặng triết lí nhân sinh. Chủ thể diễn ngôn
muốn từ chuyện con vật để nói chuyện con
người, chuyện xã hội. Con chó tuy xấu xí
nhưng lại rất trung thành, c n con người như
Dự Nhượng lại không bằng con chó Dự
Nhượng về sau “dinh tê” vào thành, viết
báo, viết truyện chửi kháng chiến, chửi bạn
văn,... . Kim Lân thật sự tâm huyết khi viết
truyện này: “Viết truyện Con ch u tôi
gửi gắm rất nhiều tâm huyết của bản thân.
Sau Ông o h ng m, tôi muốn viết truyện
này cũng là giãi bày tâm sự tấm l ng mình,
một nhà văn đi theo cách mạng ... . Truyện
gồm hai sự kiện song song. Tôi có dụng ý
xây dựng như vậy để tạo ra một sự đối sánh
... . Liệu con người cơ hội, phản bội như
Dự Nhượng đã bằng con chó xấu xí bị hắt
hủi mà vẫn trung thành ấy chưa ” [22].
Nhưng đáng buồn, thành tâm ấy không được
lắng nghe, thay vào đó, người ta thấy nó có
tính ám chỉ và nó bị xếp vào nhóm tác
phẩm bốn con nói xấu chế độ Văn ngan
tướng công – Vũ Tú Nam, Chuyện cái m
tha hương ở c a rừng Suối Cát con hùm
con mồ côi – Nguyên Hồng [23], Con nai
đen – Nguyễn Đình Thi [24], Con ch u
– Kim Lân [25]).
Chủ thể diễn ngôn ngoại biên, bên
cạnh việc sử dụng cách nhìn, cách nói của
chủ nghĩa hiện thực phê phán c n sử dụng
cả cách nói của văn chương trào phúng,
giễu nhại vốn là sở trường của các cây bút
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng hụng
trước cách mạng tháng Tám, của Hồ Anh
Thái, hạm Thị Hoài.v.v sau đổi mới. Kiểu
nói giễu nhại này khiến đối tượng được
miêu tả trở nên lố bịch, bị hạ bệ hoặc bị
giải thiêng. Vì vậy, để tránh búa rìu dư
luận, nhất là tránh sự quy kết vào tội “bêu
xấu” con người của chế độ mới, các diễn
ngôn này thường sử dụng cả những yếu tố
huyền ảo có tính chất làm “lạ hóa” bức
tranh thế giới. Có thể lấy truyện hi máy
Như ai [2 ] để minh hoạ cho cách làm
đó. Trong tác phẩm này này, chủ thể diễn
ngôn nói về căn bệnh “sính” máy – thực
chất là tư tưởng muốn biến văn chương
thành phương tiện tuyên truyền, phát ngôn
như những cái máy vô hồn, công thức, rập
khuôn đang phổ biến trong xã hội. Đành
rằng, người ta không thể phủ nhận những
tiến bộ của khoa học, kĩ thuật do máy móc
đem lại nhưng có những hoạt động rất đặc
thù như sáng tác văn chương chẳng hạn thì
không máy móc nào có thể thay thế được.
Trong thực tế cũng không có một cái máy
nào sản xuất ra để phục vụ việc sáng tác
văn thơ, kịch, ký,... Nhưng câu chuyện với
nhiều yếu tố huyền ảo này lại khiến người
15
đọc giật mình khi liên hệ thực tế sáng tác
văn chương lúc đó. Trên những công
trường, nông trường, những thi sĩ máy
“được độc quyền tô lục chuốt hồng”, c n
“lũ văn nghệ sĩ bằng xương bằng thịt thì bị
gạt ra ngoài”. Như “nhạc sĩ o Huyền đi
học lớp nghiên cứu “nghề làm nước mắm”,
họa sĩ Lập thể được điều sang ậu dịch,
nữ sĩ Trong Trắng ném bút làm nghề đ đ .
Thi sĩ ây Nước ra Bờ Hồ làm nghề bói
Kiều tán róc về thành phần giai cấp cho
những người c n đầu óc mê tín dị đoan.
Văn sĩ Đắng Văn Cay phải ra chợ giời bán
văn kiêm bán săm. Nhà đạo diễn Kinh Kha
được chuyển sang ngành nuôi cá vàng”.
C n ở nông trường Con n thì nhà thơ tr
Linh Quang được gọi là Lăng Quăng
được điều xuống dọn chuồng b . Và câu
chuyện đầy tính trào lộng này được chủ thể
diễn ngôn lưu ý là xảy ra ở những năm
2000 nào đó truyện viết năm 1957 .
Nhưng chủ thể tiếp nhận thời kì đó mà đặc
biệt là những nhà phê bình nhạy cảm đã
không thể không liên hệ tới hiện thực.
Ngoài ý nghĩa như đã nêu, Thi máy còn
phản ánh thực trạng của một thời kì mà
Đảng tiến hành ba cuộc cách mạng: cách
mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa
học kĩ thuật và cách mạng văn hoá tư
tưởng trong đó cách mạng khoa học kĩ
thuật là then chốt nhằm mục đích “tiến lên
chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn tích
luỹ tư bản chủ nghĩa trong khi xuất phát
điểm của Việt Nam chỉ là một nước nông
nghiệp lạc hậu . Những tiếng nói vượt ra
ngoài phạm vi “cái được nói” của thời đại
như vậy là nguyên nhân khiến tác phẩm
này không được đưa vào khu vực trung
tâm. Cũng sử dụng yếu tố huyền ảo để tiện
bề biểu đạt thông điệp nhưng không sử
dụng giọng giễu nhại mà bằng giọng cảm
thương, chất giọng thường gặp ở văn
chương lãng mạn 1932 – 1945 , Trần Duy,
trong iếng áo tiền kiếp [27] đã đặt câu
chuyện vào một toạ độ không – thời gian
siêu thực với những nhân vật siêu thực, qua
tình sử của người thổi sáo thôn Hoàng để
gửi tới thông điệp: con người, bên cạnh
hiện tại và tương lai c n có quá khứ và họ
cần được sống với quá khứ. Thông điệp
này là sự phản ứng, là tiếng nói trao đổi về
việc cách mạng đối xử thô bạo với văn hóa
truyền thống gồm cả văn hóa vật thể và
phi vật thể diễn ra gần như song hành với
những cuộc đấu tố địa chủ, phong kiến ở
thời cải cách ruộng đất. Sau này, khi được
hỏi về ẩn ý tác phẩm, Trần Duy chia s :
“Tiếng sáo tiền kiếp, nó được đ ra sau
thời kỳ chỉnh huấn. Con người ta ai cũng
qua cuộc đời cũ cả. Bắt tôi bỏ cuộc đời cũ
đi nhập vào cuộc đời mới, thì liệu có làm
được không ” [2 ]. Cũng như truyện iếng
áo tiền kiếp của Trần Duy, truyện Con
ng a gi c a chúa r nh cũng sử dụng yếu
tố nửa sự thực, nửa huyền ảo như vậy để
nói chuyện con người, cuộc đời đương đại.
Có lẽ, sau những câu chuyện về “con chó”,
“con ngựa” của Kim Lân, hùng Cung này,
nhà phê bình chỉnh huấn trở nên nhạy cảm,
dị ứng với hình ảnh các con, nên sau đó
“con ngan” hay “con nai”, “con hổ” của Vũ
Tú Nam, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Hồng
đều bị đón nhận bằng con mắt đầy nghi kị
và chúng đều bị phê bình, chỉnh huấn “lên
bờ xuống ruộng”. Và điều này đã ảnh
hưởng không nhỏ tới quá trình diễn ngôn
sau này của nhiều nhà văn. Kim Lân chẳng
hạn: “Có lần hỏi ông, tại sao trong suốt
mấy chục năm r ng ông không viết nữa,
ông cười hiền hậu trả lời: khi tác phẩm Con
chó xấu xí ra đời, bị người ta cho là chống
đối, ám chỉ, có vấn đề, thế là chán không
muốn viết nữa” [29]. hản ứng “không
muốn viết nữa” xuất hiện ở không ít nhà
16
văn có tâm và có tài nhưng bị “truất quyền
lên tiếng”. Điều ấy khiến đời sống văn học
thiệt th i, cũng khiến tinh thần nhân bản
của văn học bị sứt m , bởi lẽ, trong diễn
ngôn, nhờ diễn ngôn mà con người tồn tại.
Vì vậy, số phận của truyện ngắn ngoại biên
giai đoạn 1945 – 1975 và người viết nó
đáng để hậu thế suy ngẫm và rút ra bài học
trong cách cư xử với diễn ngôn nghệ thuật.
3. Kết luận
Như vậy, trong giai đoạn 1945 – 1975,
nếu như ở truyện ngắn thuộc khu vực trung
tâm, với mục đích tuyên truyền cách mạng,
chủ thể diễn ngôn đã chọn phương pháp
hiện thực xã hội chủ nghĩa làm phương
pháp sáng tác duy nhất, tối thượng thì ở
truyện ngắn thuộc khu vực ngoại biên, chủ
thể diễn ngôn, với ý đồ muốn nói thẳng,
nói thật theo tinh thần phê bình để rút kinh
nghiệm, để có thể làm tốt hơn, đã chọn con
đường phá rào, vượt khung phương pháp
sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Điều
này sẽ dẫn tới những khác biệt trong cách
kiến tạo văn bản ngôn từ và bức tranh thế
giới của mảng diễn ngôn truyện ngắn khu
vực ngoại biên trong so sánh với diễn ngôn
truyện ngắn khu vực trung tâm giai đoạn
30 năm sau cách mạng tháng Tám.
Chú thích
1. T.A.Van Dijk – đại diện tiêu biểu cho nghiên
cứu diễn ngôn trong ngôn ngữ học – quan niệm
diễn ngôn “vừa là một dạng thức cụ thể của sử
dụng ngôn ngữ vừa là một dạng thức của tương
tác xã hội, được giải thích như một sự kiện giao
tiếp hoàn thiện trong một ngữ cảnh xã hội cụ
thể” và “Diễn ngôn là sự kiện giao tiếp diễn ra
giữa người nói và người nghe người quan
sát trong tiến trình hoạt động giao tiếp ở một
ngữ cảnh thời gian, không gian, hay những ngữ
cảnh khác nào đó. Hoạt động giao tiếp này có
thể bằng lời nói, bằng văn viết, những bộ phận
hợp thành của nó có thể bằng lời hoặc không
lời” xem: T.A.van Dijk (1990), Handbook of
Language and Social Psychology, Edited by H.
Giles and W.P. Robinson. © 1990 John Wiley &
Sons Ltd, tr164, 165). Cách hiểu rộng về diễn
ngôn diễn ngôn là hoạt động giao tiếp, có thể
bằng lời nói hoặc văn viết và yếu tố “không lời”
cũng được xem là bộ phận hợp thành của sự
kiện này và việc tập trung vào cả hai bình diện:
bình diện cấu trúc - nghĩa và bình diện cấu trúc
– lời như vậy đã nới rộng phạm vi khảo sát diễn
ngôn sang các phương thức biểu đạt hiện thực,
từ đó mở ra hiểu biết mới về các đơn vị ngôn
ngữ. C n J.Kristeva, trong M t nền thi pháp học
ụp đổ quan niệm diễn ngôn là khái niệm chỉ
ngôn ngữ được phát ra bởi một chủ thể và/hoặc
cái mà một chủ thể thực hiện trong ngôn ngữ”
xem: Lã Nguyên tuy n d ch 1 , L u n
ăn học, nh ng n đề hiện đại, Nxb Đại học Sư
phạm, H, tr75 . Thống nhất với những cách hiểu
như trên, khi gọi văn học và những sáng tác văn
học là diễn ngôn, chúng tôi hướng sự chú ý vào
cái “lõi” nội dung ẩn chứa trong những tấm áo
ngôn từ nghệ thuật. Chúng tôi cũng đồng tình
với quan điểm của .Foucault: mỗi diễn ngôn
đều bị chi phối bởi một “cơ chế thầm kín” - đó
là hình thái xã hội, trạng thái tri thức của con
người và cơ chế quyền lực trong xã hội” (tham
khảo: Trần Đình Sử 2004 , Bản ch