Kiểm tra, đánh giá là một vấn đề quan trọng, vì vậy gần đây nhiều nhà giáo
dục, các cấp quản lí đã quan tâm đến vấn đề này.
Thông qua các hội nghị, lớp tập huấn, tinh thần đổi mới đã bắt đầu đi vào thực tế.
Phần lớn các GV ở trường phổ thông đã nhận thức được ý nghĩa to lớn của
việc kiểm tra, đánh giá và ít nhiều có sự cải tiến về nội dung, hình thức,
phương pháp dạy học.
Đã có những giáo viên, nhà trường tích cực và thu được kết quả tốt trong đổi
mới kiểm tra, đánh giá đồng bộ với cố gắng đổi mới phương pháp dạy học
nhưng chưa có nhiều và chưa được các cấp quản lí giáo dục quan tâm khuyến
khích, nhân rộng điển hình.
119 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1593 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu bồi dưỡng cán bộ quản lí và giáo viên biên soạn đề kiểm tra xây dựng thư viện câu hỏi và bài tập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ QUẢN LÍ VÀ GIÁO VIÊN
BIÊN SOẠN ĐỀ KIỂM TRA
XÂY DỰNG THƯ VIỆN CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
MÔN Hoá học
CẤP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(Tài liệu bồi dưỡng cốt cán)
Hà Nội, tháng 01/ 2011
VỤ GIÁO DỤC TRUNG HỌC CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC TRUNG HỌC
4
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
KTĐG: kiểm tra đánh giá
KT-KN: kiến thức – kĩ năng
THCS: trung học cơ sở
SGK: sách giáo khoa
SGV: sách giáo viên
HS: học sinh
GV: giáo viên
Đ/c: đồng chí
GD và ĐT: Giáo dục và Đào tạo
KT: kiểm tra
PPCT: phân phối chương trình
GDPT: giáo dục phổ thông
GDĐT: giáo dục đào tạo
CTPT: công thức phân tử
CTCT: công thức cấu tạo
KL: kim loại
PK: phi kim
dd: dung dịch
TNKQ: trắc nghiệm khách quan
TNTL: trắc nghiệm tự luận
PPDH: phương pháp dạy học
KTĐG: kiểm tra đánh giá
PPHT: phương pháp học tập
PP: phương pháp
CSVC: cơ sở vật chất
TBDH: thiết bị dạy học
CNTT: công nghệ thông tin
6
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu
Danh mục các chữ viết tắt
Mục lục
3
4
5
Phần thứ nhất
Những vấn đề chung về kiểm tra đánh giá
I. Một số khái niệm về kiểm tra đánh giá
1. Thực trạng công tác kiểm tra đánh giá
2. Quan niệm đánh giá theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học
3. Yêu cầu đổi mới công tác kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức,
kĩ năng môn học
8
9
11
II. Định hướng chỉ đạo về đổi mới kiểm tra đánh giá 12
1. Định hướng chỉ đạo về đổi mới kiểm tra đánh giá
2. Một số nhiệm vụ trong chỉ đạo về đổi mới kiểm tra đánh giá
14
16
Phần thứ hai
Thiết kế ma trận và biên soạn đề kiểm tra định kì
I. Thiết kế ma trận đề kiểm tra
1. Quy trình thiết kế ma trận đề kiểm tra
2. Khung ma trận đề kiểm tra
3. Ví dụ về các khâu thiết kế ma trận đề kiểm tra 1 tiết lớp 11 THPT
25
29
30
II. Biên soạn đề kiểm tra
1. Biên soạn câu hỏi theo ma trận 36
2. Xây dựng hướng dẫn chấm (đáp án) và thang điểm 37
3. Xem xét lại việc biên soạn đề kiểm tra
4. Ví dụ biên soạn đề kiểm tra theo ma trận đã thiết kế
38
39
III. Một số đề kiểm tra có ma trận kèm theo
1. Đề kiểm tra 1 tiết chương 5 + 6 Hoá học 10 THPT
2. Đề kiểm tra học kì và cuối năm
46
62
Phần thứ ba
Xây dựng thư viện câu hỏi và bài tập
1. Một số yêu cầu 83
7
2. Các bước tiến hành
3. Ví dụ minh hoạ
4. Thư viện câu hỏi học kì II lớp 12 THPT
85
86
90
Phần thứ tư
Hướng dẫn tổ chức tập huấn tại các địa phương
1. Nghiên cứu mục tiêu, nội dung, đối tượng, điều kiện bồi dưỡng
2. Xây dựng kế hoạch chi tiết đợt bồi dưỡng, tập huấn (thời gian, địa
điểm, số lượng, yêu cầu)
3. Xác định nhu cầu, đánh giá kết quả đợt bồi dưỡng thông qua các
mẫu phiếu thăm dò, khảo sát (trước và sau đợt bồi dưỡng)
119
120
Tài liệu tham khảo 121
8
Phần thứ nhất:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
Nội dung 1.1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
1. Thực trạng công tác kiểm tra, đánh giá trong dạy học môn học
1.1. Thuận lợi
Kiểm tra, đánh giá là một vấn đề quan trọng, vì vậy gần đây nhiều nhà giáo
dục, các cấp quản lí đã quan tâm đến vấn đề này.
Thông qua các hội nghị, lớp tập huấn, tinh thần đổi mới đã bắt đầu đi vào thực tế.
Phần lớn các GV ở trường phổ thông đã nhận thức được ý nghĩa to lớn của
việc kiểm tra, đánh giá và ít nhiều có sự cải tiến về nội dung, hình thức,
phương pháp dạy học.
Đã có những giáo viên, nhà trường tích cực và thu được kết quả tốt trong đổi
mới kiểm tra, đánh giá đồng bộ với cố gắng đổi mới phương pháp dạy học
nhưng chưa có nhiều và chưa được các cấp quản lí giáo dục quan tâm khuyến
khích, nhân rộng điển hình.
1.2. Khó khăn và nguyên nhân
a) Chưa đạt được sự thăng bằng: giáo viên dạy khác nhau nên kiểm tra, đánh
giá khác nhau.
Thiếu tính khách quan: phần lớn dựa vào các đề thi có sẵn và ép kiến thức
của học sinh theo các dạng câu hỏi được ấn định trước trong các đề thi có sẵn.
Thiếu tính năng động: do chưa thiết kế ma trận đề kiểm tra và chưa có thư
viện câu hỏi, bài tập nên số lượng câu hỏi kiểm tra rất hạn chế và chủ yếu dựa
vào nội dung của các sách bài tập, sách tham khảo, các đề thi tốt nghiệp THPT
hay các đề thi vào các trường đại học của các năm trước.
Coi nhẹ kiểm tra đánh giá chất lượng nắm vững bản chất hệ thống khái niệm
hoá học cơ bản, các định luật hóa học cơ bản, còn nặng về ghi nhớ và tái hiện.
Chưa chú ý đánh giá năng lực thực hành, tổng hợp kiến thức, vận dụng kiến
thức vào thực tiễn. Hầu như ít kiểm tra về thí nghiệm hoá học và năng lực tự
học của học sinh.
9
Chưa sử dụng các phương tiện hiện đại trong việc chấm bài và phân tích kết
quả kiểm tra để rút ra các kết luận đúng.
b) Trong quản lí chỉ đạo đã chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của đổi mới
thi, kiểm tra, đánh giá đối với việc tạo động cơ, thúc đẩy đổi mới phương
pháp dạy học, thể hiện:
Về thi, kiểm tra, đánh giá hiện vẫn còn nặng về yêu cầu học sinh học thuộc
lòng, nhớ máy móc; ít yêu cầu ở các mức độ cao hơn như hiểu, vận dụng kiến
thức, rèn luyện kĩ năng và giáo dục tình cảm, thái độ.
Chưa vận dụng linh hoạt các hình thức kiểm tra, chưa coi trọng đánh giá, giúp
đỡ học sinh học tập thông qua kiểm tra mà chỉ tập trung chú ý việc cho điểm bài
kiểm tra. Một số giáo viên, nhà trường lạm dụng hình thức trắc nghiệm.
Tình trạng trên đang là một trong những rào cản chính đối việc đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
và rèn luyện phương pháp tự học của học sinh; làm thui chột hứng thú và
động cơ học tập đúng đắn.
2. Quan niệm đánh giá theo chuẩn kiến thức, kỹ năng của môn học
2.1. Khái niệm kiểm tra có thể hiểu là việc thu thập những dữ liệu, thông tin
về một lĩnh vực nào đó là cơ sở cho việc đánh giá. Nói cách khác thì kiểm tra
là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét.
Khái niệm đánh giá có thể hiểu là căn cứ vào các kiến thức, số liệu, biểu đồ,
các dữ liệu, các thông tin để ước lượng năng lực hoặc phẩm chất để nhận định,
phán đoán và đề xuất quyết định. Nói ngắn gọn thì đánh giá là nhận định giá trị.
2.2. Ba chức năng của kiểm tra:
Ba chức năng này liên kết thống nhất với nhau.
a) Đánh giá kết quả học tập của HS là quá trình xác
định trình độ đạt tới những chỉ tiêu của mục đích dạy
học, xác định xem khi kết thúc một giai đoạn (một
bài, một chương, một học kỳ, một năm...) của quá
trình dạy học đã hoàn thiện đến một mức độ và kiến
thức về kỹ năng...
b) Phát hiện lệch lạc (theo lý thuyết thông tin) phát hiện ra những mặt đã đạt
được và chưa đạt được mà môn học đề ra đối với HS, qua đó tìm ra những khó
10
khăn và trở ngại trong quá trình học tập của HS... Xác định được những
nguyên nhân lệch lạc về phía người dạy cũng như người học để đề ra phương
án giải quyết.
c) Điều chỉnh qua kiểm tra (theo lý thuyết điều kiện) GV điều chỉnh kế hoạch
dạy học (nội dung và phương pháp sao cho thích hợp để loại trừ những lệch
lạc, tháo gỡ những khó khăn trở ngại, thúc đẩy quá trình học tập của HS).
2.3. Các thuật ngữ
- Đo: Kết quả trả lời hay làm bài của mỗi học sinh, ghi nhận bằng 1 số đo theo
quy tắc đã định thông thường (bằng điểm số theo thang bậc nhất định). Điểm
số là những ký hiệu gián tiếp, phản ánh trình độ của mỗi học sinh về mặt định
tính (giỏi, khá, trung bình...) và định hạng thứ bậc cao thấp của học sinh trong
học tập. Cần lưu ý rằng điểm số không có ý nghĩa về mặt định lượng. Ví dụ
không thể nói, trình độ của HS đạt điểm 10 là cao gấp đôi HS đạt điểm 5.
- Lượng giá: Dựa vào số đo mà đưa ra những thông tin ước lượng trình độ
kiến thức của HS.
+ Lượng giá theo chuẩn: là sự so sánh tương đối với chuẩn trung bình của lớp HS.
+ Lượng giá theo tiêu chí: là sự đối chiếu với các tiêu chí đã đề ra.
- Đánh giá:
+ Đánh giá chẩn đoán được tiến hành trước khi dạy một nội dung nào đó,
nhằm giúp GV nắm được tình hình về những kiến thức có liên quan với bài
học. Từ đó có kế hoạch dạy học phù hợp.
+ Đánh giá từng phần được tiến hành nhiều lần trong quá trình dạy học, nhằm
cung cấp những thông tin ngược để GV và HS kịp thời điều chỉnh cách dạy và
cách học.
+ Đánh giá tổng kết được tiến hành khi kết thúc kỳ học hay năm học khoá học
(thi).
- Ra quyết định: Đây là khâu cuối cùng trong quá trình đánh giá, GV quyết
định những biện pháp cụ thể để giúp đỡ học sinh có sai sót đặc biệt.
2.4. Vị trí của kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học.
Đầu tiên dựa vào mục tiêu của dạy học, GV đánh giá trình độ xuất phát của
học sinh (kiểm tra đầu vào) trên cơ sở đó mà có kế hoạch dạy học: Kiến thức
11
bộ môn rèn kỹ năng bộ môn để phát triển tư duy bộ môn. Kiến thức khoá học
lại kiểm tra đánh giá (đánh giá đầu ra) để phát hiện trình độ HS, điều chỉnh
mục tiêu và đưa ra chế độ dạy học tiếp theo.
Bản chất của khái niệm kiểm tra thuộc phạm trù phương pháp, nó giữ vai
trò liên hệ nghịch trong hệ điều hành quá trình dạy học, nó cho biết những
thông tin về kết quả vận hành, nó phần quan trọng quyết định cho sự điều
khiển tối ưu của hệ (cả GV và HS).
Kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học là hết sức phức tạp luôn luôn chứa
đựng những nguy cơ sai lầm, không chính xác. Do đó người ta thường nói:
"Kiểm tra -đánh giá" hoặc "đánh giá thông qua kiểm tra" để chứng tỏ mối
quan hệ tương hỗ và thúc đẩy lẫn nhau giữa hai công việc này.
3. Yêu cầu đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá theo chuẩn KT-KN của môn học
+ GV đánh giá sát đúng trình độ HS với thái độ khách quan, công minh và
hướng dẫn HS biết tự đánh giá năng lực của mình;
+ Trong quá trình dạy học, cần kết hợp một cách hợp lý hình thức tự luận với
hình thức trắc nghiệm khách quan trong KTĐG kết quả học tập của HS, chuẩn
bị tốt cho việc đổi mới các kỳ thi theo chủ trương của Bộ GDĐT.
12
+ Thực hiện đúng quy định của Quy chế Đánh giá, xếp loại HS THCS, HS
THPT do Bộ GDĐT ban hành, tiến hành đủ số lần kiểm tra thường xuyên,
kiểm tra định kỳ, kiểm tra học kỳ cả lý thuyết và thực hành.
+ Điểm kiểm tra thực hành (điểm hệ số 1), giáo viên căn cứ vào tường trình
thí nghiệm một bài thực hành (được thống nhất trước trong toàn tỉnh) theo
hướng dẫn, rồi thu và chấm lấy điểm thực hành.
+ Các bài kiểm tra định kỳ (kiểm tra 01 tiết, kiểm tra học kỳ và kiểm tra cuối
năm học) cần được biên soạn trên cơ sở thiết kế ma trận cho mỗi đề.
+ Bài kiểm tra 45 phút nên thực hiện ở cả hai hình thức: trắc nghiệm khách
quan và tự luận (tỉ lệ nội dung kiến thức và điểm phần trắc nghiệm khách
quan tối đa là 50%). Bài kiểm tra cuối học kì nên tiến hành dưới hình thức
100% tự luận. Trong quá trình dạy học giáo viên cần phải luyện tập cho học
sinh thích ứng với cấu trúc đề thi và hình thức thi TNPT mà Bộ GDĐT tổ
chức hằng năm.
Nội dung 1.2: ĐỊNH HƯỚNG CHỈ ĐẠO VỀ ĐỔI MỚI KIỂM TRA ĐÁNH
GIÁ
Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh nhằm theo dõi quá trình
học tập của học sinh, đưa ra các giải pháp kịp thời điều chỉnh phương pháp dạy
của thày, phương pháp học của trò, giúp học sinh tiến bộ và đạt được mục tiêu
giáo dục.
Theo Từ điển Tiếng Việt, kiểm tra được hiểu là: Xem xét tình hình thực tế
để đánh giá, nhận xét. Như vậy, việc kiểm tra sẽ cung cấp những dữ kiện, những
thông tin cần thiết làm cơ sở cho việc đánh giá học sinh.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng: “Kiểm tra là thuật ngữ chỉ cách thức hoặc
hoạt động giáo viên sử dụng để thu thập thông tin về biểu hiện kiến thức, kỹ năng
và thái độ học tập của học sinh trong học tập nhằm cung cấp dữ kiện làm cơ sở
cho việc đánh giá”; Kiểm tra được hiểu theo nghĩa rộng như là theo dõi quá trình
học tập và cũng có thể được hiểu theo nghĩa hẹp như là công cụ kiểm tra hoặc
một bài kiểm tra trong các kỳ thi”; “Việc kiểm tra cung cấp những dữ kiện,
những thông tin làm cơ sở cho việc đánh giá”.
Có nhiều khái niệm về Đánh giá, được nêu trong các tài liệu của nhiều tác
giả khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Đánh giá được hiểu là nhận định giá
13
trị”. Dưới đây là một số khái niệm thường gặp trong các tài liệu về đánh giá kết
quả học tập của học sinh:
- “Đánh giá là quá trình thu thập và xử lí kịp thời, có hệ thống thông tin về hiện
trạng, khả năng hay nguyên nhân của chất lượng và hiệu quả giáo dục căn cứ vào
mục tiêu giáo dục, làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp và hành động giáo
dục tiếp theo nhằm phát huy kết quả, sửa chữa thiếu sót”.
- “Đánh giá kết quả học tập của học sinh là quá trình thu thập và xử lí thông tin
về trình độ, khả năng đạt được mục tiêu học tập của HS cùng với tác động và
nguyên nhân của tình hình đó, nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của
giáo viên và nhà trường để HS học tập ngày một tiến bộ hơn”.
- “Đánh giá có nghĩa là: Thu thập một tập hợp thông tin đủ, thích hợp, có giá trị
và đáng tin cậy; và xem xét mức độ phù hợp giữa tập hợp thông tin này và một
tập hợp tiêu chí phù hợp với các mục tiêu định ra ban đầu hay điều chỉnh trong
quá trình thu thập thông tin; nhằm ra một quyết định”
- “Đánh giá được hiểu là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết
quả công việc, dựa vào sự phân tích những thông tin thu được đối chiếu với mục
tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện
thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục”.
- “Đánh giá là quá trình thu thập thông tin, chứng cứ về đối tượng đánh giá và
đưa ra những phán xét, nhận định về mức độ đạt được theo các tiêu chí đã đưa ra
trong các chuẩn hay kết quả học tập” (mô hình ARC).
- “Đánh giá là quá trình thu thập thông tin, chứng cứ về đối tượng đánh giá và
đưa ra những phán xét, nhận định về mức độ đạt được theo các tiêu chí đã được
đưa ra trong các tiêu chuẩn hay kết quả học tập. Đánh giá có thể là đánh giá định
lượng (quantitative) dựa vào các con số hoặc định tính (qualitative) dự vào các ý
kiến và giá trị”.
Đánh giá gồm có 3 khâu chính là: Thu thập thông tin, xử lí thông tin và ra
quyết định. Đánh giá là một quá trình bắt đầu khi chúng ta định ra một mục tiêu
phải theo đuổi và kết thúc khi đưa ra quyết định liên quan đến mục tiêu đó, đồng
thời cũng lại mở đầu cho một chu trình giáo dục tiếp theo.
Đánh giḠthực hiện đồng thời 2 chức năng: vừa là nguồn thông tin phản
hồi về quá trình dạy học, vừa góp phần điều chỉnh hoạt động này.
14
Chuẩn đánh giá là căn cứ quan trọng để thực hiện việc đánh giá, chuẩn
được hiểu là yêu cầu cơ bản, tối thiểu cần đạt được trong việc xem xét chất lượng
sản phẩm.
Việc đánh giá phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau đây
1. Đảm bảo tính khách quan, chính xác
Phản ánh chính xác kết quả như nó tồn tại trên cơ sở đối chiếu với mục tiêu
đề ra, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người đánh giá.
2. Đảm bảo tính toàn diện
Đầy đủ các khía cạnh, các mặt cần đánh giá theo yêu cầu và mục đích.
3. Đảm bảo tính hệ thống
Tiến hành liên tục và đều đặn theo kế hoạch nhất định, đánh giá thường
xuyên, có hệ thống sẽ thu được những thông tin đầy đủ, rõ ràng và tạo cơ sở để
đánh giá một cách toàn diện.
4. Đảm bảo tính công khai và tính phát triển
Đánh giá được tiến hành công khai, kết quả được công bố kịp thời, tạo ra
động lực để thúc đẩy đối tượng được đánh giá mong muốn vươn lên, có tác dụng
thúc đẩy các mặt tốt, hạn chế mặt xấu.
5. Đảm bảo tính công bằng
Đảm bảo rằng những học sinhthực hiện các hoạt động học tập với cùng một
mức độ và thể hiện cùng một nỗ lực se nhận được kết quả đánh giá như nhau.
1. Định hướng chỉ đạo đổi mới kiểm tra, đánh giá
1) Phải có sự hướng dẫn, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp QLGD
Đổi mới KT-ĐG là một yêu cầu cần thiết phải tiến hành khi thực hiện đổi
mới PPDH cũng như đổi mới giáo dục. Đổi mới GD cần đi từ tổng kết thực tiễn
để phát huy ưu điểm, khắc phục các biểu hiện hạn chế, lạc hậu, yếu kém, trên cơ
sở đó tiếp thu vận dụng các thành tựu hiện đại của khoa học GD trong nước và
quốc tế vào thực tiễn nước ta. Các cấp quản lý GD cần chỉ đạo chặt chẽ, coi trọng
việc hướng dẫn các cơ quan quản lý GD cấp dưới, các trường học, các tổ chuyên
môn và từng GV trong việc tổ chức thực hiện, sao cho đi đến tổng kết, đánh giá
được hiệu quả cuối cùng. Thước đo thành công của các giải pháp chỉ đạo là sự
15
đổi mới cách nghĩ, cách làm của từng CBQLGD, của mỗi GV và đưa ra được các
chỉ số nâng cao chất lượng dạy học.
2) Phải có sự hỗ trợ của đồng nghiệp, nhất là GV cùng bộ môn
Đơn vị tổ chức thực hiện đổi mới PPDH, đổi mới KT-ĐG là trường học,
môn học với một điều kiện tổ chức dạy học cụ thể. Do việc đổi mới KT-ĐG phải
gắn với đặc trưng mỗi môn học, nên phải coi trọng vai trò của các tổ chuyên
môn, là nơi trao đổi kinh nghiệm giải quyết mọi khó khăn, vướng mắc. Trong
việc tổ chức thực hiện đổi mới KT-ĐG, cần phát huy vai trò của đội ngũ GV giỏi
có nhiều kinh nghiệm, GV cốt cán chuyên môn để hỗ trợ GV mới, GV tay nghề
chưa cao, không để GV nào phải đơn độc. Phải coi trọng hình thức hội thảo, thao
giảng, dự giờ thăm lớp để rút kinh nghiệm kịp thời, đánh giá hiệu quả từng giải
pháp cụ thể trong việc đổi mới PPDH và đổi mới KT-ĐG: ra đề kiểm tra bảo đảm
chất lượng, kết hợp hình thức tự luận với trắc nghiệm cho phù hợp với đặc trưng
bộ môn.
3) Cần lấy ý kiến xây dựng của HS để hoàn thiện PPDH và KT-ĐG
Đổi mới PPDH và đổi mới KT-ĐG chỉ mang lại kết quả khi HS phát huy
vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo, biết tự tìm cho mình PP học tập hữu hiệu,
biết tự học, tự đánh giá kết quả học tập. Trong môi trường sư phạm thân thiện,
việc thu thập ý kiến xây dựng của HS để giúp GV đánh giá đúng về mình, tìm ra
con đường khắc phục các hạn chế, thiếu sót, hoàn thiện PPDH, đổi mới KT-ĐG
là hết sức cần thiết và là cách làm mang lại nhiều lợi ích, phát huy mối quan hệ
thúc đẩy tương hỗ giữa người dạy và người học.
4) Đổi mới KT-ĐG phải đồng bộ với các khâu liên quan và nâng cao các
điều kiện bảo đảm chất lượng dạy học
Đổi mới KT-ĐG gắn liền với đổi mới PPDH của GV và đổi mới PPHT của
HS, kết hợp đánh giá trong với đánh giá ngoài. Ở cấp độ thấp, GV có thể dùng đề
kiểm tra của người khác (của đồng nghiệp, do nhà trường cung cấp, từ nguồn dữ
liệu trên các Website chuyên ngành) để KT-ĐG kết quả học tập của HS lớp mình.
Ở cấp độ cao hơn, nhà trường có thể trưng cầu một trường khác, cơ quan chuyên
môn bên ngoài tổ chức KT-ĐG kết quả học tập của HS trường mình.
Đổi mới KT-ĐG chỉ có hiệu quả khi kết hợp đánh giá của GV với tự đánh
giá của HS. Sau mỗi kỳ kiểm tra, GV cần bố trí thời gian trả bài, hướng dẫn HS
tự đánh giá kết quả làm bài, tự cho điểm bài làm của mình, nhận xét mức độ
16
chính xác trong chấm bài của GV. Trong quá trình dạy học và khi tiến hành KT-
ĐG, GV phải biết “khai thác lỗi” để giúp HS tự nhận rõ sai sót nhằm rèn luyện
PPHT, PP tư duy.
Chỉ đạo đổi mới KT-ĐG phải đồng thời với nâng cao phẩm chất và năng lực
của đội ngũ GV, đầu tư nâng cấp CSVC, trong đó có thiết bị dạy học và tổ chức
tốt các phong trào thi đua mới phát huy đầy đủ hiệu quả.
5) Phát huy vai trò thúc đẩy của đổi mới KT-ĐG đối với đổi mới PPDH
Trong mối quan hệ hai chiều giữa đổi mới KT-ĐG với đổi mới PPDH, khi
đổi mới mạnh mẽ PPDH sẽ đặt ra yêu cầu khách quan phải đổi mới KT-ĐG, bảo
đảm đồng bộ cho quá trình hướng tới nâng cao chất lượng dạy học. Khi đổi mới
KT-ĐG bảo đảm yêu cầu khách quan, chính xác, công bằng sẽ tạo tiền đề xây
dựng môi trường sư phạm thân thiện, tạo động lực mới thúc đẩy đổi mới PPDH
và đổi mới công tác quản lý. Từ đó, sẽ giúp GV và các cơ quan quản lý xác định
đúng đắn hiệu quả giảng dạy, tạo cơ sở để GV đổi mới PPDH và các cấp quản lý
đề ra giải pháp quản lý phù hợp.
6) Phải đưa nội dung chỉ đạo đổi mới KT-ĐG vào trọng tâm cuộc vận động
"Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo" và phong trào
thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Trong nhà trường, hoạt động dạy học là trung tâm để thực hiện nhiệm vụ
chính trị được giao, thực hiện sứ mệnh “trồng người”. Hoạt động dạy học chỉ đạt
hiệu quả cao khi tạo lập được môi trường