Những vi sinh vật có khả năng sinh methane (mêtan), mẫn cảm với oxygen và có cấu trúc màng tế bào đặc biệt đã được biết đến từ lâu nhưng mãi đến cuối những năm 1970 chúng mới được nhìn nhận như đại diện của một dạng sống thứ ba trên trái đất bên cạnh vi khuẩn và sinh vật nhân thật, đó là cổ khuẩn. Carl R. Woesevà cộng sự (1977) sau khi xem xét trình tự 16S rARN nhận thấy rằng cácsinh vật nhân nguyên thuỷ (Prokaryote) cần được chia thành hai nhóm khác biệt nhau hoàn toàn là Vi khuẩn (Eubacteriahay Bacteria) và Cổ khuẩn (Archaeabacteria hayArchaea), và cùng với các Sinh vật nhân thật (Eukarya) làm thành ba lĩnh giới (Domains) ở sinh v ật (Hình 1).
16 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1981 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu Cổ khuẩn (Archaea), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 5 Cổ khuẩn(Archaea)
Phân loại cổ khuẩn
Mở đầu
Những vi sinh vật có khả năng sinh methane (mêtan), mẫn cảm với
oxygen và có cấu trúc màng tế bào đặc biệt đã được biết đến từ lâu
nhưng mãi đến cuối những năm 1970 chúng mới được nhìn nhận như
đại diện của một dạng sống thứ ba trên trái đất bên cạnh vi khuẩn và
sinh vật nhân thật, đó là cổ khuẩn. Carl R. Woese và cộng sự (1977)
sau khi xem xét trình tự 16S rARN nhận thấy rằng các sinh vật nhân
nguyên thuỷ (Prokaryote) cần được chia thành hai nhóm khác biệt
nhau hoàn toàn là Vi khuẩn (Eubacteria hay Bacteria) và Cổ khuẩn
(Archaeabacteria hay Archaea), và cùng với các Sinh vật nhân thật
(Eukarya) làm thành ba lĩnh giới (Domains) ở sinh vật (Hình 1). Các
nghiên cứu sâu hơn về phả hệ và đặc điểm sinh lý sinh hoá cho thấy
rằng cổ khuẩn được tách ra từ rất sớm trong quá trình tiến hoá, chúng
không gần vi khuẩn nhiều hơn so với sinh vật nhân thật, do vậy tên
gọi Archaea được đề xuất thay cho Archaeabacteria. Hiện nay cả hai
tên gọi Archaea và Archaeabacteria đều được sử dụng trong các tài liệu vi sinh vật, tuy nhiên thuật
ngữ Archaea chính xác hơn vì rõ ràng cổ khuẩn không phải vi khuẩn mà là một nhóm vi sinh vật
riêng biệt.
Hình 1. Ba lĩnh giới của sinh vật: Vi khuẩn (Bacteria), Cổ khuẩn (Archaea) và Sinh vật nhân thật
(Eukarya).
Cổ khuẩn là một nhóm vi sinh vật đặc biệt
Cổ khuẩn (Archaea) bắt nguồn từ tiếng La tinh Archaios có nghĩa là cổ, là một nhóm vi sinh vật có
nhiều đặc điểm rất khác biệt (Bảng 1).
Bảng 1. Những đặc điểm khác biệt của cổ khuẩn so với vi khuẩn và sinh vật nhân thật
Đặc điểm Vi khuẩn (Bacteria) Cổ khuẩn(Archaea)
Sinh vật nhân thật
(Eukarya)
Thành tế bào Peptidoglycan
Pseudo-peptidoglycan,
protein, polysaccharid,
glycoprotein
cellulose, carbonat,
silicat, chitin…
Màng tế bào Este-lipid Ete-lipid Este-lipid
ARN polymeraza (trên
khuôn ADN)
Chỉ có một loại
4 đơn vị 2’
Có nhiều loại
7 12 đơn vị
Có ba loại
7 12 đơn vị
Ribosom 70 S 70 S 80 S
Phản ứng của ribosom
với độc tố bạch hầu Đề kháng Mẫn cảm Mẫn cảm
Cũng như tế bào vi khuẩn, tế bào cổ khuẩn (ngoại trừ chi Thermoplasma) có thành tế bào
bên ngoài giữ chức năng bảo vệ. Tuy nhiên, không như ở vi khuẩn, thành tế bào của cổ khuẩn
không chứa peptidoglycan và vì thế không bị phá huỷ dưới tác dụng của lysozym. Cổ khuẩn có rất
nhiều dạng cấu trúc thành tế bào khác nhau. Một số cổ khuẩn (như các loài sinh methane) có thành
tế bào cấu tạo bởi một loại polysaccharid rất giống với peptidoglycan được gọi là pseudo-
peptidoglycan (pseudomurein). Chuỗi pseudo-peptidoglycan gồm các đơn nguyên N-acetyl-
glucosamin và N-acetyl-alosamin-uronic acid (thay cho N-acetyl-muramic acid trong
peptidoglycan). Ngoài ra, ở đây cầu nối glycosid 13 thay thế cho cầu nối glycosid 14 ở
peptidoglycan. Một số cổ khuẩn khác lại hoàn toàn không có cả peptidoglycan và pseudo-
peptidoglycan trong thành tế bào mà thay vào đó là hỗn hợp gồm polysaccharid, glycoprotein hoặc
protein. Ví dụ như các loài Methanosarcina (cổ khuẩn sinh methane) có thành tế bào là một lớp
polysaccharid dày cấu tạo từ glucoza, glucuronic acid, galactosamin và acetat. Các loài cổ khuẩn ưa
mặn cực đoan (extreme halophiles) như là Halococcus có thành tế bào tương tự như
Methanosarcina nhưng chứa nhiều hợp chất có nhóm sulfat giống như chondroitin sulfat ở tổ chức
liên kết của động vật. Dạng cấu trúc thành tế bào phổ biến nhất ở cổ khuẩn là lớp paracrystallin bề
mặt (S-layer) gồm protein hay glycoprotein. Cấu trúc này được tìm thấy ở các đại diện thuộc tất cả
các nhóm cổ khuẩn, từ ưa mặn cực đoan (extremely halophilic), ưa nhiệt cực đoan (extremely
thermophilic) và cả các loài sinh methane. Đặc biệt các chi Methanospirillum và Methanothrix (cổ
khuẩn sinh methane) có cấu trúc thành tế bào vô cùng phức tạp. Các loài thuộc hai chi này mọc
thành chuỗi dài gồm nhiều tế bào, ở giữa mỗi cặp tế bào có một lớp đệm dày và toàn bộ cấu trúc
chuỗi đó lại được bọc kín trong một lớp paracrystallin bề mặt.
Thành phần và cấu trúc lipid của màng tế
bào là một trong những đặc điểm nổi bật phân biệt
cổ khuẩn và hai nhóm còn lại. Trong khi ở vi khuẩn
và sinh vật nhân thật cầu nối acid béoglycerol
trong lipid màng tế bào là liên kết este (ester) thì ở
cổ khuẩn lại là liên kết ete (ether) (Hình 2). Acid
béo trong este-lipid thường là các phân tử ngắn,
mạch thẳng. Trái lại, acid béo trong ete-lipid là các
phân tử mạch dài, phân nhánh, thuộc cả hai dạng
phytanyl (C20cacbuahydro tổng hợp từ isopren) và
biphytanyl (C40). Do chỉ có ở cổ khuẩn và không bị
biến đổi dưới nhiệt độ cao nên isopren-lipid được
lấy làm chất chỉ thị của cổ khuẩn hoá thạch.
Enzyme polymeraza thực hiện quá trình sao
mã trên khuôn ADN (DNA-dependent RNA
polymerase) ở ba lĩnh giới sinh vật cũng có nhiều
điểm khác nhau. Vi khuẩn chỉ có một loại ARN-
polymeraza có cấu trúc không gian đơn giản, gồm
bốn chuỗi polypeptid 2, 1, 1’ và một nhân tố
không cố định. Cổ khuẩn có nhiều loại ARN-
polymeraza, cấu trúc mỗi loại lại phức tạp hơn
nhiều so với ARN-polymeraza vi khuẩn. ARN-
polymeraza của cổ khuẩn sinh methane và các loài
ưa mặn (halophilic) gồm tám chuỗi polypeptid (5
chuỗi dài và 3 chuỗi ngắn). ARN-polymeraza ở cổ
khuẩn ưa nhiệt cao (hyper-thermophilic) lại phức
tạp hơn, gồm ít nhất 10 chuỗi peptid. Polymeraza
thực hiện quá trình tổng hợp ARN thông tin (mARN) ở sinh vật nhân thật gồm 10-12 chuỗi
polypeptid có kích thước tương tự như ở ARN-polymeraza của cổ khuẩn ưa nhiệt cao. Ngoài ra,
sinh vật nhân thật còn có hai loại ARN-polymeraza khác nữa đặc hiệu cho quá trình tổng hợp ARN
của ribosom (rARN) và ARN vận chuyển (tARN). Như vậy chất kháng sinh rifampicin có tác dụng
ức chế đơn vị của polymeraza chỉ có hiệu quả đối với vi khuẩn vì cổ khuẩn và sinh vật nhân thật
không có loại polymeraza này.
Với những điểm khác biệt trong trình tự 16S rARN cũng như cấu trúc ARN-polymeraza,
hiển nhiên bộ máy sinh tổng hợp protein của ba lĩnh giới sinh vật cũng sẽ không đồng nhất. Tuy có
kích thước của ribosom giống với vi khuẩn (70S) nhưng cổ khuẩn lại có nhiều bước trong quá trình
sinh tổng hợp protein rất giống với sinh vật nhân thật (80S ribosom). Nhiều chất kháng sinh ức chế
quá trình sinh tổng hợp protein ở vi khuẩn lại không có hiệu lực đối với cổ khuẩn và sinh vật nhân
thật (Bảng 2). Ngoài ra, tương tự như ở sinh vật nhân thật, nhân tố kéo dài EF-2 trong ribosom ở cổ
khuẩn có phản ứng với độc tố bạch hầu, một loại độc tố vô hại đối với vi khuẩn. Tuy nhiên nhân tố
EF-2 ở cổ khuẩn mang tính đặc hiệu cao, nhân tố này hoàn toàn không hoạt động trong môi trường
ribosom của vi khuẩn hoặc sinh vật nhân thật. Các thí nghiệm lai ribosom in vitro cho thấy ribosom
ghép giữa đơn vị lớn (50S) của cổ khuẩn và đơn vị nhỏ (40S) của sinh vật nhân thật vẫn thức hiện
chức năng giải mã một cách bình thường, trong khi đó việc ghép tương tự giữa vi khuẩn và sinh vật
nhân thật lại hoàn toàn không tương thích. Như vậy cấu trúc bộ máy sinh tổng hợp protein của cổ
khuẩn có nhiều điểm tương đồng với sinh vật nhân thật hơn là với vi khuẩn.
Hình 2. Lipid trong màng tế bào của cổ
khuẩn (ete-lipid) khác với của vi khuẩn và
sinh vật nhân thật (este-lipid)
Giống như vi khuẩn, cổ khuẩn có một nhiễm sắc thể dạng vòng, tuy nhiên genom của cổ
khuẩn thường nhỏ hơn nhiều so với genom của vi khuẩn. Chẳng hạn ADN của Escherichia coli là
2,5 x 109 Da, trong khi đó ADN của Thermoplasma acidophilum là 0,8 x 109 Da, hay của
Methanobacterium là 1,1 x 109 Da. Ngoài ra thành phần GC (mol%) của ADN ở cổ khuẩn dao động
trong phạm vi rất lớn, từ 21 đến 68 %, chứng tỏ tính đa dạng của cổ khuẩn. So sánh trình tự đầy đủ
của genom ở cổ khuẩn Methanococcus jannaschi với genom của vi khuẩn và sinh vật nhân thật cho
thấy 56% trong 1738 gen không tương đồng.
Bảng 2. Tính mẫn cảm của đại diện ba lĩnh giới sinh vật đối với các chất ức chế quá trình
sinh tổng hợp protein
Cổ khuẩn Vi khuẩn Sinh vật nhân
thật Chất kháng
sinh
Tác dụng ức chế
Methano-
bacterium
Sulfo-
lobus
Escheri-
chia coli
Saccharomyces
cerevisae
Cycloheximid Ức chế bước khởi
đầu
+
Virginiamycin,
pulvomycin
Ức chế bước kéo
dài + +
Neomycin,
puromycin
Dừng tổng hợp
sớm + + + +
Rifamycin Ức chế enzyme ARN polymeraza +
Erythromycin,
streptomycin,
chloramfenicol
Tăng tần số mắc
lỗi và một số hiệu
ứng khác
+
Các hình thức dinh dưỡng ở cổ khuẩn
Cổ khuẩn có nhiều hình thức dinh dưỡng: hoá dưỡng hữu cơ (chemoorganotrophy), hoá dưỡng vô
cơ (chemolithotrophy), tự dưỡng (autotrophy), hay quang hợp (phototrophy). Hoá dưỡng hữu cơ là
hình thức dinh dưỡng của nhiều loài cổ khuẩn, tuy nhiên các chu trình phân giải chất hữu cơ thường
có một số điểm khác biệt so với vi khuẩn. Cổ khuẩn ưa mặn (halophiles) và ưa nhiệt cực đoan
(extreme thermophiles) phân giải glucoza theo một dạng cải biên của con đường Entner-Doudoroff
(E-D). Nhiều loài cổ khuẩn lại có khả năng sản sinh ra glucoza từ các chất ban đầu không phải là
hydratcarbo (gluconeogenesis) thông qua các bước đảo ngược của quá trình glycolysis (con đường
Embden-Meyerhof). Oxygen hoá acetat thành CO2 được thực hiện qua chu trình TCA (đôi khi với
một số thay đổi trong các bước phản ứng), hoặc qua con đường acetyl-CoA (Ljungdahl-Wood). Các
thành phần của chuỗi vận chuyển điện tử như ở vi khuẩn đều được tìm thấy ở cổ khuẩn, trong đó
cytochroma, b và c có ở các loài ưa mặn cực đại, cytochroma có ở một số loài ưa nhiệt cao.
Mô phỏng dựa trên chuỗi chuyển điện tử ở phần lớn cổ khuẩn cho thấy chúng thu nạp điện tử từ
chất cho vào chuỗi ở nấc thang NADH, oxygen hoá chất nhận điện tử cuối cùng là O2, S0 hay một
số chất khác, đồng thời tạo ra lực đẩy proton (proton motiv force) để tổng hợp ATP nhờ bộ máy
ATPaza khư trú trong màng tế bào. Hoá dưỡng vô cơ khá phổ biến ở cổ khuẩn, trong đó hydro
thường được sử dụng làm chất cho điện tử.
Tự dưỡng đặc biệt phổ biến ở cổ khuẩn và diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Ở cổ
khuẩn sinh methane và cổ khuẩn hoá dưỡng vô cơ ưa nhiệt cao CO2 được chuyển hoá thành các hợp
chất hữu cơ qua con đường acetyl-CoA, trong đó một số loài có cải biên ở các bước phản ứng khác
nhau. Một số loài cổ khuẩn khác (như Thermoproteus) cố định CO2 theo chu trình citric acid đảo
ngược, tương tự như ở vi khuẩn lam lưu huỳnh. Mặc dù các loài cổ khuẩn ưa nhiệt cực đoan đều
thực hiện hình thức dinh dưỡng hữu cơ nhưng nhiều loài vẫn có khả năng cố định CO2 và thực hiện
quá trình này theo chu trình Calvin, tương tự như ở vi khuẩn và sinh vật nhân thật.
Khả năng quang hợp có ở một số loài cổ khuẩn ưa mặn cực đoan, tuy nhiên khác với vi khuẩn,
quá trình này được thực hiện hoàn toàn không có sự tham gia của chlorophill hay
bacteriochlorophill mà nhờ một loại protein ở màng tế bào là bacteriorhodopsin kết gắn với phân tử
tương tự như carotenoid có khả năng hấp phụ ánh sáng, xúc tác cho quá trình chuyển proton qua
màng nguyên sinh chất và sử dụng để tổng hợp ATP. Tuy nhiên, bằng hình thức quang hợp này cổ
khuẩn ưa mặn cực đoan chỉ có thể sinh trưởng với tốc độ thấp trong điều kiện kỵ khí, khi môi
trường thiếu chất dinh dưỡng hữu cơ.
Môi trường sống của cổ khuẩn và giả thuyết về hình thành sự
sống trên trái đất
Cổ khuẩn được biết đến như những vi sinh vật thích nghi với các môi trường có điều kiện cực đoan
(extreme) như nhiệt độ cao (thermophilic), nơi lạnh giá (psychrophilic), nồng độ muối cao
(halophilic) hay độ acid cao (acidophilic) v.v. Đó cũng là một lý do giải thích tại sao cổ khuẩn lại
khó được phân lập và nuôi cấy trong điều kiện phòng thí nghiệm. Trong giới sinh vật, cổ khuẩn có
các đại diện cư trú ở các điều kiện nhiệt độ cao hơn cả (Bảng 3, Hình 3), nhiều loài có thể sống ở
nhiệt độ trên 100 C dưới áp suất cao như ở các miệng núi lửa dưới đáy đại dương. Cơ chế thích
nghi của tế bào vi sinh vật với nhiệt độ cao như vậy còn đang được nghiên cứu. Ở cổ khuẩn, một số
phương thức thích nghi với nhiệt độ cao được biết đến như tác dụng của enzyme gyraza trong việc
bảo vệ cấu trúc xoắn của ADN dưới tác động của nhiệt, hay ete-lipid, nhất là C40-lipid trong màng
tế bào của cổ khuẩn, giúp làm tăng đô bền vững của màng. Tuy nhiên cổ khuẩn không chỉ sống ở
các môi trường cực đoan. Ngoài đại dương cổ khuẩn tồn tại với một số lượng lớn. Trên đất liền các
loài cổ khuẩn sinh methane ưa ấm có mặt ở nhiều môi trường khác nhau, như các bể lên men chất
thải hữu cơ, các chân ruộng lúa ngập nước, đường tiêu hoá của động vật v.v.
Bảng 3. Nhiệt độ phát triển cao nhất của các đại diện sinh vật trên trái đất
Cá 38 C
Côn trùng 50
Động vật đơn bào 50
Tảo 56
Nấm 60
Vi khuẩn thường 90
Cổ khuẩn 113
Khả năng thích nghi đối với các điều kiện sống cực đoan của cổ khuẩn là cơ sở để giả thuyết
rằng chúng là những sinh vật sống đầu tiên xuất hiện trên trái đất. Trái đất của chúng ta trong thời
kỳ đầu có nhiệt độ rất cao, khoảng 100 C trở lên, chứa nhiều ammon và khí methane trong khí
quyển, do vậy những dạng sống đầu tiên phải là các sinh vật yếm khí và ưa nhiệt cao (hyper-
thermophiles). Với các đặc điểm sinh lý như tính ưa nhiệt, sống kỵ khí, sử dụng các chất hữu cơ và
vô cơ là nguồn năng lượng, các loài cổ khuẩn ưa nhiệt cao có lẽ phù hợp với dạng sống nguyên thuỷ
mô phỏng theo điều kiện của trái đất trong thời kỳ đầu. Trong thực tế, chất chỉ thị mạch isoprene-
lipid thành phần màng tế bào của cổ khuẩn được tìm thấy trong các lớp trầm tích có tuổi là 3,8 tỷ
năm. Các nghiên cứu dựa trên trình tự 16S rARN cho thấy cổ khuẩn, đặc biệt là nhóm cổ khuẩn ưa
nhiệt cao, tiến hoá chậm hơn đáng kể so với vi khuẩn và sinh vật nhân thật. Tuy nhiên tốc độ tiến
hoá chậm của cổ khuẩn so với hai lĩnh giới còn lại có thể do môi trường sống khắc nghiệt của chúng
tạo ra. Cho đến nay câu hỏi về nguồn gốc sự sống và vai trò của cổ khuẩn trong đó vẫn còn đang
tiếp tục được tranh luận.
Hình 3. Một trong những nơi đầu tiên cổ khuẩn được tìm thấy: suối nước nóng trong công viên
Quốc gia Yellowstone (Mỹ).
Phả hệ cổ khuẩn dựa trên trình tự 16S rARN
Dựa trên so sánh trình tự 16S rARN các đại diện cổ khuẩn đã phân lập được chia thành hai nhóm
chính là Euryarchaeota và Crenarchaeota (Hình 4,5). Euryarchaeota là nhóm cổ khuẩn được biết
rõ nhất, bao gồm nhiều loài sinh methane, cổ khuẩn ưa mặn, khử sulfat (Archaeoglobales),
Thermoplasmalates và Thermococcales. Nhóm Crenarchaeota gồm ba lớp Desulfococcales,
Sulfolobales và Thermoproteales. Sau này nhóm cổ khuẩn Korarchaeota được đề xuất thêm (Hình
6), tuy nhiên chỉ dựa trên các trình tự 16S rADN có được từ các mẫu ADN tách trực tiếp từ môi
trường chứ chưa có đại diện nào được phân lập và nuôi cấy trong phòng thí nghiệm.
Hình 4. Các đại diện của hai nhóm cổ khuẩn Crenarchaeota và Euryarchaeota.
Hình 5. Hình thái một số đại diện của hai nhóm cổ khuẩn Euryarchaeota và Crenarchaeota
Hình 6 Mối liên quan phả hệ của ba nhóm cổ
khuẩn Euryarchaeota và Crenarchaeota và
Korarchaeota
Hình 7 Nanoarchaeum equitans (cầu
khuẩn nhỏ) trên bề mặt Ignicoccus sp.
(cầu khuẩn lớn)
Gần đây (2002), nhóm nghiên cứu của giáo sư Stetter, một trong những nhà nghiên cứu cổ
khuẩn hàng đầu thế giới, công bố sự hiện diện của nhóm cổ khuẩn thứ tư, Nanoarchaeota, gồm
những cổ khuẩn có kích thước rất nhỏ với một đại diện duy nhất được tìm thấy là Nanoarchaeum
equitans (Hình 7). Loài cổ khuẩn này có tế bào hình cầu, đường kính 400 nm, sống bám trên bề mặt
tế bào của một loài cổ khuẩn mới Ignicoccus sp., phân lập từ mẫu nước nóng ở độ sâu 106 m dưới
đáy biển. Đây là một loài ưa nhiệt cực đoan, phát triển ở nhiệt độ tối ưu 75-98 C. Nhiều trình tự
16S rARDN trực tiếp có được từ môi trường có nhiệt độ cao cũng khẳng định sự tồn tại và khác biệt
của nhóm Nanoarchaeota so với các nhóm cổ khuẩn còn lại.
Đa dạng và các nhóm cổ khuẩn đại diện
Xét về các đặc điểm sinh lý, cổ khuẩn có thể phân thành bốn nhóm chính là sinh methane
(methanogens), cổ khuẩn ưa nhiệt cao (hyper-therrmophiles), cổ khuẩn ưa mặn (halophiles) và cổ
khuẩn ưa acid (acidophiles) thuộc lớp Thermoplasmatales với nhiều đại diện đã được phân lập và
nghiên cứu trong phòng thí nghiệm (Hình 8).
Hình 8. Đại diện các nhóm cổ khuẩn chính
Cổ khuẩn sinh methane (methanogens)
Trong cổ khuẩn, các loài sinh methane làm thành một nhóm lớn và đa dạng với các đặc điểm chung
là (1) tạo khí methane như sản phẩm cuối cùng của chu trình trao đổi năng lượng và (2) sống kỵ khí
bắt buộc. Cổ khuẩn sinh methane thu năng lượng cho quá trình sinh trưởng từ việc chuyển hoá một
số chất thành khí methane. Nguồn cơ chất chủ yếu của các vi sinh vật này là hydro, format và
acetat. Ngoài ra, một số hợp chất C1 như metanol, trimethylamin, dimethylsulfid và rượu như
isopropanol, isobutanol, cyclopentanol, etanol cũng được sử dụng làm cơ chất (Bảng 4).
Quá trình sinh methane ở cổ khuẩn có thể coi như là quá trình hô hấp kỵ khí, trong đó chất
nhận điện tử là CO2 hoặc nhóm methyl trong các hợp chất C1 và acetat. Tuy nhiên, như ta thấy
trong bảng 4, năng lượng được giải phóng ra trong các phản ứng tạo methane đều rất nhỏ. Để so
sánh ta có thể lấy năng lượng giải phóng từ phản ứng oxygen hoá glucoza bằng oxygen C6H12O6 +
6 O2 6 CO2 + 6 H2O (∆G0’ = 2870 kJ/mol). Là những sinh vật duy nhất có khả năng tạo ra khí
methane, cổ khuẩn sinh methane có những enzyme và coenzyme thiết yếu cho quá trình tổng hợp
methane và đóng vai trò chỉ thị cho nhóm, ví dụ như coenzyme F420 và coenzyme M. Sự hiện diện
của coenzyme F420 khiến cho các tế bào của cổ khuẩn sinh methane có tính tự phát sáng dưới ánh
đèn huỳnh quang (bước sóng 350420 nm). Mặc dù hiện tượng tự phát sáng này có thể mạnh, yếu,
hay đôi khi mất hẳn, tuỳ thuộc vào các pha sinh trưởng của tế bào, nhưng đó vẫn là một đặc điểm
đơn giản và tiện lợi để nhận biết cổ khuẩn sinh methane dưới kính hiển vi. Bên cạnh đó, trình tự
acid amin trong các chuỗi peptid của coenzyme M cũng được dùng để phân loại cổ khuẩn sinh
methane. Những nghiên cứu trong lĩnh vực này cho thấy sự tương đồng giữa cây phân loại dựa trên
trình tự 16S rARN và cây phân loại dựa trên trình tự acid amin của các đơn vị và trong
coenzyme M.
Bảng 4. Phản ứng tạo methane trên các cơ chất khác nhau và năng lượng được giải phóng từ
đó
Phản ứng sinh methane Năng lượng được giải
phóng G0’ (kJ/ methane)
4H2 + CO2 CH4 + 2H2O 135,6
4 Format CH4 + 3CO2 + 2H2O 130,1
4 Isopropanol + CO2 CH4 + 4 Aceton + 2H2O 36,5
2 Etanol + CO2 CH4 + 2 Acetat 116,3
Metanol + H2 CH4 + H2O 112,5
4 Metanol 3CH4 + CO2 + 2H2O 104,9
4 Methylamin + 2H2O 3CH4 + CO2 + 4NH4+ 75,0
2 Dimethylamin + 2H2O 3CH4 + CO2 + 2 NH4+ 73,2
4 Trimethylamin + 6H2O 9 CH4 + 3CO2 + 4 NH4+ 74,3
2 Dimethylsulfid + 2H2O 3CH4 + CO2 + H2S 73,8
Acetat CH4 + CO2 31,0
Những nơi thông thường có thể tìm thấy cổ khuẩn sinh methane là các bể lên men hữu cơ kỵ
khí, các lớp trầm tích thiếu oxygen, đất ngập úng và hệ đường ruột của động vật. Khi ở dạng chủng
đơn cổ khuẩn sinh methane rất nhạy cảm với oxygen, tuy vậy trong tự nhiên chúng có thể tồn tại ở
môi trường hiếu khí nhờ được bao bọc và bảo vệ bởi các vi sinh vật hiếu khí và kỵ khí khác. Trong
môi trường kỵ khí, cổ khuẩn sinh methane phải cạnh tranh về cơ chất, đặc biệt là hydro và acetat,
với các nhóm vi sinh vật sử dụng chất nhận điện tử có hiệu điện thế khử dương tính hơn so với CO2
như là nitơrat, sulfat và ôxit sắt III. Như vậy cổ khuẩn sinh methane sẽ chiễm lĩnh các môi trường
nơi không có nhiều các loại chất nhận điện tử tiềm năng này. Do không có khả năng sử dụng rộng
rãi các loại cơ chất khác nhau, trong tự nhiên cổ khuẩn sinh methane thường phải phụ thuộc vào các
loài vi khuẩn lên men vì chúng chuyển hoá đa dạng chất hữu cơ thành các acid hữu cơ, hydro,
format và acetate, trong đó hydro, format và acetate là nguồn thức ăn trực tiếp cho cổ khu