Câu 48: Phân tích nội dung và phương hướng của QLNN về giao thông vận tải trong các đô thị.
Trong những năm gần đây, quá trình đô thị hóa đã và đang diễn ra rất nhanh ở khắp mọi miền trong cả nước và bộ mặt các đô thị theo đó đã và đang thay đổi rõ rệt. Cùng với quá trình đô thị hóa, một số lượng lớn dân cư đang chuyển từ các vùng nông thôn đến các thành phố, thị xã đã tạo ra nhiều áp lực cho chính quyền các đô thị, mà một trong số đó chính là vấn đề về giao thông.
* Nội dung quản lý nhà nước về giao thông đô thị
Thứ nhất, xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và văn bản pháp quy của ngành giao thông vận tải như luật giao thông đường bộ,, đường thủy có liên quan đến quản lý sử dụng khai thác hệ thống giao thông vận tải đô thị, quản lý các phương tiện vận tải hoạt động trong đô thị, đăng kiểm, kiểm soát, lưu hành
Muốn quản lý bằng pháp luật thì trước hết phải có luật pháp. Luật pháp phải đúng và phải đủ. Trong Chỉ thị 22-CT/TW đã đưa việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về TTATGT, ban hành kịp thời, đầy đủ các văn bản dưới luật, bảo đảm tính đông bộ và tính chế tài cao để pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh trong thực tế cuộc sống.
Hiện nay, chúng ta đã có Luật Hàng Hải, Luật Hàng không, Luật giao thông đường bộ, Luật giao thông đường thủy. Trên cơ sở đó đã xây dựng nhiều văn bản dưới luật tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện và bảo đảm TTATGT. Tuy vậy, hệ thống này vẫn còn thiếu đồng bộ, thiếu phù hợp và tính pháp lý cũng chưa cao. Chỉ tính riêng việc triển khai Luật giao thông đường bộ đã cần tới 7 Nghị định của Chính phủ, trên 20 văn bản của Bộ GTVT, nhiều văn bản của bộ, ngành, địa phương khác nhưng hiện nay vẫn còn thiếu nhiều. Ví dụ: còn thiếu Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra GTĐB, Nghị định về nguồn tài chính cho quản lý đường bộ,.; Một số quy định cụ thể về xe đạp, xe máy; tạm giữ xe,. cũng nảy sinh nhiều vấn đề cần sớm nghiên cứu, bổ sung hợp lý.
42 trang |
Chia sẻ: thuychi16 | Lượt xem: 1042 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tài liệu môn học Quản lý nhà nước về đô thị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÔ THỊ
Câu 48: Phân tích nội dung và phương hướng của QLNN về giao thông vận tải trong các đô thị.
Trong những năm gần đây, quá trình đô thị hóa đã và đang diễn ra rất nhanh ở khắp mọi miền trong cả nước và bộ mặt các đô thị theo đó đã và đang thay đổi rõ rệt. Cùng với quá trình đô thị hóa, một số lượng lớn dân cư đang chuyển từ các vùng nông thôn đến các thành phố, thị xã đã tạo ra nhiều áp lực cho chính quyền các đô thị, mà một trong số đó chính là vấn đề về giao thông.
* Nội dung quản lý nhà nước về giao thông đô thị
Thứ nhất, xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và văn bản pháp quy của ngành giao thông vận tải như luật giao thông đường bộ,, đường thủy có liên quan đến quản lý sử dụng khai thác hệ thống giao thông vận tải đô thị, quản lý các phương tiện vận tải hoạt động trong đô thị, đăng kiểm, kiểm soát, lưu hành
Muốn quản lý bằng pháp luật thì trước hết phải có luật pháp. Luật pháp phải đúng và phải đủ. Trong Chỉ thị 22-CT/TW đã đưa việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về TTATGT, ban hành kịp thời, đầy đủ các văn bản dưới luật, bảo đảm tính đông bộ và tính chế tài cao để pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh trong thực tế cuộc sống.
Hiện nay, chúng ta đã có Luật Hàng Hải, Luật Hàng không, Luật giao thông đường bộ, Luật giao thông đường thủy. Trên cơ sở đó đã xây dựng nhiều văn bản dưới luật tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện và bảo đảm TTATGT. Tuy vậy, hệ thống này vẫn còn thiếu đồng bộ, thiếu phù hợp và tính pháp lý cũng chưa cao. Chỉ tính riêng việc triển khai Luật giao thông đường bộ đã cần tới 7 Nghị định của Chính phủ, trên 20 văn bản của Bộ GTVT, nhiều văn bản của bộ, ngành, địa phương khác nhưng hiện nay vẫn còn thiếu nhiều. Ví dụ: còn thiếu Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra GTĐB, Nghị định về nguồn tài chính cho quản lý đường bộ,...; Một số quy định cụ thể về xe đạp, xe máy; tạm giữ xe,... cũng nảy sinh nhiều vấn đề cần sớm nghiên cứu, bổ sung hợp lý.
Thứ hai, ban hành các quy định về an toàn giao thông vận tải đô thị. Thông tư số 37/2014/TT-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải : Quy định về phạm vi bảo vệ công trình, hành lang an toàn giao thông đường sắt đô thị, Nghị định Số: 11/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, Nghị định 36-CP của chính phủ về đảm bảo an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị. Theo đó thì Mọi hành vi vi phạm về trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị phải được xử lý nghiêm minh, đúng người, đúng vi phạm, đúng pháp luật. Khi xử lý phải căn cứ vao lỗi của người vi phạm, không được phân biệt đối tượng là người đi bộ, người điều khiển phương tiên thô sơ hay cơ giới. Thực hiện mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Đối với phương tiện tham gia giao thông thuê người lái xe, cần phân biệt trách nhiệm của người lái và của chủ sở hưu phương tiện. Những người lợi dụng việc xẩy ra tai nạn mà xúi dục, gây sức ép, làm cản trở cho việc xử lý cũng bị xử lý theo pháp luật. Những người thi hành công vụ về trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị như: tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm, cấp giấy phép lái xe, giấy phép lưu hành, kiểm tra an toàn kỹ thuật, đăng ký phương tiện ... không làm tròn trách nhiệm, sách nhiễu, gây phiền hà bị xử lý nghiêm theo pháp luật.
Thứ ba, phân công phân cấp xây dựng cơ chế phối hợp quản lý giao thông vận tải đô thị.
Quy định tại Khoản 4, Khoản 13, Khoản 14, Điều 3 của Luật Quy hoạch đô thị thì các công trình hạ tầng kỹ thuật là một bộ phận quan trọng của đô thị cần được quy hoạch đồng bộ cùng với tổ chức không gian của đô thị nhằm tạo lập môi trường sống cho người dân sống và góp phần phát triển bền vững.
Trên thực tế lĩnh vực kết cấu giao thông đô thị thì: Bộ Xây dựng chủ trì quản lý về quy hoạch và quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật (Bộ GTVT phối hợp); Bộ GTVT chủ trì việc quản lý sử dụng, khai thác, bảo trì (Bộ Xây dựng phối hợp). Việc đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng giao thông đô thị do các chủ đầu tư thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư xây dựng hiện hành.
Thực tế công tác quản lý Nhà nước về hạ tầng kỹ thuật đô thị tại các địa phương, trên cơ sở Nghị định của Chính phủ, các Thông tư hướng dẫn do Bộ Xây dựng ban hành và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, hầu hết tại các UBND cấp tỉnh đều đã triển khai thực hiện đúng việc phân giao chức năng, nhiệm vụ quản lý về hạ tầng kỹ thuật đô thị theo quy định tại Nghị định số 13/2008/NĐ-CP, chỉ còn một số ít vướng mắc tại một số TP trực thuộc Trung ương. Như vậy, quản lý Nhà nước về hạ tầng kỹ thuật đô thị về cơ bản là thống nhất
Thứ tư, tổ chức phân luồng, phân tuyến giao thông vận tải đô thị, phân cấp loại đường đô thị, quản lý sử dụng, khai thác đường đô thị.
Việc phân làn, lắp đặt dải phân cách, biển báo, đèn tín hiệu giao thông và cải tạo, nâng cấp mở rộng hàng loạt tuyến đường đã góp phần cho giao thông ở đô thị trật tự hơn, tình trạng ùn tắc giao thông có chiều hướng giảm. Tuy nhiên, nhiều nơi còn phân làn, phân luồng gây bất tiện cho người tham gia giao thông. Tại nhiều tuyến phố ở các đô thị lớn, việc tổ chức phân làn làn xe gượng ép, không khoa học, khiến cho việc di chuyển trong TP nhiều khi rất vòng vèo và rất phức tạp. Số lượng xe máy quá đông nên tại các điểm giao cắt rất hỗn độn trong khi ở làn xe ô tô lại khá thông thoáng. Khi đèn xanh các ô tô quẹo phải chèn ép xe máy đi thẳng, dòng xe quẹo trái thì cố cắt chiều đi thẳng ngược lại để qua đường...
Đơn cử, Trên tuyến đường Phạm Văn Đồng (quận Cầu Giấy, Hà Nội), nhiều đoạn giao cắt được phân luồng bắt dòng xe cộ phải đi đường vòng xa hơn, do đó tăng thời gian hiện diện của phương tiện trên đường, dẫn đến mật độ lưu thông tăng và gây ùn tắc giao thông.
Thực tế, việc phân làn, phân tuyến còn thiếu sự đồng bộ. Mặc dù phân rõ hai làn đường nhưng chưa chỉ rõ đối với các trường hợp rẽ phải, rẽ trái, đường dành cho xe buýt, các điểm dừng, đỗ xe Cùng với đó là việc chưa triệt để thực hiện việc thống nhất kẻ vạch phân đường (vạch đứt hay vạch liền), rồi cột báo hiệu, dải phân cách, sơn phản quang đặt chưa hợp lý đã dẫn đến nhiều vụ tai nạn trên các tuyến phố phân làn.
Lắp dải phân cách là việc phải làm, tuy nhiên không ít tuyến đường lắp đặt dải phân cách một cách “máy móc”, khiến giao thông rối thêm. Trong khi đó, việc kẻ vạch phân làn và các ký hiệu chỉ hướng, kẻ vạch sơn cho người đi bộ nhiều nơi khá lộn xộn.
Việc phân luồng, phân làn là việc làm thường xuyên và kiên trì, nếu thấy chưa phù hợp thì cần sửa ngay. Tuy nhiên, không thể thực hiện một cách máy móc, tức không thể đường nào cũng lắp dải phân cách mà phải căn cứ vào tình hình thực tế, nghiên cứu một cách khoa học.
Thứ năm, xây dựng các chính sách nhằm khai thác các tiềm năng, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển giao thông đô thị. Xây dựng các chính sách phát triển giao thông công cộng trong đô thị: vay vốn, trợ giá..
Theo quyết định của thủ tướng chính phủ Số: 206/2004/QĐ-TTg Về việc phê duyệt Chiến lược Phát triển giao thông vận tải Việt Nam đến năm 2020, Tăng mức đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông bằng Ngân sách Nhà nước hàng năm đạt khoảng 3% GDP.
Phát huy nội lực, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế cho kết cấu hạ tầng giao thông dưới nhiều hình thức: phát hành trái phiếu, đầu tư - khai thác - chuyển giao (BOT); đầu tư - chuyển giao (BT); đầu tư - thu phí hoàn trả, chuyển nhượng quyền thu phí ..., phấn đấu đảm bảo được 40 - 50% tổng nhu cầu đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông. Tiếp tục tranh thủ các nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức của nước ngoài với các hình thức đa dạng.Nghiên cứu lập quỹ bảo trì và đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, trước hết là quỹ bảo trì đường bộ.Có chính sách đền bù giải phóng mặt bằng phù hợp để giảm chi phí đầu tư. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh trong lĩnh vực vận tải. Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm một tỷ lệ cần thiết để vận tải phục vụ vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo và các nhiệm vụ đột xuất khác. Tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh vận tải:Các phương tiện tham gia kinh doanh vận tải của các thành phần kinh tế phải đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật về an toàn vận tải và bảo vệ môi trường, đồng thời thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng góp đối với nhà nước (các loại thuế, phí ...) với mức đóng góp hợp lý. Xây dựng hệ thống giá cước hợp lý giữa các phương thức vận tải để Nhà nước làm công cụ điều tiết vĩ mô.
Thứ sáu, thanh tra kiểm tra, xử lý các vi phạm về giao thông vận tải, kể cả trong việc xây dựng, cải tạo đường sắt, cầu cống và khai thác sử dụng các phương tiện giao thông. Tiến hành theo nghị định Số: 171/2013/NĐ-CP của chính phủ về quy địn xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
Thứ bảy, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về giao thông cho người dân đô thị. Để pháp luật đi vào cuộc sống, trước hết phải làm cho mọi người hiểu luật và tôn trọng pháp luật, từ đó điều chỉnh hành vi của mình theo pháp luật. Để đạt được điều này cần tiến hành đồng bộ các giải pháp trong đó, tuyên truyền, giáo dục là giải pháp cơ bản, quan trọng nhất. Trong lĩnh vực an toàn giao thông cũng vậy, tuyên truyền giáo dục pháp luật sẽ nâng cao ý thức pháp luật để mọi người có cơ sở lựa chọn hành vi nào nên làm, hành vi nào không được làm, hành vi nào phải làm,...
Chỉ thị 22-CT/TW đã chỉ rõ: "Tập trung đẩy mạnh công tác giáo dục, phổ biến, tuyên truyền sâu rộng pháp luật về TTATGT đến mọi tầng lớp nhân dân, đến từng khu dân cư, từng gia đình, mỗi người dân; tạo dư luận phê phán gay gắt những người có hành vi vi phạm, nêu gương người tốt việc tốt trong chấp hành pháp luật về TTATGT. Đồng thời tăng cường vận động tạo phong trào "toàn dân tham gia giữ gìn TTATGT. Coi đây là nhiệm vụ quan trọng của các tổ chức chính trị-xã hội từ trung ương đến cơ sở. Đưa chương trình giảng dạy về TTATGT thành chương trình chính thức của các cấp học từ mầm non đến đại học".
Một số công tác tuyên truyền mà Uỷ ban an toàn giao thông Quốc gia, Cục CSGT đường bộ - đường sắt, Phòng CSGT các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Đài THVN, Các báo chí đang tập trung tuyên truyền là: Tổ chức liên hoan phim ATGT toàn quốc lần VII; trả lời các câu hỏi dự thi trên truyền hình VTV1 qua dịch vụ 19001221; dự thi về ATGT trên Báo Tiền phong; các phim, phóng sự trên truyền hình; chương trình ATGT chào buổi sáng lúc 7h30'; Chương trình blog giao thông trên VTV1 vào hồi 18h45’, Chương trình “Tôi yêu Việt Nam”, . Nhưng quan trọng hơn là mỗi một người cần trở thành một tuyên truyền viên và là đối tượng tích cực của công tác tuyên truyền. Việc giáo dục trong gia đình và nghe những người khác trong gia đình giáo dục về an toàn giao thông cũng là chấp hành và tuyên truyền về TTATGT,
Trong xã hội có những đối tượng do cố ý hoặc vô ý mà vi phạm pháp luật nên bên cạnh việc tuyên truyền giáo dục pháp luật thì việc xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và pháp luật về TTATGT nói riêng là giải pháp hết sức quan trọng. Xử lý vi phạm pháp luật nhằm:
- Trừng trị những chủ thể có hành vi vi phạm (ví dụ tước một số quyền tự do đối với người vi phạm TTATGT mang tính hình sự hoặc phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính).
- Khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm gây ra (ví dụ giải toả lề đường, vỉa hè, hành lang bảo vệ ATGT bị lấn chiềm).
- Giáo dục trực tiếp đối với người vi phạm (ví dụ người đã bị phạt tiền hoặc giữ xe do vi phạm pháp luật giao thông thì sẽ nhớ các quy định này và tâm lý e dè hơn, "sợ" luật hơn).
- Giáo dục chung: xử lý vi phạm trật tự an toàn giao thông thường xảy ra công khai trước mặt nhiều người. Nếu xử lý tốt các trường hợp này sẽ làm gương cho những người khác.
Trong điều kiện nước ta hiện nay việc xử lý vi phạm pháp luật là biện pháp rất quan trọng, mang lại hiệu quả pháp luật nhanh chóng đồng thời có tác dụng giáo dục cao. Tuy vậy cần lưu ý làm sao cho người vi phạm "tâm phục, khẩu phục" nâng cao được ý thức của mình. Đặc biệt cần quan tâm xử lý nghiêm những cơ quan, cá nhân đại diện Nhà nước mà vi phạm pháp luật, tiêu cực, gây mất lòng tin trong nhân dân,
Định hướng phát triển sau năm 2020
a) Về vận tải:
Đáp ứng nhu cầu vận tải với chất lượng ngày càng cao, giá cả hợp lý đảm bảo an toàn, tiện lợi, kiềm chế tiến tới giảm tai nạn giao thông và hạn chế ô nhiễm môi trường trên cơ sở tổ chức vận tải hợp lý và phát huy lợi thế của từng đô thị; từng bước phát triển vận tải công cộng khối lượng lớn, vận tải đa phương thức, dịch vụ logistics. Các chỉ tiêu cụ thể như sau:
- Giao thông công cộng (xe buýt, đường sắt đô thị, taxi): Thị phần đảm nhận từ 20% ÷ 25%;
- Giao thông cá nhân (ô tô, xe máy, xe đạp): Thị phần đảm nhận từ 72% ÷ 77%;
- Các loại hình giao thông khác: Thị phần đảm nhận ở mức 3%.
b) Về kết cấu hạ tầng giao thông:
Cơ bản đầu tư hệ thống giao thông đường bộ chính bao gồm: Trục đường hướng tâm, đường xuyên tâm và vành đai để đảm nhận vai trò vận tải trong nội thành và phân bổ giao thông từ nội - ngoại thành. Xây dựng từ 1 ÷ 2 tuyến đường bộ trên cao. Đối với các tuyến đường trục chính đô thị hiện hữu tiến hành cải tạo nâng cấp 90 ÷ 100% phần mặt đường để tăng năng lực thông xe. Các trục đường trục chính đô thị xây dựng mới phải đảm bảo lộ giới quy hoạch và tiêu chuẩn cấp đường.
Thực hiện đầu tư xây dựng từ 2 ÷ 3 tuyến đường sắt đô thị để đáp ứng nhu cầu vận tải hành khách công cộng.
Cải tạo, nâng cấp và hoàn thành đưa vào cấp kỹ thuật các luồng tuyến vận tải thủy nội địa; nâng cấp và đầu tư có chiều sâu các cảng sông; xây dựng các bến tàu khách phục vụ cho vận tải hành khách và du lịch.
Thỏa mãn được nhu cầu vận tải và dịch vụ vận tải của xã hội với chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế, giá thành hợp lý và cạnh tranh, nhanh chóng, an toàn; kết nối thuận tiện giữa các phương thức vận tải. Chỉ tiêu cụ thể như sau:
- Giao thông công cộng (xe buýt, đường sắt đô thị, taxi): Đến năm 2030, thị phần đảm nhận từ 35% ÷ 45%, sau năm 2030 từ 50% ÷ 60%;
- Giao thông cá nhân (ô tô, xe máy, xe đạp): Đến năm 2030, thị phần đảm nhận từ 51% ÷ 61%, sau năm 2030 từ 35% ÷ 45%;
- Các loại hình giao thông khác: Đến năm 2030, thị phần đảm nhận sẽ ở mức 4%, sau năm 2030 khoảng 5%.
Cơ bản hoàn thiện và hiện đại hóa mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông. Tiếp tục xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng khác theo quy hoạch.
Câu 49: Phân tích nội dung và phương hướng của QLNN về cấp nước sạch đô thị
Nước sạch là một nhân tố không thể thiếu trong cuộc sống con người, không chỉ phục vụ cho đời sống sinh hoạt hằng ngày mà còn là nguyên nhiên liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp ,.. Đảm bảo và cung cấp nước sạch là một nhu cầu thiết yếu của mọi người dân. Nhất là đối với khu dân cư đô thị thì nước sạch đã thực sự trở thành một vấn đề được quan tâm hàng đầu trong những năm gần đây. Hiện nay, nguồn nước đô thị ngày càng khan hiếm, chất lượng chưa được đảm bảo. Thay vào đó là nguồn nước bẩn, ô nhiễm nghiêm trọng dẫn đến sự xuất hiện của các căn bệnh quái ác, các Làng ung thư .. gây đau xót và nhức nhối trong cộng đồng cư dân. Chính vì thế, vấn đề cấp nước sạch là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của các chính quyền các đô thị .
Nội dung quản lý nhà nước về cấp nước sạch đô thị
Xây dựng quy hoạch, kế hoạch cấp nước sạch đô thị
Quy hoạch, kế hoạch cấp nước đô thị được lập, phê duyệt làm cơ sở cho các hoạt động cấp nước tiếp theo. Khi lập quy hoạch xây dựng phải tổ chức nghiên cứu lập quy hoạch cấp nước như một bộ phận không thể tách rời của quy hoạch xây dựng.
- Quy hoạch cấp nước đô thị được lập cho giai đoạn ngắn hạn 05 năm, 10 năm; giai đoạn dài hạn là 20 năm. Thời gian lập đồ án quy hoạch cấp nước đô thị không quá 12 tháng
- Nhiệm vụ, căn cứ lập quy hoạch cấp nước đô thị phải đánh giá và dự báo phát triển đô thị, phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển các ngành; điều kiện tự nhiên và diễn biến môi trường; đánh giá, dự báo nguồn nước, chất lượng, trữ lượng và khả năng khai thác nguồn nước của đô thị; tổ chức cấp nước đô thị tối ưu về mọi mặt.
- Tuỳ theo đặc điểm quy mô của từng đô thị, nội dung quy hoạch cấp nước đô thị phải lựa chọn các công việc thích hợp để thực hiện nhiệm vụ; nội dung còn phải xác định các chỉ tiêu cấp nước cho từng mục đích sử dụng; lựa chọn nguồn cấp nước, điểm lấy nước, vị trí, quy mô công suất các công trình cấp nước; xác định cấu trúc mạng lưới đường ống cấp nước, phân vùng cấp nước cho từng giai đoạn quy hoạch.
- Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức lập nhiệm vụ, đồ án quy hoạch cấp nước đô thị trong địa giới hành chính do mình quản lý. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (hoặc uỷ quyền cho Bộ Xây dựng phê duyệt), Bộ Xây dựng chủ trì thẩm định nhiệm vụ, đồ án quy hoạch cấp nước đô thị loại đặc biệt; Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt nhiệm vụ, đồ án quy hoạch cấp nước đô thị (trừ đô thị loại đặc biệt) thuộc địa giới hành chính do mình quản lý; Bộ Xây dựng xem xét, có ý kiến thoả thuận đối với đồ án quy hoạch cấp nước đô thị từ loại II trở lên; Sở Xây dựng các tỉnh thẩm định các nhiệm vụ, đồ án quy hoạch cấp nước đô thị loại thuộc thẩm quyền phê duyệt của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
- Người có thẩm quyền phê duyệt đồ án quy hoạch cấp nước đô thị ban hành quy định về quản lý quy hoạch cấp nước đô thị. Nội dung quy định bao gồm: (1) Quy định về vị trí, vai trò, chức năng, quy mô các công trình cấp nước; (2) Quy định về phạm vi bảo vệ, hành lang an toàn đối với các công trình cấp nước và mạng lưới đường ống của hệ thống cấp nước; (3) Phân công và quy định trách nhiệm quản lý của các cấp chính quyền đô thị và các tổ chức, các nhân liên quan trong việc thực hiện và quản lý quy hoạch cấp nước đô thị; (4) Các quy định khác. Quy hoạch cấp nước đô thị được điều chỉnh trong các trường hợp có sự điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội; có sự biến động lớn về trữ lượng, chất lượng nguồn nước so với dự báo.
Đầu tư phát triển cấp nước sạch đô thị
* Lựa chọn đơn vị cấp nước
- Đơn vị cấp nước có thể lựa chọn và được lựa chọn làm chủ đầu tư một, một số hoặc đồng bộ tất cả các hạng mục của hệ thống cấp nước để kinh doanh bán buôn, bán lẻ nước sạch. Đối với địa bàn đã có tổ chức, cá nhân đang thực hiện dịch vụ cấp nước thì tổ chức, cá nhân đó được chỉ định là đơn vị cấp nước. Đối với địa bàn chưa có đơn vị cấp nước thực hiện dịch vụ cấp nước, việc lựa chọn đơn vị cấp nước được tiến hành theo các quy định của pháp luật về đấu thầu và điều kiện cụ thể của từng địa phương.
- Các công trình nguồn cấp nước đã được xác định theo quy hoạch cấp nước được công bố, kêu gọi đầu tư và tổ chức đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư; đơn vị cấp nước đã thực hiện đầu tư xây dựng giai đoạn trước có thể dược xem xét, chỉ định làm chủ đầu tư giai đoạn sau.
- Khuyến khích, tạo điều kiện các tổ chức, cá nhân chủ động nghiên cứu, đăng ký làm chủ đầu tư các dự án đầu tư phát triển cấp nước.
- Uỷ ban nhân dân các cấp, ban quản lý khu công nghiệp tổ chức lựa chọn đơn vị cấp nước trên địa bàn do mình quản lý. Đối với phạm vi cấp nước liên tỉnh, Bộ Xây dựng tổ chức lựa chọn đơn vị cấp nước đối với các công trình cấp nước đô thị, khu công nghiệp.
* Đầu tư xây dựng công trình cấp nước
- Đầu tư xây dựng công trình cấp nước phải phù hợp với quy hoạch phát triển cấp nước. Đầu tư phát triển mạng phân phối, đấu nối tới các khách hàng thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của đơn vị cấp nước. Quy mô đầu tư phải phù hợp với nhu cầu thực tế và đón đầu quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch xây dựng, quy hoạch cấp nước không quá 5 năm, tránh đón đầu quá xa nhằm phát huy hiệu quả đầu tư.
- Quản lý chất lượng xây dựng công trình cấp nước phải tuân theo các quy định của pháp luật về xây dựng. Các công trình cấp nước có quy mô lớn, có ý nghĩa quan trọng phải được kiểm tra, chứng nhận sự phù hợp về chất lượng của công trình trước khi đưa vào khai thác, sử dụng.
- Dự án đầu tư xây dựng công trình cấp nước được lập, thẩm định,