Vách tế bào thực vật là bộ phận không sống của tế bào, được hình thành dosự hoạt động của chất nguyên sinh tạo nên, vách này quyết định hình dạng của tế bào thực vật và độ bền vững cơ học của chúng ở mức độ đáng kể. Vách tế bào có tác dụng bảo vệ các nội chất sống bên trong của cơ thể thực vật.
Vách tế bào là sản phẩm hoạt động của chất nguyên sinh. Vì vậy, trong các tế bào sống, vách tế bào luôn có sự tiếp xúc chặt chẽ với chất nguyên sinh,
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                
12 trang | 
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 3789 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tài liệu Vách tế bào thực vật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vách tế bào thực vật 
Vách tế bào thực vật là bộ phận không sống của tế 
bào, được hình thành do 
sự hoạt động của chất nguyên sinh tạo nên, vách này 
quyết định hình dạng của tế 
bào thực vật và độ bền vững cơ học của chúng ở mức 
độ đáng kể. Vách tế bào có 
tác dụng bảo vệ các nội chất sống bên trong của cơ 
thể thực vật. 
Vách tế bào là sản phẩm hoạt động của chất nguyên 
sinh. Vì vậy, trong các tế 
bào sống, vách tế bào luôn có sự tiếp xúc chặt chẽ với 
chất nguyên sinh, ngay cả 
trong trạng thái co nguyên sinh chất - tưởng như là tế 
bào chất được tách rời khỏi 
màng, nhưng sự tiếp xúc đó vẫn được giữ nhờ những 
sợi sinh chất rất mỏng nối liền 
chất nguyên sinh với vách tế bào. 
Cấu tạo, hình dạng, thành phần hóa học và tính chất 
của vách tế bào cũng rất 
đa dạng để thích nghi với chức năng mà tế bào đó 
đảm nhận. 
a. Thành phần hóa học của vách tế bào 
Thành phần hóa học của vách tế bào thực vật rất đa 
dạng, nước chiếm tỷ lệ 
tương đối cao (80 - 90 %), thành phần chất khô gồm 
có: cellulose, hemicellulose và 
pectin... Cả ba chất này đều là các glucid phức tạp 
hay các dẫn xuất của chúng, tùy 
theo mức độ trưởng thành của tế bào mà tỷ lệ giữa ba 
chất đó thay đổi trong màng. 
Trong đó, cellulose đóng vai trò chủ yếu, tạo nên bộ 
khung chính trong cấu tạo nên 
vách tế bào của thực vật. Hemicellulose, pectin và 
nước lấp đầy các khoảng trống 
giữa các phân tử cellulose, pectin được xem như chất 
kết dính gắn liền các lớp 
cellulose của các tế bào ở cạnh nhau, nếu chất pectin 
bị phá hủy (khi đun nóng 
trong nước, hay ngâm trong axit cromic, hoặc bị vi 
khuẩn lên men thối phân hủy) 
thì các tế bào bị rời nhau ra. 
b. Cấu trúc của vách tế bào 
Vách tế bào có cấu trúc nhiều lớp phức tạp, người ta 
phân biệt vách sơ cấp và 
vách thứ cấp 
- Vách sơ cấp: vách sơ cấp thường mỏng và đàn hồi, 
không cản trở sự sinh 
trưởng của tế bào, ở những tế bào còn non hoặc ở các 
tế bào ở mô phân sinh vách tế 
bào có cấu tạo sơ cấp. Về thành phần hóa học của 
vách sơ cấp: chứa ít cellulose (5 - 
10%), chứa nhiều hemicellulose, pectin và nước. 
Hình 1.6. Các loại tinh thể 
1. Tinh thể canxi oxalat hình lăng trụ; 2. Tinh thể 
canxi oxalat hình cầu gai; 
3. Tinh thể canxi oxalat hình kim; 4. Tinh thể 
canxicarbonat. 
22 
- Vách sơ cấp: thường liên tục (trừ 
những lỗ nhỏ có các sợi liên bào) trong 
quá trình phát triển của cây, hàm lượng 
cellulose trong vách tăng lên, nghĩa là 
mạng lưới cellulose ngày càng trở nên dày 
thêm. Đối với đa số tế bào thực vật bậc cao 
(trừ tế bào của mô phân sinh) trong giai 
đọan phát triển về sau sẽ hình thành màng 
thứ cấp. 
- Vách thứ cấp: vách thứ cấp được 
tạo nên trong các tế bào đã kết thức thời 
kỳ sinh trưởng, nó xếp lên vách sơ cấp từ 
phía trong của tế bào, tức là từ phía tế 
bào chất. Vách thứ cấp bền vững hơn 
vách sơ cấp, thường có nhiều lớp và 
không có khả năng căng ra. Vách thứ cấp 
gồm có ba lớp do các sợi cellulose tạo 
nên và có độ dày khác nhau: 
Cấu trúc của vách sơ cấp: các phân tử cellulose của 
vách tế bào sơ cấp 
thường có dạng hình sợi, tụ tập lại thành từng bó gọi 
là các mixen cellulose (hay sợi 
cơ sở); mỗi sợi cơ sở từ vài chục đến 100 phân tử, 
nhiều mixen họp lại thành bó 
mixen (hay sợi bé) gồm tới 2000 phân tử cellulose 
Nhiều bó mixen lại kết hợp 
thành sợi cellulose xếp thành mạng lưới mỏng, các 
sợi này chủ yếu nằm theo hướng 
ngang, giữa các đầu mút của mạng lưới còn lại nhiều 
khoảng trống chứa đầy chất 
pectin và nước, đôi khi chất pectin làm thành một lớp 
mỏng ở bên ngoài vách 
cellulose. 
Lớp ngoài nằm sát vách sơ cấp; lớp giữa thường dày 
hơn và lớp trong tiếp 
giáp với khoang tế bào. Mỗi lớp được cấu tạo từ 
những bản mỏng riêng biệt do 
các sợi cellulose xếp theo một hướng tạo nên, xen 
giữa có chất pectin; hướng của 
các sợi cellulose trong các lớp khác nhau thì khác 
nhau. 
Nhờ cách sắp xếp khác hướng của các sợi cellulose 
mà vách tế bào càng thêm 
bền vững về mặt cơ học. 
So với vách sơ cấp, vách thứ cấp chứa nhiều 
cellulose hơn (80 - 90%) nhưng 
lại ít pectin hơn vì các khoảng trống giữa các sợi 
cellulose nhỏ hơn. Vách thứ cấp 
không phải luôn luôn được tạo thành đồng đều trên 
khắp bề mặt của vách sơ cấp 
thành một lớp hoàn toàn. Ở một số tế bào chuyên hóa 
của mô dẫn, vách thứ cấp chỉ 
được tạo thành ở những chỗ nhất định. 
c. Những biến đổi hóa học của vách tế bào 
Hình 1.7. Cấu tạo hiển vi của vách tế bào 
1. Các lớp cenllulose; 2.Sợi nhỏ; 3. Mixen; 
4. Chuỗi xeluloz; 5.Phiến giữa; 6. Các lớp của 
vách thứ cấp; 7. Vách sơ cấp; 8. Lớp trong 
của vách thứ cấp; 9. Lớp ngoài của vách thứ 
cấp; 10. Lớp giữa của vách thứ cấp. 
23 
- Sự hóa gỗ: là quá trình thấm lignin vào vách của tế 
bào, làm cho vách tế bào 
trở nên cứng rắn và bền hơn, tính đàn hồi của vách tế 
bào kém đi, lúc này tế bào 
không có khả năng lớn được nữa, vách tế bào hóa gỗ 
thường gặp ở mô gỗ, sự hóa 
gỗ không thực hiện trên toàn bộ bề mặt của vách tế 
bào mà một số vùng màng vẫn 
bằng cellulose và vẫn cho các chất hòa tan thấm qua 
bảo đảm quá trình trao đổi chất 
của tế bào. 
Lignin là một hợp chất phenol thơm, màu vàng nâu, 
cứng và giòn, chứa nhiều 
cacbon hơn cellulose, thường bị nhuộm xanh bởi lục 
iod hoặc bằng xanh metylen. 
- Sự hóa bần: là quá trình thấm chất suberin vào vách 
tế bào, suberin là một 
este của axit béo cao phân tử, đó là hợp chất vô định 
hình và có tính kỵ nước, sự 
hóa bần thường gặp ở các tế bào mô bì thứ cấp. Khi 
vách tế bào bị hóa bần, mọi sự 
trao đổi chất giữa các tế bào ở cạnh nhau cũng như 
với môi trường bị đình chỉ và tế 
bào sẽ chết vì sự hóa bần xảy ra trên toàn bộ bề mặt 
của tế bào, lớp bần có nhiệm vụ 
che chở cho các mô sống ở bên trong. Các tế bào hóa 
bần sẽ bị nhuộm màu xanh 
bởi lục iod và màu đỏ da cam bởi Sudan III. 
- Sự hóa cutin: cutin là chất gần giống với suberin 
nhưng khác với suberin ở 
chỗ lượng axit béo không no thấp hơn và cấu tạo 
phân tử cao hơn. Sự hóa cutin 
thường gặp ở các tế bào biểu bì, màng ngoài của các 
tế bào biểu bì biến đổi thành 
chất cutin không thấm nước và khí, các tế bào thấm 
cutin thường bị nhuộm xanh 
bởi lục iod tạo thành một lớp bảo vệ gọi là tầng 
cuticun, tầng này dày hay mỏng tùy 
thuộc và điều kiện sống của từng loài cây, các cây ở 
vùng khô nóng có tầng cuticun 
thường rất dày. 
- Sự hóa nhầy: sự hóa nhầy của vách tế bào thường 
gặp ở một số hạt lúc nảy 
mầm (hạt Lanh, hạt É....) trên bề mặt của tế bào sẽ 
phủ một lớp chất nhầy, chất 
này sẽ phồng lên khi thấm nước và trở nên nhớt, lớp 
chất nhầy xung quanh hạt giữ 
được độ ẩm cần thiết là cho sự nảy mầm được dễ 
dàng. 
- Sự hóa khoáng: sự hóa khoáng là quá trình tích tụ 
lại trong vách tế bào các 
chất khoáng, các chất khoáng thường gặp là Si, 
CaCO3, CaC2 04... sự hóa khoáng 
thường xảy ra ở tế bào biểu bì của lá và thân; sự tích 
lũy Si thường xảy ra ở tế bào 
biểu bì của các cây họ Cói, họ Lúa... sự hóa khoáng 
làm cho vách tế bào trở nên 
cứng rắn; sự tích tụ CaC03 thường xảy ra chủ yếu ở 
các tế bào lông (lông của họ 
Vòi voi, họ Bầu bí) ngoàì ra CaCO3 còn đươc tích tụ 
dưới dạng nang thạch ở các 
cây thuộc chi Ficus. 
- Sự thấm sáp: sự thấm sáp thường gặp ở các tế bào 
biểu bì, mặt ngoài của các 
tế bào biểu bì thường được phủ bởi một lớp sáp, có 
khả năng không thấm nước. (vỏ 
quả Bí, lá Chuối, vỏ của thân cây Mía...).