Tạo hứng khởi cho sinh viên chuyên ngữ trong giờ học Văn học Pháp

Tóm t t: Trong những năm gần đây, môn văn học dường như ngày càng bị coi nhẹ trong các chương trình đào tạo cử nhân chuyên ngữ: số giờ dạy-học văn học giảm, giáo trình không được cập nhật, ít giáo viên lựa chọn dạy môn này, sinh viên ít hứng thú với giờ học Tuy nhiên, các văn bản văn học là những tài liệu hoàn chỉnh nhất cung cấp cho người học các kỹ năng ngôn ngữ cũng như kiến thức về lịch sử, văn hóa, xã hội, tâm lý của từng thời kỳ. Thông qua các văn bản văn học, sinh viên có thể khám phá nhân sinh quan của các tác giả, của nhân vật và so sánh với cách nhìn nhận của chính bản thân mình về cuộc sống. Cảm thụ tốt một tác phẩm văn học cho phép sinh viên thể hiện bằng ngôn từ cảm xúc cá nhân cũng như quan điểm riêng của mình đối với vấn đề được đề cập. Như vậy, văn bản văn học là công cụ giúp sinh viên hoàn thiện ngôn ngữ, mở rộng tầm nhìn ra thế giới bên ngoài và phát triển tư duy phê bình, lập luận. Để đem lại cho môn văn học vị trí đích thực của nó trong chương trình đào tạo cử nhân chuyên ngữ nói chung, cử nhân ngành tiếng Pháp nói riêng, bài viết này đề xuất những giải pháp sư phạm tạo hứng khởi cho người dạy và người học. Sau khi đã xác định rõ ràng các mục tiêu giảng dạy, tác giả sẽ đưa ra một chiến lược sư phạm với các bước lên lớp phù hợp với đối tượng sinh viên học ngoại ngữ, sao cho môn học này trở nên hấp dẫn tương xứng với vai trò của nó trong tổng thể chương trình đào tạo và phù hợp với phương pháp giao tiếp đang phổ biến hiện nay.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 92 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tạo hứng khởi cho sinh viên chuyên ngữ trong giờ học Văn học Pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 33 TẠO HỨNG KHỞI CHO SINH VIÊN CHUYÊN NGỮ TRONG GIỜ HỌC VĂN HỌC PHÁP Trn Văn Công Trường Đại học Hà Nội Tóm t t: Trong những năm gần đây, môn văn học dường như ngày càng bị coi nhẹ trong các chương trình đào tạo cử nhân chuyên ngữ: số giờ dạy-học văn học giảm, giáo trình không được cập nhật, ít giáo viên lựa chọn dạy môn này, sinh viên ít hứng thú với giờ học Tuy nhiên, các văn bản văn học là những tài liệu hoàn chỉnh nhất cung cấp cho người học các kỹ năng ngôn ngữ cũng như kiến thức về lịch sử, văn hóa, xã hội, tâm lý của từng thời kỳ. Thông qua các văn bản văn học, sinh viên có thể khám phá nhân sinh quan của các tác giả, của nhân vật và so sánh với cách nhìn nhận của chính bản thân mình về cuộc sống. Cảm thụ tốt một tác phẩm văn học cho phép sinh viên thể hiện bằng ngôn từ cảm xúc cá nhân cũng như quan điểm riêng của mình đối với vấn đề được đề cập. Như vậy, văn bản văn học là công cụ giúp sinh viên hoàn thiện ngôn ngữ, mở rộng tầm nhìn ra thế giới bên ngoài và phát triển tư duy phê bình, lập luận. Để đem lại cho môn văn học vị trí đích thực của nó trong chương trình đào tạo cử nhân chuyên ngữ nói chung, cử nhân ngành tiếng Pháp nói riêng, bài viết này đề xuất những giải pháp sư phạm tạo hứng khởi cho người dạy và người học. Sau khi đã xác định rõ ràng các mục tiêu giảng dạy, tác giả sẽ đưa ra một chiến lược sư phạm với các bước lên lớp phù hợp với đối tượng sinh viên học ngoại ngữ, sao cho môn học này trở nên hấp dẫn tương xứng với vai trò của nó trong tổng thể chương trình đào tạo và phù hợp với phương pháp giao tiếp đang phổ biến hiện nay. Abstract: In recent years, little attention has been paid to literature subject in undergraduate foreign language training programs: a number of hours for literature lecture have been reduced, textbook outdated, the subject chosen by few lecturers and students stayed demotivated etc., However, literary texts remain the most complete documents providing learners with language skills as well as historical, cultural, social and psychological skills of each period. Through literary texts, students could explore the world outlook of authors, characters and reflect with their own perceptions of life. Good acquisition of a literary work allows students to express their personal choices of emotional words as well as their own points of view on the issue discussed. Therefore, literary texts are the tool helping students perfect their language, expand their vision to the outside world and develop their critical thinking. In an attempt to truly position literature subject in the undergraduate foreign language programs in general, the French language program in particular; this paper proposes pedagogical solutions to motivating both teachers and students. After the teaching objectives are clearly defined, the author will touch on a pedagogical strategy with lesson plan steps being appropriate with language students so as to make this subject appealing to the training program and in line with the current communicative language teaching approach. Đặt vấn đề Vai trò của môn văn học trong chương trình đào tạo cử nhân ngoại ngữ Từ những năm giữa thế kỷ XX, văn học là một môn học bắt buộc trong chương trình đào tạo cử nhân ngoại ngữ ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vị trí và vai trò của môn học này đã được khẳng định rõ ràng qua thực tiễn dạy và học tại các trường đại học. Quả thật, văn bản văn học là những tài liệu hoàn chỉnh nhất cung cấp cho người học các kỹ năng ngôn ngữ cũng như kiến thức về lịch sử, văn hóa, xã hội, tâm lý của từng thời kỳ. Thông qua các văn bản văn học, sinh viên có thể khám phá nhân sinh quan của các tác giả, của nhân vật và so sánh với cách nhìn nhận của chính bản thân mình về cuộc sống. Cảm thụ tốt một tác phẩm văn học cho phép sinh viên thể hiện bằng ngôn từ cảm xúc cá nhân cũng như quan điểm riêng của mình đối với vấn đề được đề cập. Như vậy, văn bản văn học là công cụ giúp sinh viên hoàn thiện ngôn ngữ, mở rộng tầm nhìn Ti u ban 1: Đào to chuyên ng 34 ra thế giới bên ngoài và phát triển tư duy phê bình, lập luận. Trong lời nói đầu cuốn Littérature progressive du français 1 , các tác giả đã nhấn mạnh sự khác biệt giữa văn bản văn học và các thể loại văn bản khác: “Khác với một số tài liệu thực (documents authentiques) khác, văn bản văn học không bao giờ cạn kiệt. Nó thể hiện những khát vọng ngàn đời của con người, những tiếng vọng từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, quan điểm chủ quan về thế giới, mối quan hệ đặc biệt đối với ngôn ngữ, với tri thức, với những quy ước xã hội, với cách nhìn nhận, đánh giá người khác và chính bản thân mình. Đó là một trong những phương tiện giúp hiểu rõ hơn những hình thức biểu đạt văn hóa khác nhau. Ngoài ra, văn bản văn học còn có một đặc điểm khác, nó cho phép lý giải vấn đề theo những cách khác nhau (cho dù điều đó không có nghĩa là cách lý giải nào cũng đúng)”. Điều này hết sức quan trọng đối với sinh viên chuyên ngữ vì tùy theo vốn ngôn ngữ và văn hóa, tùy theo cách đọc, tùy theo cách cảm nhận và khả năng cảm thụ cũng như trí tưởng tượng của mình, mỗi sinh viên có thể hiểu và lý giải cùng một văn bản văn học theo những cách riêng. Như vậy, văn bản văn học là những công cụ không thể thiếu trong quy trình đào tạo ngoại ngữ, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, khi những hiểu biết về ngôn ngữ, văn hóa xã hội và lịch sử thông qua các tác phẩm văn học giúp cho các dân tộc xích lại gần nhau hơn. Theo suốt quá trình hình thành và phát triển của giáo học pháp, văn bản văn học đã được sử dụng để giảng dạy theo những phương pháp khác nhau, từ phương pháp truyền thống, dịch, nghe nhìn đến phương pháp giao tiếp và giao tiếp liên văn hóa. Cuốn Khung tham chiếu ngôn ngữ châu Âu2 của Hội đồng châu Âu đã xác định lại 1 Ferroudja Allouache, Nicole Blondeau, Marie-Françoise Né, Littérature progressive du français, CLE International, 2012 (3 tập: niveau débutant, niveau intermédiaire, niveau avancé). 2 Conseil de l’Europe, Cadre européen commun de référence pour les langues, Paris, Didier, 2005. vai trò của văn bản văn học trong dạy và học ngoại ngữ và đề xuất những cách tiếp cận mới dựa trên việc thực hiện các nhiệm vụ (tâches). Điều đó có nghĩa là văn học đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình truyền đạt và tiếp nhận ngôn ngữ và văn hóa. Tại Việt Nam, văn học là một môn học bắt buộc trong chương trình khung đào tạo cử nhân ngoại ngữ được Bộ Giáo dục và Đào tạo thông qua. Tuy nhiên, môn học này vẫn chưa có một vị trí xứng đáng với vai trò của nó: Tại các trường đào tạo cử nhân trên toàn quốc, thời lượng dành cho môn văn học chỉ tương đương gần 10% số giờ dành cho môn thực hành tiếng (tại Trường Đại học Hà Nội, tổng thời lượng dành cho môn này là 90 tiết); Giáo trình không được cập nhật; Ít giáo viên nhận dạy môn này; Sinh viên ít hứng thú với giờ học Để khắc phục tình trạng này và đem lại cho môn văn học Pháp một vị trí xứng đáng, cần có sự đầu tư hơn nữa từ phía giáo viên để tìm ra những giải pháp sư phạm tạo hứng khởi cho sinh viên. Mục tiêu Trước tiên, cần phải nhận thức được rằng khai thác một văn bản văn học trong giáo trình thực hành tiếng khác với khai thác một văn bản văn học trong giáo trình văn học. Trong các giáo trình thực hành tiếng, các trích đoạn văn học được đưa ra chủ yếu nhằm mục đích củng cố kiến thức ngữ pháp và từ vựng mà sinh viên đã được học. Do đó, khai thác các văn bản văn học chủ yếu tập trung vào khía cạnh ngôn ngữ. Tuy nhiên, tư tưởng của một tác phẩm văn học không phải lúc nào cũng chỉ được thể hiện qua vỏ bọc ngôn ngữ là từ vựng và cấu trúc ngữ pháp mà nó thường ngầm ẩn, đòi hỏi người đọc phải làm chủ được những kỹ năng phân tích văn học đặc biệt như các thủ pháp nghệ thuật, tu từ, các lối nói gián tiếp Do đó, dạy văn học cho sinh viên chuyên ngữ khác với dạy ngôn ngữ qua các trích đoạn văn học. Vai trò của giáo viên là giúp sinh viên hiểu và cảm nhận được tinh Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 35 thần của văn bản. Muốn thế, mục tiêu của môn học phải được xác định rõ ràng, cụ thể, làm kim chỉ nam cho hoạt động dạy và học. Theo chúng tôi, giảng dạy văn học cho sinh viên chuyên ngữ gắn với những mục tiêu sau: - Giúp sinh viên nắm bắt được những kiến thức văn học cơ bản như đặc điểm của từng trào lưu văn học, những yếu tố cấu thành một văn bản văn học theo từng thể loại (tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch), những công cụ phân tích văn bản; - Định hướng cho sinh viên cảm thụ thẩm mỹ, tìm ra cái hay, cái đẹp ẩn chứa trong các tác phẩm văn học và chứng minh, giải thích quan điểm của mình. Từ đó, sinh viên có thể tự mình tìm hiểu và bình luận các tác phẩm khác ngoài chương trình học; - Cùng sinh viên khám phá một nền văn hóa, từ đó so sánh đối chiếu với nền văn hóa Việt Nam; - Tạo môi trường trao đổi tự do và sáng tạo về quan điểm thẩm mỹ của mỗi cá nhân trước cùng một chủ đề được đề cập trong tác phẩm; - Tạo ra hứng thú cho sinh viên trong giờ học văn học, sao cho giờ học văn học không phải là giờ làm bài tập đọc hiểu thông thường mà là giờ học sáng tạo, năng động, vui nhộn, hướng đến cách tiếp cận giao tiếp mà người học đóng vai trò trọng tâm. Đề xuất các hoạt động dạy và học Để đạt được những mục tiêu đã nêu trên, chúng tôi đề xuất một số chiến lược sư phạm có thể áp dụng để vừa cung cấp những kiến thức cơ bản cho sinh viên, vừa giúp các em phát huy tính sáng tạo, đồng thời tạo ra một môi trường dạy và học năng động hứng khởi và hiệu quả. Định hướng chung Đối với phần văn học sử, nếu giáo viên chỉ đưa ra những con số và những sự kiện diễn ra ở mỗi giai đoạn lịch sử thì sẽ có nguy cơ khiến sinh viên bị mất phương hướng. Các sự kiện chính trị, xã hội, khoa học kỹ thuật, nghệ thuật được nêu ra phải có mối quan hệ với văn học. Ví dụ, giáo viên cần nhấn mạnh sự thống trị của tôn giáo trong xã hội thể hiện qua các tác phẩm văn học thời kỳ Trung cổ như Le Roman de renart (Tiểu thuyết con cáo), sự chuyển biến của xã hội theo hướng công nghiệp hóa vào thế kỷ XIX trong các tác phẩm của Émile Zola, phong trào nữ quyền trong tiểu thuyết của các nhà văn nữ thế kỷ XX như Colette, Simone de Beauvoir hay Nathalie Sarraute Để tạo thêm sắc màu cho bài giảng và thu hút sự chú ý của sinh viên, giáo viên có thể đề cập đến ảnh hưởng của các trường phái nghệ thuật đến văn học và ngược lại. Như vậy, khi học môn văn học, sinh viên sẽ có thể nhận thấy sự tương đồng, giao thoa giữa truyện ngắn của Guy de Maupassant và tranh của danh họa trường phái ấn tượng Claude Monet, giữa những đoạn miêu tả các miền quê yên bình nước Pháp của nữ văn sỹ George Sand với những giai điệu đồng quê mượt mà của nhà soạn nhạc tài ba Chopin – người tình của bà, giữa các tác phẩm hội họa siêu thực của Delaunay và những bài thơ thể hiện dưới dạng thư pháp của nhà thơ Pháp thế kỷ XX Guillaume Apollinaire. Lồng ghép các môn nghệ thuật vào bài giảng lịch sử văn học cho phép tránh cách dạy buồn tẻ thầy đọc, trò chép. Trái lại, lớp học trở thành một nơi trao đổi mà giáo viên và sinh viên đều là những nhân tố tích cực cùng nhau chia sẻ kiến thức. Đối với phần trích giảng văn học, để tạo hứng thú cho sinh viên, điều quan trọng là phải sử dụng những bài có nội dung gần gũi với sinh viên. Ở Việt Nam, nhiều tác phẩm lớn của nền văn học Pháp đã được dịch và đưa vào dạy trong trường phổ thông. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên khi được khám phá lại tác phẩm qua văn bản gốc. Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng việc lựa chọn các trích đoạn văn học để giảng dạy còn cần phải đáp ứng được những tiêu chí khác nữa. Quả thật, văn bản văn học là một đối tượng nghiên cứu Ti u ban 1: Đào to chuyên ng 36 ẩn chứa nhiều yếu tố cần khai thác, tìm tòi, tạo xúc cảm cho người đọc, khiến người đọc phải suy ngẫm về mình, về người. Do đó, các văn bản lựa chọn cần phù hợp với lứa tuổi, trình độ, chủ đề quan tâm của người học, đồng thời truyền tải những giá trị về tư tưởng, thẩm mỹ và được xây dựng với những thủ pháp nghệ thuật đặc biệt. Một trích đoạn văn học thời Trung cổ chưa hẳn đã là khó nếu như tác phẩm đó có nội dung dễ hiểu và thú vị (ví dụ Tiểu thuyết con cáo). Trái lại, những trích đoạn với ngôn ngữ rất đơn giản của các nhà văn thế kỷ XX như R.Queneau lại hàm ẩn một ý nghĩa khác, đó là khả năng sáng tạo nặn gọt câu chữ của nhà văn để đạt được mục tiêu thẩm mỹ xác định ban đầu. Một văn bản văn học phù hợp với sinh viên ngành ngoại ngữ là một đoạn trích hay một tác phẩm ngắn không những cho phép sinh viên tìm ra được vẻ đẹp của nó mà còn là cơ sở để sinh viên thể hiện quan điểm riêng của mình về vấn đề được đề cập. Một số chiến lược sư phạm Trước khi đề xuất các chiến lược sư phạm, chúng ta cần đặt mình vào vị trí của người học để thấy được rằng, cũng như trong nhiều lĩnh vực khác, cảm thụ thẩm mỹ là kết quả của một quá trình làm quen, học hỏi. Vai trò của giáo viên là định hướng cho sinh viên và cung cấp chiếc chìa khóa mở cửa vào “xứ sở diệu kỳ” của ngôn ngữ, làm cho văn bản văn học không còn là một ẩn số đối với người học. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tầm thường hóa văn bản văn học bằng cách diễn đạt lại một cách tối giản khiến cho văn bản này giống với mục rao vặt trên báo lá cải, công thức nấu ăn hay tờ quảng cáo. Chúng ta cũng cần xác định được rằng không có một phương án sư phạm tối ưu chung nào cho tất cả các văn bản, nhất là văn bản văn học, bởi lẽ văn học vốn đa dạng về thể loại, trào lưu, thủ pháp tu từ, hệ tư tưởng. Điều chúng tôi quan tâm, đó là những chiến lược có thể áp dụng để sinh viên cảm thấy hứng thú trong giờ văn học. Trên cơ sở thực tế giảng dạy văn học trên hai chục năm qua, chúng tôi đề xuất một số chiến lược có thể áp dụng được như sau: 1. Sử dụng thiết bị nghe nhìn Sẽ thật là nhàm chán nếu giờ văn học sử chỉ là những con số về các triều đại, năm sinh, năm mất của các nhà vua và các tác giả. Thay vì đưa ra những con số vô hồn, giáo viên có thể dùng dụng cụ trình chiếu để giới thiệu những hình ảnh minh họa giúp sinh viên cảm nhận trực giác nhanh chóng tầm quan trọng của các cuộc Thập tự chinh kéo dài suốt thời kỳ Trung cổ, cuộc sống của giới quý tộc thời Phục hưng, cuộc sống của nhân dân lao động, đặc biệt là của giai cấp công nhân mới nổi thế kỷ XIX, hay sự dấn thân vào đời sống chính trị của giới văn sỹ Pháp thế kỷ XX. Những hình ảnh được sử dụng có thể là những tác phẩm của các danh họa nổi tiếng đương thời, những trích đoạn phim về đời sống xã hội có thể dễ dàng tải về từ các trang web. Chính những hình ảnh sống động này sẽ đọng lại trong tâm trí người học lâu hơn những con chữ (điều này cũng đã được các nhà khoa học nghiên cứu và khẳng định). Khi nắm bắt được bối cảnh xã hội của từng thời kỳ lịch sử qua hình ảnh minh họa, sinh viên sẽ dễ dàng tìm lại những hình ảnh này trong các trích đoạn văn học sau đó vì ở mọi địa điểm và vào mọi thời kỳ, văn học luôn là tấm gương phản ảnh xã hội một cách trung thực nhất. Các thiết bị nghe nhìn cũng không thể thiếu trong giờ học trích giảng văn học. Từ khi điện ảnh ra đời, văn học luôn là cái gốc của các tác phẩm điện ảnh. Phần lớn các tác phẩm văn học có giá trị đều đã được chuyển thể thành phim và được công chiếu rộng rãi. Với sự lan tỏa của công nghệ thông tin, ngày nay chúng ta có thể tìm được trên internet những bộ phim kinh điển như Nhà thờ Đức bà Paris, Ba người lính ngự lâm hay những phim hoạt hình chuyển thể từ truyện ngụ ngôn của La Fontaine. Giới thiệu các đoạn trích phim tiêu biểu giúp cho sinh viên dễ dàng nắm bắt Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 37 được nội dung tác phẩm mà không cần đọc toàn bộ cuốn tiểu thuyết (ở đây, chúng ta cần nhìn nhận một thực tế là phần đông giới trẻ ngày nay ngại đọc sách văn học, đặc biệt là những cuốn tiểu thuyết dày nhiều trăm trang). Sau khi đã nắm được cái “thần” của tác phẩm, sinh viên sẽ dễ dàng tiếp cận với trích đoạn văn học hơn. Giáo viên có thể cung cấp đường link cho sinh viên để trước khi đến lớp các em xem toàn bộ bộ phim hay trích đoạn phim, clip giới thiệu phim. Trong trường hợp này, trước khi khai thác đoạn trích văn học, giáo viên chỉ cần cho sinh viên xem trích đoạn tiêu biểu liên quan đến nội dung đoạn trích sẽ học để đưa các em vào thế giới hư cấu được mô tả trong tác phẩm. Cũng trong giờ học trích giảng văn học, giáo viên có thể sử dụng tài liệu nghe (CD, các file âm thanh tải từ mạng internet) để cho sinh viên nghe các đoạn hội thoại tiêu biểu trích từ tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ hoặc các vở kịch đặc sắc. Năm 2005, Nhà xuất bản CLE International đã xuất bản cuốn Littérature en dialogues3 (Văn học qua những trích đoạn hội thoại) kèm theo đĩa CD với mục đích là truyền cho người học “cảm hứng học văn”. Đây là một công cụ hữu hiệu phục vụ dạy và học môn văn học Pháp vì các trích đoạn thường có nội dung dễ hiểu, phù hợp với trình độ sinh viên năm thứ tư. Với công cụ giảng dạy này, giáo viên có thể tránh được lối mòn là một mình đọc mẫu cho sinh viên trước khi cho sinh viên đọc hội thoại. Hơn nữa, các hội thoại được ghi âm đều do các diễn viên chuyên nghiệp thực hiện, thể hiện rõ cảm xúc của nhân vật thông qua ngữ điệu câu, cách nhấn âm tiết. Khi nghe hội thoại qua CD, sinh viên chắc chắn sẽ có cảm hứng hơn và khi được yêu cầu đọc lại bài, sinh viên có thể bắt chước ngữ điệu của các diễn viên để đọc diễn cảm, qua đó học được cách bày tỏ tình cảm qua giao tiếp hàng ngày. Để tạo thêm không khí cho giờ 3 Geneviève Baraona, Littérature en dialogues, CLE International, 2005. học, giáo viên cũng có thể yêu cầu sinh viên tập diễn lại nội dung hội thoại và trình bày trước lớp mà không cần dùng đến văn bản in. Điều đó cho phép sinh viên phát huy khả năng sáng tạo để cho hội thoại của nhóm mình hấp dẫn hơn. 2. Diễn đạt lại nội dung đoạn trích Đây là một hoạt động thường được sinh viên yêu thích trong những giờ học trích giảng văn học. Hoạt động này nhằm mục đích kiểm tra mức độ hiểu bài của sinh viên và khuyến khích sinh viên phát huy trí sáng tạo của mình, tham gia quá trình sáng tác, thử nghiệm khả năng diễn đạt theo cách khác nội dung đã tìm hiểu trong các đoạn trích văn học. Theo chúng tôi, hoạt động này có thể áp dụng cho tất cả các thể loại văn bản văn học (văn xuôi, thơ hay kịch). Nó tạo sự giao thoa giữa văn hóa phổ quát và văn hóa riêng của từng dân tộc, như M. Abdallah-Pretceille và L. Porcher đã nêu trong cuốn Éducation et communication interculturelle (Giáo dục và giao tiếp liên văn hóa): “Văn học là một tổng thể phổ quát-đơn lẻ. Nó kết hợp những giá trị chung được công nhận trên toàn thế giới và những giá trị đơn lẻ. Các nhà văn viết cho tất cả mọi người và được mỗi người đón nhận theo cách khác nhau () Văn học dành cho mỗi chúng ta và cho tất cả chúng ta”.4 Với tiêu chí lấy người học làm trung tâm theo phương pháp giao tiếp hiện đang được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, người học không chỉ là đối tượng tiếp nhận tri thức mà còn là chủ thể tạo ra tri thức. Do đó, người học không ở tư thế bị động mà phải biết sử dụng những kiến thức và kỹ năng của mình để thể hiện khả năng giao tiếp trong những hoàn cảnh tương tự, theo cách riêng của mình. Việc tham gia các hoạt động học với tư cách chủ thể là động lực thúc đẩy người học cố gắng huy động những kỹ năng mình đã tích lũy và thực hiện nhiệm vụ do giáo viên giao một cách tự nguyện, hứng thú. 4 M. Abdallah-Pretceille, L.
Tài liệu liên quan