1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Liên thông tri thức là thao tác quan trọng nhất của phương pháp dạy học liên môn.
Cách dạy học tích hợp, liên môn trong dạy đọc hiểu một văn bản nghệ thuật thực chất là sự
vận dụng những nội dung và phương pháp của các lĩnh vực, các môn học có liên quan
nhằm đạt hiệu quả tối ưu trong hoạt động dạy và học ở nhà trường phổ thông. Về bản chất,
liên thông tri thức chính là hạt nhân của tích hợp, là nội dung quan trọng trong việc đổi
mới sách giáo khoa, đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhà trường hiện nay. Trong
trường phổ thông, Ngữ văn là môn học có sự liên thông tri thức đa dạng nhất: từ sự hợp lực
của ba phân môn (Văn học - Tiếng Việt - Tập làm văn) tới tích hợp kiến thức của các môn
học khác (Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân.); từ kiến thức trong cuộc sống xã hội tới
các tri thức kỹ năng, phương pháp giảng dạy, kinh nghiệm của thực tiễn.
Tác phẩm của Nguyễn Tuân được lựa chọn giảng dạy trong chương trình Ngữ văn mới
lớp 10-12 là truyện ngắn Chữ người tử tù [1], song không riêng gì truyện ngắn, ngay trong
lĩnh vực tùy bút, ông từ lâu đã nổi tiếng là một bậc thầy của nghệ thuật sáng tạo ngôn từ.
Trong khuôn khổ có giới hạn, bài viết này xin được bàn thêm về khía cạnh đặc sắc ấy của
ngôn từ nghệ thuật Nguyễn Tuân qua tùy bút Người lái đò sông Đà.
2. NỘI DUNG
Xuất hiện trên đàn văn vào cuối thập niên 30 và đầu 40 thế kỷ XX, ngay lập tức
Nguyễn Tuân đã khẳng định tên tuổi của mình “ở một văn phẩm gần như thâu tóm và kết
tinh mọi tinh hoa làm nên sự hoàn thiện và hoàn mỹ của một phong cách viết Vang bóng
một thời” [2]. Ngoài truyện ký, Nguyễn Tuân còn viết tiểu luận phê bình và viết các chân
dung văn học. Ông viết về tiếng Việt giàu và đẹp, về Truyện Kiều, về Tú Xương, Tản Đà,
Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Thạch Lam, về
Dostoyevsky, Sekhov, Lỗ Tấn. Với vốn hiểu biết phong phú trong nhiều lĩnh vực, với
năng lực thẩm mỹ sắc sảo và lối viết tài hoa phóng túng, những bài viết đó thường giàu trí
tuệ, có những phát hiện độc đáo, tâm đắc.
Tuy nhiên, người ta nhớ đến nhà văn lớn này không chỉ vì phong cách ngông không ai
theo được mà còn bởi những ấn tượng đậm nét về thể loại tùy bút - sở trường của nhà văn.
Sở dĩ Nguyễn Tuân được mệnh danh “tùy bút gia” của văn xuôi hiện đại Việt Nam vì ở
mảng sáng tác này, Nguyễn Tuân “khoe” được cá tính độc đáo đủ đầy nhất; đồng thời ông
chứng tỏ mình thực sự là một bậc thầy ngôn từ mà rất lâu nữa mới có nhà văn khác sánh
kịp. “Giới nghiên cứu ca tụng những bữa tiệc ngôn từ trên trang văn Nguyễn Tuân và đề
cập đến việc soạn một từ điển ngôn ngữ Nguyễn Tuân bởi những gì ông đã góp vào kho từ
vựng chung của tiếng Việt. Người ta hiểu rằng cả một vùng trời lung linh ngôn ngữ ấy là
tinh kết của một cuộc sống từng trải, si mê góp nhặt từng mảy vàng tiếng mẹ đẻ.” [2].
Tập tùy bút Sông Đà (1960) gồm 15 bài và một bài thơ phác thảo; trong đó, đặc sắc
hơn cả là tùy bút Người lái đò sông Đà. Tập tùy bút này là kết quả chuyến đi thực tế lên
Tây Bắc của Nguyễn Tuân những năm 1958 - 1960. Trở lại vùng đất đã từng gắn bó với
ông những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ, Nguyễn Tuân như được sống lại với
những kỉ niệm thân thuộc và cảm xúc nghệ sĩ lại dâng trào trong tâm hồn ông. Cảnh vật và
con người Tây Bắc đã có một sức hấp dẫn cuốn hút đặc biệt đối với Nguyễn Tuân. Ông say
mê trước vẻ đẹp thơ mộng trữ tình và cả cái hoang sơ dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc, tự
nhận mình là người “đi tìm thứ vàng của màu sắc sông núi Tây Bắc” sẵn có trong mỗi con
người lao động bình dị như người lái đò trên sông Đà. Tùy bút Người lái đò sông Đà chất
chứa niềm trân trọng và mê say ấy, nên có thể coi nó là áng văn nghệ thuật đầy chất thơ,
một bài ca bất tuyệt về con người trong cuộc đối đầu với tự nhiên để sinh tồn.
197 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 145 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tạp chí Khoa học - Đại học thủ đô Hà Nội - Số 33, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 33/2019
1
TR¦êNG §¹I HäC thñ ®« hµ néi
Hanoi Metropolitan university
Tạp chí
SCIENCE JOURNAL OF HANOI METROPOLITAN UNIVERSITY
ISSN 2354-1512
Số 33 khoa häc x· héi vµ gi¸o dôc
th¸ng 8 2019
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
T¹P CHÝ KHOA HäC TR¦êNG §¹I HäC THñ §¤ Hµ NéI
SCIENTIFIC JOURNAL OF HANOI METROPOLITAN UNIVERSITY
(Tạp chí xuất bản định kì 1 tháng/số)
Tæng Biªn tËp
§Æng V¨n Soa
Phã Tæng biªn tËp
Vò C«ng H¶o
Héi đång Biªn tËp
Bïi V¨n Qu©n
§Æng Thµnh Hng
NguyÔn M¹nh Hïng
NguyÔn Anh TuÊn
Ch©u V¨n Minh
NguyÔn V¨n M·
§ç Hång Cêng
NguyÔn V¨n C
Lª Huy B¾c
Ph¹m Quèc Sö
NguyÔn Huy Kû
§Æng Ngäc Quang
NguyÔn ThÞ BÝch Hµ
NguyÔn ¸i ViÖt
Ph¹m V¨n Hoan
Lª Huy Hoµng
Th kÝ tßa so¹n
Lê Thị Hiền
Biªn tËp kÜ thuËt
Ph¹m ThÞ Thanh
Editor-in-Chief
Dang Van Soa
Associate Editor-in-Chief
Vu Cong Hao
Editorial Board
Bui Van Quan
Dang Thanh Hung
Nguyen Manh Hung
Nguyen Anh Tuan
Chau Van Minh
Nguyen Van Ma
Do Hong Cuong
Nguyen Van Cu
Le Huy Bac
Pham Quoc Su
Nguyen Huy Ky
Dang Ngoc Quang
Nguyen Thi Bich Ha
Nguyen Ai Viet
Pham Van Hoan
Le Huy Hoang
Secretary of the Journal
Le Thi Hien
Technical Editor
Pham Thi Thanh
GiÊy phÐp ho¹t ®éng b¸o chÝ sè 571/GP-BTTTT cÊp ngµy 26/10/2015
In 200 cuèn t¹i Trêng §H Thñ ®« Hµ Néi. In xong vµ nép lu chiÓu th¸ng 8/2019
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 33/2019
3
MỤC LỤC
1. CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỄN DU VÀ
A.S. PUSHKIN .......................................................................................................................................... 5
Time enjoyment and recognition on art creation from Nguyen Du and A.S. Pushkin
Lê Nguyên Cẩn
2. ĐẶC SẮC NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGUYỄN TUÂN QUA TÙY BÚT NGƯỜI LÁI ĐÒ
SÔNG ĐÀ ................................................................................................................................................. 18
Special characteristics of art language of Nguyen Tuan through “Nguoi lai do song Da”
Trần Thị Kim Chi
3. TIẾP NHẬN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM TỪ GÓC NHÌN LỊCH SỬ VĂN HÓA –
DIỄN TRÌNH VÀ XU THẾ ..................................................................................................................... 27
Researching foreign literature from the historical of cultural opinion in Vietnam – process
and trend
Vũ Công Hảo
4. CON NGƯỜI VÀ ĐỜI SỐNG MIỀN NÚI TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ BÍCH THÚY ............. 40
People and mountainous living through art works by Do Bich Thuy
Cao Thị Thu Hằng
5. Ý THỨC KIẾN TẠO BIỂU TƯỢNG NHÌN TỪ MỘT SỐ NHAN ĐỀ TIỂU THUYẾT VIỆT
NAM SAU 1986 ...................................................................................................................................... 51
Conscious of creative symbols looking from a number of Vietnamese prospectus after 1986
Đặng Ngọc Khương
6. KHÔNG GIAN “CHIẾU RƯỢU” TRONG KÍ ỨC VỤN CỦA NGUYỄN QUANG LẬP ..................... 60
The “chieu ruou” atmosphere in the work: Pieces of Memoirs (Ki uc vun) by Nguyen Quang Lap
Lê Trà My
7. ĐỀ TÀI HÀ NỘI TRONG SÁNG TÁC CỦA TÔ HOÀI QUA CHUYỆN CŨ HÀ NỘI ......................... 67
Theme on Hanoi through old stories of Hanoi by To Hoai
Tạ Diễm My
8. THIÊN NHIÊN TRONG THƠ VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA MỘT SỐ NHÀ THƠ VIỆT NAM
HIỆN ĐẠI ................................................................................................................................................ 77
Lê Thị Quế
Nature in writings for children by some Vietnamese modern poets
9. SỰ DUNG HỢP VÀ ĐAN XEN CÁC HÌNH THỨC THỂ LOẠI TRONG TRUYỆN KỲ ẢO
TRUNG ĐẠI VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC ........................................................................................... 89
The mix of genres in fantasy short stories of medieval Vietnam and South Korea
Lê Văn Tấn, Kim Ki Hyun
10. MẠN ĐÀM VỀ CHỮ “NHO - 儒” TRONG CÁC TRANH LUẬN VỀ NHO GIÁO, NHO HỌC
XƯA NAY ............................................................................................................................................. 100
Openly and friendly discussion about the concept “Nho”
Hà Đăng Việt
11. BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH TRONG DẠY ĐỌC HIỂU VĂN
BẢN THƠ HIỆN ĐẠI Ở LỚP 11 .......................................................................................................... 107
Measures to create interest in learning for students in teaching reading and reading modern
poetry in class 11
Nguyễn Thị Anh
4
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
12. SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG VIỆC HỌC TỪ VỰNG VỚI GIÁO TRÌNH
LIFELINES ELEMENTARY ................................................................................................................ 117
Using mindmapping in teachhing vocabulary in Lifelines elementary textbook
Trần Thị Huệ
13. PROVIDING EARLY LANGUAGE EDUCATION IN VIETNAMESE CONTEXT ......................... 125
Việc giáo dục ngoại ngữ sớm ở Việt Nam hiện nay
Dang Thi Quynh Trang
14. TIẾP CẬN CDIO TRONG PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH Ở TRUNG TÂM BỒI DƯỠNG
NHÀ GIÁO VÀ CÁN BỘ QUẢN LÍ GIÁO DỤC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG ................ 133
Access cdio in developing the program at the center training teachers and education managers,
hung vuong university
Phạm Thị Bích
15. QUẢN LÍ ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN DỰA VÀO NĂNG LỰC - CÁCH TIẾP CẬN HIỆU QUẢ
TRONG QUẢN LÍ VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC ............................................................. 139
Managing lecturers based-on their capacity - An effective approach to human resources
management
Vũ Tiến Dũng
16. VAI TRÒ CỦA VIỆC SỬ DỤNG TỪ ĐIỂN THUẬT NGỮ TRONG HỖ TRỢ DẠY HỌC HỌC
SINH LỚP 5 ........................................................................................................................................... 145
The role of using terminology dictionary for supporting the fifth grade 5 students in studying
Ngô Thị Kim Hoàn, Nguyễn Thị Minh Trang, Trương Minh Giang
17. NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG DÃY BIẾN ĐỔI HÓA HỌC NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VÀ SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ................ 156
Using series of Chemical changes to develop capacity of problem resolution and creative for the
high school students
Phạm Văn Hoan, Hoàng Đình Xuân
18. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ DẠY HỌC CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TOÀN DIỆN ........................................................................................... 167
Educating ethical issues for pedagogical students aiming to improve comprehensive educational
quality
Nguyễn Thị Hồng Hương, Nguyễn Đức Khiêm
19. THIẾT KẾ MỘT SỐ BÀI TẬP ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP MONTESSORI DẠY HỌC TRẺ
MẪU GIÁO TẠI CÁC NHÓM LỚP MẦM NON TƯ THỤC CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI .............. 178
Designing tasks applying Montessori method to teach kindergarteners in Hanoi private
preschool classes
Hoàng Thu Huyền
20. KHẢO SÁT, ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC -
CÔNG NGHỆ CHO GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI ..................................... 185
Surveying and proposing some measures to enhance scientific and technological research
capacity for lecturers at Hanoi Metropolitan University
Trần Thị Thảo
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 33/2019
5
CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG SÁNG TẠO
NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỄN DU VÀ A.S. PUSHKIN
Lê Nguyên Cẩn
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt: Bài viết, dựa trên sáng tác của Nguyễn Du và A.S. Pushkin, tập trung làm rõ các
góc độ cảm thức thời gian cũng như cách thức xử lý thời gian trong các tác phẩm của họ.
Từ đó, giúp người đọc hiểu thêm vấn đề thời gian trong sáng tạo nghệ thuật, chỉ ra các
giá trị nhân văn và thẩm mỹ mà hai thiên tài của hai nền văn hóa mang lại. Đây cũng là
những giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay.
Từ khóa: Cảm thức thời gian, Nguyễn Du, Pushkin
Nhận bài ngày 14.7.2019; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 10.8.2019
Liên hệ tác giả: Lê Nguyên Cẩn; Email: lenguyencan@yahoo.com.vn
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thực tế, mọi sự so sánh đều khập khiễng, nhất là việc đặt Nguyễn Du (1765-
1820) trong quan hệ với A.S. Pushkin (1799-1837), khi một tài năng đang ở độ chín còn tài
năng kia thì mới cất tiếng khóc chào đời, khi một tài năng đã kết thúc cuộc đời còn tài năng
kia thì mới bắt đầu tỏa sáng, và đặc biệt hơn là hai thiên tài này thuộc về hai nền văn hóa
khác nhau, thuộc hai phong cách sáng tạo nghệ thuật khác nhau. Tuy nhiên, một việc so
sánh như vậy cũng cho phép nhấn mạnh đặc trưng nghệ thuật của mỗi ngòi bút sáng tạo,
cho dù cách thức tự sự - tức là nghệ thuật kể chuyện theo trục thời gian và cách thức trữ
tình - tức là cách thức phát lộ, bộc lộ tâm tư tình cảm của chủ thể sáng tạo - là khác nhau,
cho thấy sự khác biệt (l’altérité) giữa các nền văn hóa để qua đó tạo ra sự thấu hiểu sâu sắc
từ các đóng góp về phương diện trí tuệ nhân văn trong giai đoạn hội nhập toàn cầu. Việc so
sánh cần thiết phải có điểm chung hay điểm đồng quy, vì vậy, chúng tôi lựa chọn góc độ
cảm thức thời gian trong sáng tạo nghệ thuật của hai thiên tài này như là điểm chung dễ
dàng chấp nhận, không chỉ cho hai tác giả này mà còn có thể cho nhiều trường hợp khác
nữa mà không đi vào so sánh chủ đề, cốt truyện, kiểu nhân vật, cách thức tổ chức sự kiện
liên quan tới nhân vật hay những vấn đề khác... vốn theo chúng tôi không dễ lý giải khi so
sánh và cũng dễ sa vào khiên cưỡng khó tránh.
6
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
2. NỘI DUNG
Trước hết, cảm thức thời gian trong sáng tạo nghệ thuật là dấu hiệu cơ bản để nhận
biết phẩm chất và năng lực nghệ sĩ của mỗi nhà thơ nhà văn, thể hiện qua khả năng tri giác
về thời gian, dẫn tới việc sử dụng trường thời gian vốn quy định cách kể và cách tả cũng
như cách thức đưa ra các bình luận ngoại đề hay cho phép tác giả thể hiện trữ tình ngoại đề
trong mỗi tác phẩm văn chương. Vấn đề thời gian đã từng là điểm chú ý đặc biệt của nhiều
nhà khoa học phương Tây. Nhà toán học người Pháp Henri Poincaré ngay cuối thế kỷ XIX
đã phân chia thời gian thành thành gian tâm lý và thời gian vật lý và quan điểm này được
tiếp nối và triển khai rộng hơn trong triết học trực giác của Henri Bergson hay trong cuốn
Lược sử thời gian (từ vụ nổ lớn đến các lỗ đen) của Stephen W.Hawking. Vấn đề thời gian
cũng là mối quan tâm của G.Bachelard trong Thi pháp không gian (PUF,1957); Thi pháp
giấc mơ (PUF, 1960); Ngọn lửa của cây nến (PUF, 1961), hay của Ferdinand Gonseth
trong Hình học và quan niệm về không gian (1945-1955), Quan niệm về thời gian (1964).
Các nhà triết học này [xem 1, tr.344] cũng đã chỉ ra sáu phương diện của hai kiểu thời
gian: thời gian chủ quan hiện hình trong thời gian hiện sinh (chẳng hạn: tôi có ít thời gian
lắm), thời gian ý thức (chẳng hạn: thời gian gây nhiều áp lực cho tôi), thời gian tâm thức
(chẳng hạn: tôi nhớ lại thời gian trước đây...) và kiểu thời gian khách quan gồm thời gian
niên biểu (tức là thời gian lịch đại - thời cảnh), thời gian tương đối (chẳng hạn: tôi phải kết
hợp thời gian với anh) và thời gian đo được (chẳng hạn: chạy 100 mét trong 9,9 giây).
Văn học nghệ thuật đều có hai kiểu thời gian này cả và mức độ đậm nhạt nông sâu tùy
theo từng tác phẩm và được diễn đạt theo các cách quy ước tùy thuộc từng nhà nghiên cứu.
Chẳng hạn, cách thể hiện các dạng thức thời gian độc đáo trong bài thơ Mẹ ốm của Trần
Đăng Khoa. Trước hết, mẹ ốm là một sự kiện mà để biểu đạt sự kiện này, nhà thơ sử dụng
dạng thức thời gian: ốm là một sự kiện, nghĩa là một việc diễn ra trong chiều thời gian tại
một không gian nhất định. Tiếp đó là dạng thức so sánh: “Mọi hôm (mẹ thích vui chơi)/
Hôm nay, (mẹ chẳng nói cười được đâu)”, để đi tới sự cảm nhận rất tinh tế về thời gian:
“Lá trầu khô giữa cơi trầu” - động từ “khô” đã lột tả được tính chất đặc biệt của thời gian,
tạo ra dạng thức thời gian trôi rất sinh động. Cũng tương tự, nhà thơ nhấn mạnh tính chất
thời gian trôi bằng từ “lặn” trong câu thơ: “Nắng mưa từ những ngày xưa,/ Lặn trong đời
mẹ đến giờ chưa tan”, hay “lần giường” trong câu: “Cả đời đi gió đi sương,/ Bây giờ mẹ
lại lần giường tập đi...”. Các từ hay cụm từ chỉ thời gian được sử dụng với tần suất cao ở
đây đã tạo nên nét độc đáo và cái hay riêng của bài thơ... Nghệ thuật tu từ trong tác phẩm
văn chương không tách rời nghệ thuật sử dụng cách thức diễn tả thời gian và cách thức
phản ánh thời gian cũng như quan niệm về thời gian mang trong nó phẩm chất đặc trưng
của các nền văn hóa khác nhau.
Xét về mặt bản chất, cảm thức thời gian chính là cách thức tri nhận dòng chảy lịch sử,
là sự bộc lộ cảm xúc riêng tư, là nơi phát lộ những điểm dừng bước ngoặt dẫn đến sự đổi
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 33/2019
7
đời hay kết thức cuộc đời... Trưng bày hiện thực dưới sự soi chiếu của ánh mặt trời để mọi
người ai cũng có thể nhận ra và không thể phủ nhận hay chống chế, M.de S.Cervantès đã
cho nhân vật Don Quijote xuất đầu lộ diện vào buổi bình minh bằng trận chiến giữa người
anh hùng này với bọn khổng lồ trong hình hài những chiếc cối xay gió. W.Shakespeare
thường đặt nhân vật của mình trong không - thời gian ban đêm: đêm êm ả, thanh bình tràn
ngập mộng mơ và khao khát yêu đương gắn với vầng trăng dát vàng trên rừng cây bãi cỏ
trong thiên tình sử Romeo and Juliet; đêm đen khủng khiếp gắn với tham vọng vô cùng,
dục vọng vô hạn, nơi những bóng ma hiện hình vừa hăm dọa, vừa cám dỗ trong Macbeth;
đêm hãi hùng kinh khiếp vì lạc bước lầm đường, khi cái thiện bị lừa dối và niềm tin bị tước
đoạt, đối với Othello khi phải tự mình giết đi người mình yêu quý... Nhân vật Rafael de
Valentin của H.de Balzac trong Miếng da lừa bước vào sòng bạc để đánh nốt đồng bạc cầu
may cuối cùng cũng “vào buổi chiều của tháng mười năm ngoái”... Nhân vật Jean Valjean
của V.Hugo trong Những người khốn khổ, sau khi mãn hạn 19 năm tù khổ sai, lạc bước
vào xứ Digne lúc chiều muộn, khi hoàng hôn đang buông xuống, màn đêm đang kéo về, để
phải lạc bước lang thang trong cõi người vô cảm, giả điếc giả câm, ngoảnh mặt làm ngơ
trước nỗi đau của đồng loại, nơi có tiền không mua được thức ăn, không tìm ra chỗ ngủ, để
cuối cùng, lúc bế tắc nhất thì mới được ánh sáng tình thương của giám mục Myriel chỉ ra
con đường để tự mình vượt thoát khỏi bóng đêm tăm tối nơi tình người vị kỷ lấn át tình
người vị tha, để lột xác hóa thân từ một gã tù khổ sai trốn trại thành vị thánh cứu người
giúp đời, tạo ra cuộc hành trình đi từ bóng tối ra ánh sáng...
Cảm thức thời gian được thể hiện đa dạng và ngập tràn trong sáng tác nghệ thuật của
các nhà lãng mạn. Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu đã từng nhấn mạnh vai trò đặc biệt của
hoàng hôn: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Trong
Tràng giang, Huy Cận cũng chỉ ra điều tương tự bằng so sánh: “Lòng quê dợn dợn vời con
nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Còn Xuân Diệu nhìn chiều hôm với con mắt
lả lướt thướt tha tình tứ: “Chiều muộn hòa thơ trên nhánh duyên/ Cây me ríu rít cặp chim
chuyền”, khi đó nhà thơ nhận ra: “Mây trắng về đâu bay gấp gấp/ Con cò trên ruộng cánh
phân vân”. Những dẫn chứng tương tự còn rất nhiều, cho thấy đặc trưng của không - thời
gian chiều muộn, chiều hôm, của thời điểm hoàng hôn cùng màn đêm đến, của thời khắc
khi ngày hết đêm về. Vì thế, việc nhận diện kiểu không - thời gian này cho thấy phẩm chất
và năng lực tri giác nghệ thuật của các văn nhân nghệ sĩ, cho thấy vẻ đẹp vô song của kiểu
không - thời gian đặc biệt trong dòng chảy thời gian của mỗi con người.
Cảm thức thời gian trong sáng tạo nghệ thuật được thể bằng nhiều vẻ, nhiều dạng,
nhiều hình hay bằng nhiều thước đo thời gian tùy theo từng tác giả. Đối với trường hợp của
Nguyễn Du và A.S. Pushkin, cảm thức thời gian được thể hiện qua sự hòa đồng giữa cảnh
và tình, giữa tình và cảnh, giữa trạng thái nội tâm và sinh cảnh xã hội. Cảnh là cảnh của
tình người, là cảnh của tấm lòng hay của con tim đang thổn thức, tình hiện hình qua cảnh,
8
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
cảnh được tái hiện trong tình. Phương Đông đã quen thuộc với cách diễn đạt “tức cảnh sinh
tình” hay mượn cảnh để nói tình, nhưng phải đến Nguyễn Du, với tài năng khái quát đặc
biệt, cách diễn đạt đó mới trở thành công thức, mới mang tính chất định danh, định tính,
định lượng: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh là cảnh của người, cảnh được tri
nhận bằng tâm tư tình cảm của chủ thể trữ tình. Trong bài thơ được viết vào khoảng 1826-
1830, không có tiêu đề, in trong A.S. Pushkin: Thơ trữ tình [xem 2, tr.61, từ đây, các trích
dẫn trong phần viết về A.S. Pushkin đều lấy từ tập thơ này và chú thích theo số trang của
bản dịch], nhà thơ A.S. Pushkin cũng cho thấy kiểu cảm thức thời gian giao hòa trong quan
hệ tình và cảnh tương tự: “Biết làm sao, vẫn thế các nhà thơ/ Thường đa cảm tin vào điều
tự nghĩ/ Các tình cảm luôn đổi thay, bao giờ/ Cũng đem gắn vào cảnh ngoài tùy ý”.
Bởi cảm thức thời gian được thể hiện qua nhiều thước đo thời gian khác nhau, nên
chúng tôi chỉ đề cập tới cách thức cảm nhận chiều hôm - hoàng hôn - màn đêm, như những
dấu hiệu tượng trưng nổi bật nhất, mà không khảo sát hết các kiểu thước đo ấy. Sở dĩ, chọn
không - thời gian chiều hôm - hoàng hôn - màn đêm là bởi vì đây là kiểu không - thời gian
đặc thù của chủ nghĩa lãng mạn, mà thế kỷ XIX ở phương Tây là thế kỷ của chủ nghĩa lãng
mạn, còn ở Việt Nam, thiên tài Nguyễn Du cũng là đại diện tiêu biểu cho nghệ thuật lãng
mạn phương Đông. Nói đến nghệ thuật lãng mạn, bao giờ cũng phải nhấn mạnh tính chất
phi thường trong hoàn cảnh phi thường, không phi thường thì không thành lãng mạn, cũng
như V.Hugo chỉ ra cái tầm thường là cõi chết của nghệ thuật. Cuộc đời chìm nổi trong lắm
đắng nhiều cay và sự nỗ lực vượt lên hoàn cảnh của Thúy Kiều là phi thường, thể hiện bản
lĩnh và nghị lực của con người trong văn hóa Việt, thể hiện cách sống vị tha, chấp nhận về
mình mọi bất hạnh, để lại cho đời mọi sự bình an. Hay: “Tôi yêu em đến nay chừng có thể/
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai;/ Nhưng không để em bận lòng thêm nữa,/ Hay hồn em
phải gợn bóng u hoài” của A.S. Pushkin, bài thơ vốn cũng không có tiêu đề nhưng thường
được đặt dưới cái tên “Tôi yêu em” (tr.66) lấy từ câu mở đầu bài thơ, cũng là cái phi
thường, là cái vượt lên chính mình, để thể hiện bản thân mình một cách tích cực, chủ động
và có tình người hơn, bởi đây là kiểu tình yêu vị tha yêu mình yêu người, và vì biết yêu
mình nên cũng dễ dàng sẻ chia với sự yêu người của người mình yêu, đây là cách yêu có
văn hóa vừa tôn trọng mình vừa tôn trọng người mình yêu. Cảm thức thời gian mang trong
nó tính không gian, bởi lẽ không có không gian nào nằm ngoài thời gian, cũng như thời
gian chính là thời gian của một không gian cụ thể. Vì thế, sự tri nhận thời gian chính là
cách thức sáng tạo các kiểu không-thời gian để chuyển tải các thông điệp nhân văn.
A.S. Pushkin, bước vào đời thơ của mình bằng những bài thơ viết khi đang ngồi trên
ghế nhà trường mà tiêu biểu nhất là bài Những kỷ niệm hoàng hôn (trong 3, tr.1466, bài thơ
này được dịch là Hồi ức hoàng hôn), sáng tác vào năm 1815. Trước hết, cụm từ “hoàng
hôn” trong tiêu đề bài thơ cho thấy tính chất hoài niệm gắn với nội dung ca ngợi tinh thần
yêu nước, ca ngợi các chiến công quả cảm của người dân Nga trong cuộc chiến đấu chống
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 33/2019
9
lại đội quân xâm lược của Napoléon Bonapart. Những kỷ niệm hoàng hôn trở thành dấu
mốc nhận diện con đường cần phải đi của của A.S. Pushkin để trở thành “mặt trời thi ca
Nga” sau này. Hoàng hôn bao giờ cũng là điểm dừng của ngày, là thời điểm ánh sáng mất
dần đi, bóng tối bắt đầu lan tỏa, là lúc ta nghĩ tới ngôi nhà nơi sum vầy sum họp, là lúc
vầng trăng tỏa sảng với bầu trời sao lấp lánh... đưa ta vào cõi mộng mơ, hay đi vào trường
của các suy tư triết học..., hoàng hôn cũng chính là lúc các a