Tạp chí Tài nguyên và môi trường - Số 22 - 11/2017

SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT ĐO ĐẠC VÀ BẢN ĐỒ Hoạt động ĐĐ&BĐ là hoạt động điều tra cơ bản, đặc biệt quan trọng, làm nền tảng để triển khai các nghiên cứu khoa học về trái đất, cung cấp các dữ liệu cơ bản phục vụ phát triển KT-XH, QP-AN; phục vụ quy hoạch, quản lý lãnh thổ, giám sát TN&MT; phòng chống thiên tai và cứu hộ cứu nạn; góp phần bảo vệ và khẳng định chủ quyền lãnh thổ quốc gia, góp phần nâng cao dân trí. Các sản phẩm ĐĐ, BĐ và dữ liệu thông tin địa lý được sử dụng rộng rãi trong hoạt động hàng ngày của đời sống xã hội. Công tác ĐĐ&BĐ ở Việt Nam có truyền thống lịch sử lâu đời. Từ thời Hồng Đức, vua Lê Thánh Tông đã cho thành lập bản đồ cả nước phục vụ quản lý lãnh thổ. Ngay sau khi thành lập nước tháng 9 năm 1945, cơ quan bản đồ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập để thực hiện các nhiệm vụ địa hình quân sự phục vụ tác chiến, bảo đảm thắng lợi trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Ngày 14/12/1959, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký Nghị định số 444/TTg thành lập Cục ĐĐ&BĐ trực thuộc Phủ Thủ tướng. Hơn 70 năm qua, ngành ĐĐ&BĐ Việt Nam đã hoàn thành nhiều công trình ĐĐ&BĐ cơ bản quan trọng phục vụ phát triển đất nước: Hệ tọa độ quốc gia, hệ độ cao quốc gia, hệ trọng lực quốc gia, các mạng lưới đo đạc quốc gia, hệ thống cơ sở dữ liệu nền địa lý quốc gia, hệ thống bản đồ địa hình quốc gia, hệ thống bản đồ địa chính phục vụ quản lý đất đai. Từ những năm 90 của thế kỷ trước, công tác ĐĐ&BĐ đã bắt đầu thực hiện quá trình đổi mới mạnh mẽ công nghệ thu nhận và xử lý dữ liệu với việc ứng dụng công nghệ định vị toàn cầu (GPS), công nghệ bản đồ số, công nghệ thu nhận và xử lý ảnh viễn thám để thành lập hệ thống bản đồ địa hình quốc gia phủ trùm cả nước, giám sát tài nguyên, môi trường, từng bước đáp ứng nhiệm vụ quản lý của các bộ, ngành, địa phương và nhu cầu của xã hội.

pdf56 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 196 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tạp chí Tài nguyên và môi trường - Số 22 - 11/2017, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tỉng Biªn tËp TS. Chu Th¸i Thµnh Phã Tỉng Biªn tËp ThS. KiỊu ®¨ng tuyÕt ThS. trÇn ThÞ CÈm Thĩy Tßa so¹n TÇng 5, L« E2, K§T CÇu GiÊy Dư¬ng §×nh NghƯ, CÇu GiÊy, Hµ Néi §iƯn tho¹i: 024.37733419 Fax: 024.37738517 V¨n phßng Thưêng trĩ t¹i TP. Hå ChÝ Minh Phßng A604, tÇng 6, Tßa nhµ liªn c¬ Bé TN&MT, sè 200 Lý ChÝnh Th¾ng, phưêng 9, quËn 3, TP. Hå ChÝ Minh §iƯn tho¹i: 028.62905668 Fax: 0283.8990978 Ph¸t hµnh - Qu¶ng c¸o §iƯn tho¹i: 024.37738517 Email tapchitnmt@yahoo.com banbientaptnmt@yahoo.com ISSN 1859 - 1477 GiÊy phÐp xuÊt b¶n Sè 1791/GP-BTTTT Bé Th«ng tin vµ TruyỊn th«ng cÊp ngµy 01/10/2012. Gi¸ b¸n: 15.000 ®ång T¹p chÝ Tµi nguyªn vµ M«i trƯêng VÊn ®Ị - Sù kiƯn Chu Thành: Một số vấn đề quan trọng và cấp thiết của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII Phan Đức Hiếu: Quốc hội thảo luận Dự án Luật Đo Đạc và Bản Đồ Đăng Tuyên: Phê duyệt Chương trình mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh Phương Đông: Phát triển Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí hậu Lê Đức Chung: Ý nghĩa cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 Häc tËp vµ lµm theo tÊm gƯ¬ng ®¹o ®øc Hå ChÝ Minh PGS. TS. Trương Minh Tạo: Bác Hồ học ngoại ngữ §iĨn h×nh tiªn tiÕn ngµnh tµi nguyªn vµ m«i trƯêng Hương Trà: Qua 5 năm thực thi chủ trương, chính sách, pháp luật về khoáng sản Nghiªn cøu - Trao ®ỉi TS. Bùi Đức Hiển: Hoàn thiện quy định pháp luật về bảo vệ môi trường trong Dự thảo Luật Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt Cấn Duy Huấn, Mai Văn Tiến: Nghiên cứu chế tạo vật liệu compozit gỗ - nhựa từ polyethylen tỷ trọng cao tái chế với mùn cưa Trương Công Phú, Chế Đình Lý, Trần Thiện Phong: Đánh giá tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh ThS. Trần Thiện Phong, TS. Nguyễn Hữu Cường, ThS. Trương Công PhuÙ, ThS. Lưu Hải Tùng: Quy định khoảng cách an toàn về môi trường đối với nghĩa trang chôn cất một lần Khương Mạnh Hà: Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng dự án tuyến đường nối thành phố hạ long với đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng Lê Thu Trang, Phạm Hà Thái, Đoàn Thị Nam Phương, Trần Phương Ly: Phát hiện thay đổi trên bề mặt sử dụng ảnh radar độ mở tổng hợp (SAR) dựa trên phép đo độ tương đồng thống kê TS. Nguyễn Thị Hải Ninh, Đinh Duy Hưng: Giải pháp tăng cường liên kết trong sản xuất và tiêu thụ rau hữu cơ tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình Thùc tiƠn - Kinh nghiƯm Kiều Đăng: Quy định mới về thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuê mặt nước Lê Công Lương: Quản trị bền vững Ngành Khai thác khoáng sản tại Việt Nam Ngọc Yến: Một số kết quả hoạt động của Văn phòng Đăng ký đất đai Tố Nga: Quy định mô hình bảo vệ môi trường trong xây dựng nông thôn mới Phạm Bá Quyền, Phạm Thị Thường, Hoàng Đại Phúc: Tài nguyên nước vùng Thủ đô Hà Nội Xuân Anh:Hưng Yên nghiêm túc triển khai một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách về bảo vệ môi trường Quang Anh: Lập kế hoạch sử dụng đất năm 2018 cấp huyện Đoàn Xuân Tính: Cấp giấy chứng nhận quyền sử sụng đất tôn giáo trên địa bàn tỉnh Quảng Trị tin tøc NhÞp cÇu b¹n ®äc nh×n ra thÕ giíi Huỳnh Văn Long: Bài học của Hà Lan giúp Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí hậu v¨n ho¸- v¨n nghƯä Sè 22 (276) Kú 2 - Th¸ng 11 n¨m 2017 2 4 7 8 9 10 11 13 16 19 22 25 28 31 34 35 37 38 40 44 46 47 49 51 53 55 Mơc lơc Hội nghị lần thứ sáu, BanChấp hành Trung ươngĐảng Khóa XII đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra. Hội nghị đã nghiên cứu, thảo luận thẳng thắn, đóng góp nhiều ý kiến quan trọng vào các báo cáo và đề án. Bộ Chính trị đã tiếp thu tối đa và giải trình những vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Ban Chấp hành Trung ương đã thống nhất cao thông qua các nghị quyết, kết luận của Trung ương. Đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược Ban Chấp hành Trung ương nhất trí cho rằng, trong 9 tháng đầu năm 2017, nhờ có sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, KT-XH nước ta tiếp tục chuyển biến tích cực, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Kinh tế tăng trưởng khá, quý sau cao hơn quý trước; quý III tăng 7,46%, nâng mức tăng trưởng bình quân 3 quý lên 6,41%. Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát. Các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm; kỷ luật, kỷ cương về tài chính - NSNN được tăng cường. Tuy nhiên, nền kinh tế đất nước vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Ban Chấp hành Trung ương xác định, năm 2018, cần tiếp tục bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao chất lượng tăng trưởng, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Tạo chuyển biến rõ rệt trong việc thực hiện ba đột phá chiến lược, đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển văn hóa, thực hành dân chủ và công bằng xã hội. Ứng phó có hiệu quả với BĐKH, chủ động phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên, BVMT. Nâng cao sức khỏe, chất lượng cuộc sống của nhân dân Ban Chấp hành Trung ương khẳng định: Bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe là trách nhiệm của mỗi người dân, từng gia đình, cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; đòi hỏi sự tham gia tích cực của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, trong đó Ngành Y tế và các ngành có liên quan là lực lượng nòng cốt. Cần phát huy vai trò chủ đạo của các bệnh viện và cơ sở y tế công lập trong việc tổ chức cung cấp dịch vụ y tế, bảo đảm các dịch vụ cơ bản cho đông đảo nhân dân, đồng thời khuyến khích cung cấp dịch vụ theo yêu cầu. Tập trung ưu tiên đầu tư từ ngân sách và có cơ chế, chính sách phù hợp huy động, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực xã hội để phát triển y tế và các dịch vụ liên quan đến bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân. Ban Chấp hành Trung ương thống nhất cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng phục vụ, phát triển nền y học Việt Nam khoa học, dân tộc, đại chúng; xây dựng nền y tế công bằng, hiệu quả, chất lượng và hội nhập. Phát triển cân đối, đồng bộ giữa y tế phổ cập và y tế chuyên sâu, giữa dân quân y, gắn kết y học cổ truyền với y học hiện đại. Thực hiện phòng bệnh hơn chữa bệnh; y tế dự phòng là then chốt; y tế cơ sở thực sự là nền tảng. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các cơ sở y tế hiện có của Nhà nước, bao gồm cả dân, quân y, gắn với khuyến khích hợp tác công - tư, phát triển lành mạnh y tế ngoài công lập; xây dựng hệ thống y tế rộng khắp, gần dân, tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Công tác dân số và phát triển là nhiệm vụ của toàn dân Ban Chấp hành Trung ương đánh giá cao những cố gắng và nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta trong việc thực hiện công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình ở nước ta nhiều năm qua với những kết quả quan trọng đã đạt được. Tuy nhiên, tình hình thế giới, trong nước đã và đang có nhiều thay Tµi nguyªn vµ M«i tr ưêng Kú 2 - Th¸ng 11/20172 Một số vấn đề quan trọng và cấp thiết của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII m CHU THÀNH Vấn đề - Sự kiện đổi, đòi hỏi phải có những đổi mới công tác dân số để giải quyết toàn diện, đồng bộ và căn bản hơn các vấn đề về dân số; phấn đấu duy trì ổn định vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỷ lệ giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; duy trì và tận dụng có hiệu quả lợi thế cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số, nâng cao chất lượng dân số, phân bố dân số phù hợp với quá trình phát triển. Trung ương khẳng định: Chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển; chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ với phát triển KT-XH, bảo đảm QP-AN quốc gia. Coi công tác dân số và phát triển là nhiệm vụ của toàn dân; đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho phát triển bền vững; Nhà nước ưu tiên bố trí ngân sách, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa; tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ của quốc tế, bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số. Tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động Ban Chấp hành Trung ương đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề này và yêu cầu trong thời gian tới, toàn hệ thống chính trị phải chủ động, tích cực vào cuộc, coi đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là một nhiệm vụ cơ bản và cấp bách, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, được đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Cần khẩn trương nghiên cứu, xây dựng mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể của nước ta trong giai đoạn mới; trên cơ sở đó xác định những công việc cần thiết và có thể triển khai thực hiện ngay. Rà soát, quy định chặt chẽ hơn về biên chế, số lượng cán bộ, công chức, viên chức; chú ý quy định số lượng cấp phó tối đa của mỗi tổ chức phù hợp với đặc điểm của từng cấp, từng ngành, từng địa phương; có chính sách phù hợp để giảm phạm vi, đối tượng bổ nhiệm cấp “hàm”. Xây dựng cơ chế cạnh tranh, công khai, minh bạch trong tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ để thu hút người thực sự có đức, có tài. Rà soát, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn các đầu mối bên trong của các tổ chức thuộc hệ thống chính trị theo nguyên tắc một tổ chức có thể đảm nhiệm nhiều việc; một việc chỉ do một tổ chức chủ trì và chịu trách nhiệm chính, gắn với việc cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức; giảm tỉ lệ người phục vụ, nhất là khối văn phòng. Nâng cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp công Ban Chấp hành Trung ương đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết, cấp bách phải đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên hàng đầu trong thời gian tới. Nhà nước phải chăm lo bảo đảm cung cấp dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu; nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ sự nghiệp công cho mọi tầng lớp nhân dân trên cơ sở tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước; giữ vững, phát huy tốt hơn nữa vai trò chủ đạo, vị trí then chốt, bản chất tốt đẹp, ưu việt, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận của các đơn vị sự nghiệp công lập. Trung ương yêu cầu phải khẩn trương sắp xếp, đổi mới tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập phù hợp với đặc điểm tình hình của từng ngành, lĩnh vực và địa bàn, gắn với đẩy mạnh xã hội hóa, nhưng không thương mại hóa lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công. Đẩy mạnh việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp KHCN có đủ điều kiện thành doanh nghiệp, bao gồm cả hình thức công ty cổ phần. Bất cứ trường hợp nào vi phạm đều phải xử lý nghiêm Về việc xem xét thi hành kỷ luật, Trung ương cho rằng: Từng đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và mọi cán bộ, đảng viên, công chức cần thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, thường xuyên tự soi, tự sửa, tự răn mình, tránh xa những cám dỗ vật chất, tham vọng, tránh đi vào vết xe đổ, để tay nhúng chàm. Từ nay trở đi, bất cứ trường hợp nào mà vi phạm kỷ luật, đều phải xử lý nghiêm, làm nghiêm từ trên xuống dưới để giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng, để lấy lại, củng cố lòng tin và tình thương yêu quý trọng của nhân dân. Trong lời bế mạc, Tổng Bí thư kêu gọi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc hơn, bài bản hơn, có hiệu quả cao hơn Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, các nghị quyết Trung ương khóa XII và đặc biệt là các nghị quyết, kết luận của Hội nghị Trung ương lần này, để phát huy những kết quả, thành tựu đã đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém còn tồn tại, hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt đề ra cho năm 2017 - 2018 và các năm tiếp theo.n 3Tµi nguyªn vµ M«i tr ưêng Kú 2 - Th¸ng 11/2017 Tµi nguyªn vµ M«i tr ưêng Kú 2 - Th¸ng 11/20174 Ngày 10/11/2017, thừa ủyquyền của Thủ tướngChính phủ, Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà đã trình bày Tờ trình dự án Luật ĐĐ&BĐ. Dự thảo Luật ĐĐ&BĐ gồm 63 điều thể hiện trong 9 chương, với những nội dung đáng chủ ý sau: SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT ĐO ĐẠC VÀ BẢN ĐỒ Hoạt động ĐĐ&BĐ là hoạt động điều tra cơ bản, đặc biệt quan trọng, làm nền tảng để triển khai các nghiên cứu khoa học về trái đất, cung cấp các dữ liệu cơ bản phục vụ phát triển KT-XH, QP-AN; phục vụ quy hoạch, quản lý lãnh thổ, giám sát TN&MT; phòng chống thiên tai và cứu hộ cứu nạn; góp phần bảo vệ và khẳng định chủ quyền lãnh thổ quốc gia, góp phần nâng cao dân trí. Các sản phẩm ĐĐ, BĐ và dữ liệu thông tin địa lý được sử dụng rộng rãi trong hoạt động hàng ngày của đời sống xã hội. Công tác ĐĐ&BĐ ở Việt Nam có truyền thống lịch sử lâu đời. Từ thời Hồng Đức, vua Lê Thánh Tông đã cho thành lập bản đồ cả nước phục vụ quản lý lãnh thổ. Ngay sau khi thành lập nước tháng 9 năm 1945, cơ quan bản đồ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập để thực hiện các nhiệm vụ địa hình quân sự phục vụ tác chiến, bảo đảm thắng lợi trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Ngày 14/12/1959, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký Nghị định số 444/TTg thành lập Cục ĐĐ&BĐ trực thuộc Phủ Thủ tướng. Hơn 70 năm qua, ngành ĐĐ&BĐ Việt Nam đã hoàn thành nhiều công trình ĐĐ&BĐ cơ bản quan trọng phục vụ phát triển đất nước: Hệ tọa độ quốc gia, hệ độ cao quốc gia, hệ trọng lực quốc gia, các mạng lưới đo đạc quốc gia, hệ thống cơ sở dữ liệu nền địa lý quốc gia, hệ thống bản đồ địa hình quốc gia, hệ thống bản đồ địa chính phục vụ quản lý đất đai. Từ những năm 90 của thế kỷ trước, công tác ĐĐ&BĐ đã bắt đầu thực hiện quá trình đổi mới mạnh mẽ công nghệ thu nhận và xử lý dữ liệu với việc ứng dụng công nghệ định vị toàn cầu (GPS), công nghệ bản đồ số, công nghệ thu nhận và xử lý ảnh viễn thám để thành lập hệ thống bản đồ địa hình quốc gia phủ trùm cả nước, giám sát tài nguyên, môi trường, từng bước đáp ứng nhiệm vụ quản lý của các bộ, ngành, địa phương và nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên, qua tổng kết thực tiễn, công tác QLNN và tổ chức triển khai hoạt động ĐĐ&BĐ trong thời gian vừa qua còn một số tồn tại như sau: Thứ nhất, thiếu sự thống nhất, đồng bộ trong quản lý và triển khai hoạt động ĐĐ&BĐ: Văn bản có tính pháp lý cao nhất quy định về hoạt động ĐĐ&BĐ là Nghị định số 45 năm 2015 của Chính phủ (thay thế cho Nghị định số 12 năm 2002 trước đây). Nội dung nghị định chưa bao quát hết các hoạt động ĐĐ&BĐ cần quản lý, không đủ tính pháp lý để điều chỉnh các hoạt động ĐĐ&BĐ chuyên ngành được quy định rải rác tại các luật đã ban hành. Vì vậy, chưa đáp ứng yêu cầu thống nhất, đồng bộ trong quản lý và triển khai hoạt động ĐĐ&BĐ trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát triển KHCN. Thứ hai, hoạt động ĐĐ&BĐ còn chồng chéo, lãng phí: Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, đơn vị trong xây dựng, quản lý và triển khai các hoạt động ĐĐ&BĐ chưa chặt chẽ, chưa thống nhất dẫn đến trên cùng một khu vực còn xảy ra hiện tượng đo đạc chồng chéo, lãng phí thời gian, kinh phí. Thứ ba, việc phân cấp giữa trung ương và địa phương chưa phù hợp: Theo quy định hiện hành, hầu hết các nhiệm vụ ĐĐ&BĐ cơ bản thuộc trách nhiệm tổ chức triển khai của cơ quan QLNN về ĐĐ&BĐ tại trung ương. Do đó, xảy ra tình trạng khi cần các dữ liệu ĐĐ&BĐ phục vụ cho quản lý, quy hoạch, phát triển KT- XH của địa phương, đặc biệt là tại các đô thị có sự phát triển nhanh chóng thì Trung ương không đáp ứng kịp thời. Trong khi đó, phần lớn các địa phương hoàn toàn có đủ năng lực quản lý cũng như nguồn lực để đầu tư, tổ chức triển khai. Chính sách quản lý tập trung, bao cấp như hiện nay đã không phát huy được tiềm năng, nguồn Quốc hội thảo luận Dự án Luật Đo Đạc và Bản Đồ m PHAN ĐỨC HIẾU Cục trưởng Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin Địa lý Việt Nam Vấn đề - Sự kiện lực, tính chủ động của địa phương trong triển khai các nhiệm vụ ĐĐ&BĐ phục vụ các nhiệm vụ của địa phương. Thứ tư, chính sách phát triển, quản lý công trình hạ tầng đo đạc chưa đồng bộ: Các công trình hạ tầng đo đạc là tài sản quốc gia, gắn liền với hệ thống tọa độ, độ cao, trọng lực quốc gia. Công trình hạ tầng đo đạc có một vai trò hết sức quan trọng, là nền tảng để triển khai thực hiện các hoạt động ĐĐ&BĐ thống nhất trên toàn quốc. Tuy nhiên, chính sách phát triển, quản lý công trình hạ tầng đo đạc hiện nay chưa rõ về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; hạ tầng đo đạc chưa thống nhất, đồng bộ, kết nối do vậy chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển hiện nay. Thứ năm, việc quản lý, cung cấp thông tin, dữ liệu, sản phẩm ĐĐ&BĐ còn bất cập: Các sản phẩm, thông tin, dữ liệu ĐĐ&BĐ hiện nay được lưu giữ phân tán ở nhiều nơi, chưa có hệ thống quy chuẩn thống nhất, chưa được tích hợp liên thông để chia sẻ, dùng chung; việc khai thác, tiếp cận dữ liệu của các tổ chức, người dân đối với một số loại dữ liệu còn khó khăn. Quy định mức độ mật đối với một số loại sản phẩm, dữ liệu ĐĐ&BĐ chưa hợp lý, làm hạn chế việc sử dụng. Thứ sáu, cơ chế chính sách về hoạt động đo đạc bản đồ chưa đổi mới, chưa theo kịp với thành tựu