Tóm tắt. Khi viết tiểu thuyết Bến không chồng, Dương Hướng đã lấy bối cảnh đất
nước ta vừa kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp và lại tiếp tục cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cùng với đó là nhịp sống nơi hậu phương của một làng quê ở vùng đồng
bằng Bắc bộ có tên gọi là làng Đông. Làng Đông trong cái nhìn của Dương Hướng
nó giống như một bức tranh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam trong thời kì chiến
tranh và sau chiến tranh. Nó bao bọc cả một thế hệ người phụ nữ chịu thương, chịu
khó nơi đây với những nhân vật như Bà Nhân, Bà Khiên, Hạnh, Dâu, Cúc, Thắm,
Hồng, Thoa,. . . Với cái tên Bến không chồng, Dương Hướng đã giúp cho người đọc
hiểu được một phần nào đó về cuộc đời và số phận nghiệt ngã của những người phụ
nữ nơi làng Đông.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 365 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thân phận người phụ nữ dưới góc nhìn về chiến tranh của Dương Hướng trong Bến không chồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci., 2014, Vol. 59, No. 3, pp. 63-69
This paper is available online at
THÂN PHẬN NGƯỜI PHỤ NỮ DƯỚI GÓC NHÌN
VỀ CHIẾN TRANH CỦA DƯƠNG HƯỚNG TRONG BẾN KHÔNG CHỒNG
Trương Thị Kim Anh
Khoa Sư phạm Xã hội, Trường Đại học Đồng Nai
Tóm tắt. Khi viết tiểu thuyết Bến không chồng, Dương Hướng đã lấy bối cảnh đất
nước ta vừa kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp và lại tiếp tục cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cùng với đó là nhịp sống nơi hậu phương của một làng quê ở vùng đồng
bằng Bắc bộ có tên gọi là làng Đông. Làng Đông trong cái nhìn của Dương Hướng
nó giống như một bức tranh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam trong thời kì chiến
tranh và sau chiến tranh. Nó bao bọc cả một thế hệ người phụ nữ chịu thương, chịu
khó nơi đây với những nhân vật như Bà Nhân, Bà Khiên, Hạnh, Dâu, Cúc, Thắm,
Hồng, Thoa,. . . Với cái tên Bến không chồng, Dương Hướng đã giúp cho người đọc
hiểu được một phần nào đó về cuộc đời và số phận nghiệt ngã của những người phụ
nữ nơi làng Đông.
Từ khóa: Bến không chồng, Dương Hướng, thân phận người phụ nữ, góc nhìn về
chiến tranh, người lính, số phận, bi kịch, tình yêu.
1. Mở đầu
Mặc dù chiến tranh đã đi qua nhưng việc khai thác viết về đề tài chiến tranh, viết về
số phận của những con người trong chiến tranh và sau chiến tranh không bao giờ ngừng
nghỉ đối với các nhà văn, bởi vì chiến tranh là “điều còn lại và điều mãi mãi”. Đáng chú
nhất ở một số tác giả, tác phẩm như Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh, Nguyễn Trọng
Oánh với Đất trắng, Tô Nhuận Vỹ với Dòng sông phẳng lặng, Nguyễn Trí Huân với Chim
én bay, Chu Lai với Vòng tròn bội bạc, v.v. . . và đặc biệt là Dương Hướng với Bến không
chồng [5].
Nếu như ở Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh tập trung đi sâu vào phản ánh số phận
tình yêu của con người trong chiến tranh, ở Đất trắng thì Nguyễn Trọng Oánh lại viết về
sự phản bội lại đồng đội của con người trong chiến tranh, ở Vòng tròn bội bạc thì Chu Lai
lại viết về số phận của những người lính trở về sau chiến tranh, còn ở Bến không chồng thì
Dương Hướng lại tập trung khai thác số phận tình yêu và hạnh phúc của những phụ nữ ở
Ngày nhận bài 11/11/2014. Ngày nhận đăng 2/02/2014.
Liên lạc Trương Thị Kim Anh, e-mail: ttka83@gmail.com
63
Trương Thị Kim Anh
hậu phương trong chiến tranh và sau chiến tranh. Bởi vì chiến tranh không chỉ mang đến
những đau thương và mất mát cho người lính nơi tiền tuyến mà còn có cả những người
phụ nữ nơi hậu phương. Đó là nỗi đau của những người vợ mất chồng, người mẹ mất con,
người em gái mất anh trai, đặt biệt nhất là nỗi đau của những người con gái không tìm
được hạnh phúc trong tình yêu và hôn nhân gia đình. Đây chính là điểm sáng trong Bến
không chồng của Dương Hướng so với những tác giả khác khi nhìn lại cuộc chiến tranh
đã đi qua.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Thân phận người phụ nữ dưới góc nhìn về chiến tranh của Dương
Hướng trong Bến không chồng
2.1.1. Thân phận những người làm vợ, làm mẹ trong Bến không chồng
Bến không chồng, chỉ với một cái tên thôi thì chưa thể đánh giá hết được giá trị to
lớn mà cuốn tiểu thuyết này đem lại cho người đọc. Điều đó nó phải được đào sâu và tìm
hiểu qua từng nhân vật gắn liền với từng hoàn cảnh, từng số phận khác nhau, thì khi đó
người đọc mới thấy hết được giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm.
Cuốn tiểu thuyết được bắt đầu với hình ảnh người lính chiến thắng trở về sau cuộc
kháng chiến chống Pháp, đó là Nguyễn Vạn – một người con sinh ra và lớn lên ở làng
Đông. Nguyễn Vạn trở về với một niềm tự hào trên ngực rung rinh, lấp lánh những tấm
huy chương, nhưng Nguyễn Vạn lại mang về cho bà Nhân một nỗi đau vô cùng to lớn, đó
là tin chồng bà đã hi sinh ngoài mặt trận. Khi nghe tin này, bà Nhân “thấy mình như đang
ở một thế giới khác, mọi cảnh vật quanh chị đều nhuốm màu chết chóc” [5;21]. Bà Nhân
không như những “chinh phụ” ngày xưa khi tiễn chồng đi chinh chiến là cùng chung một
giấc mộng với “chinh phu” là lập được nhiều công trạng ở ngoài mặt trận đề được “cái
ấn phong hầu”. Ở bà chỉ mong một điều duy nhất là kết thúc chiến tranh và chồng bà trở
về để bà được “làm vợ” như đúng nghĩa của nó chứ không mong gì chức tước cả, vì thế
“mấy đêm nay chị liên tục mơ thấy chồng về, anh ấy cứ lặng lẽ đứng bên giường chị mà
chẳng nói gì cả” [5;22]. Nhưng không, chồng bà đã mãi mãi không về, chồng bà chỉ về
trong giấc mơ, trong sự khao khát được “đè” lên, được làm một cái “bến có chồng” chứ
không phải làm một cái bến không chồng trong sự đau đớn của bà: “Chồng chị nhảy bổ
lên giường đè sấn lên người chị, chị thấy mình chìm nghỉm xuống vực thẳm, chân tay chị
tê dại. Chị với giãy dụa, đạp: “Ối! Bố thằng Hà, đừng làm thế, tôi chết mất” [5;22].
Nỗi khao khát của người phụ nữ trong chiến tranh giản dị và đáng thương là thế,
vậy mà có ai hiểu được nỗi buồn, nỗi cô đơn trong họ chăng, họ chỉ sống bằng những giọt
nước mắt khi nghĩ về chồng mình, bằng những cơn mơ ú ớ khi nghĩ đến hạnh phúc được
chồng yêu. Cuộc đời bà Nhân giờ chẳng khác gì như một vệt nắng cuối thu, điều còn lại
để bà hi vọng đó là đứa con gái duy nhất tên là Hạnh, nhưng có lẽ cuộc đời Hạnh cũng
chẳng suôn sẻ gì nên bà càng ngày càng già đi khi mỗi lần nghĩ về chồng, về con. Số phận
bà Nhân là thế, còn bà Khiên – mẹ Nghĩa thì cũng chẳng hạnh phúc gì khi sống trong
cái từ đường họ Nguyễn với những xung đột khá gay gắt trong bối cảnh đất nước đang
64
Thân phận người phụ nữ dưới góc nhìn về chiến tranh của Dương Hướng trong Bến không chồng
chiến tranh. Nếu nhìn vào cuộc sống của bà Khiên thì hẳn ai cũng nghĩ bà đang hạnh phúc
hơn những người phụ nữ khác cùng lớp tuổi như bà ở cái làng Đông này. Đó là chồng bà
không phải đi biền biện trong chiến tranh, rồi bà có cả một đứa con trai nữa. Nhưng hạnh
phúc đối với bà cũng chẳng kéo dài, kể từ khi Nghĩa lấy Hạnh thì gia đình bà trở nên xáo
trộn hẳn lên không còn êm ấm như ngày xưa nữa. Vì dòng họ Nguyễn đã có lời nguyền
độc với dòng họ Vũ “Nước sông Đình ngàn năm không cạn – Cầu Đá Bạc vạn kiếp trơ
trơ – Bến Tình còn đẹp còn mơ – Mối thù họ Vũ bao giờ mới nguôi” [5;15]. Cũng chính
lời nguyền độc này mà bao nhiêu cặp trai gái hai họ Nguyễn – Vũ yêu nhau nhưng không
được lấy nhau, nhưng đến Nghĩa và Hạnh thì hai người đã dám “bước qua lời nguyền” và
lấy nhau được. Chính vì điều này mà khiến cho bà Khiên rất đau khổ khi phải đối diện
với chính những người trong họ và cả bố Nghĩa nữa. Rồi sau đó, Nghĩa – đứa con trai duy
nhất của bà lại ra đi vào chiến trường miền Nam để tham gia chiến đấu, nỗi đau của một
người mẹ lại càng nặng trĩu hơn bao giờ hết “Bà tí ngất xỉu khi nó thì thầm vào tai bà:
“Con đi” [5;106]. Nghĩa đi không bao lâu thì chồng bà cũng chết, như vậy bà lại trở thành
Bến không chồng như bao nhiêu người phụ nữ ở làng Đông này.
Ngoài số phận bà Nhân, bà Khiên ra chắc chắn sẽ còn rất nhiều những số phận bi
kịch khác ở cái làng Đông này nói riêng và khắp các làng quê Việt Nam nói chung. Chiến
tranh đã mang đi những người thân yêu của họ một cách vô tình trong niềm đau vô hạn, số
phận của họ chẳng khác nào như những bi kịch “vọng phu” của thời hiện đại. Bến không
chồng của Dương Hướng như một chứng nhân của hai cuộc chiến tranh, chứng kiến những
bi kịch mà người phụ nữ phải gánh chịu, không có người phụ nữ nào hạnh phúc ở cái bến
ấy, bi kịch trong họ không chỉ chiến tranh là nguyên nhân mà còn có cả bi kịch con người
không dám đối mặt với các định kiến xã hội.
2.1.2. Thân phận những người con gái trong Bến không chồng
Khi đất nước có chiến tranh thì những cái bến không chồng trở thành một biểu trưng
cho cả giai đoạn dài lịch sử dân tộc, khi mà lớp lớp đàn ông, thanh niên trai tráng đều ra
trận cả, bỏ lại những người phụ nữ nơi hậu phương mòn mỏi đợi chờ trong vô vọng. Trong
số các nhân vật nữ trong Bến không chồng của Dương Hướng thì nhân vật Hạnh là người
làm cho độc giả khó quên nhất trong tác phẩm và cũng là nhân vật mà Dương Hướng dày
công vung đắp nhất. Ở Hạnh luôn tìm ẩn một sức sống mãnh liệt để vượt lên trên mọi rào
cản của cuộc đời, cô luôn đấu tranh và tìm kiếm hạnh phúc cho mình một cách không mệt
mỏi.
Khi Hạnh lấy Nghĩa, cả dòng họ nhà Hạnh và Nghĩa đều không đồng ý nhưng bằng
sức mạnh của tình yêu, tiếng gọi nơi con tim, Hạnh đã vượt qua mọi thành kiến của gia
tộc, vượt qua lời nguyền độc về mối thù họ Vũ mà cụ tổ dòng họ Nguyễn đã khắc ghi bao
đời. Để lấy được người mình yêu Hạnh phải chấp nhận một đám cưới mà hầu như không
có bậc sinh thành, dưỡng dục chứng kiến mà “Thành phần dự đám cưới là toàn bộ thanh
niên nam nữ trong chi đoàn và tụi trẻ con trong xóm, Bậc cha mẹ, cô, dì chú bác sợ mang
tiếng không ai dám đến. Lần đầu tiên làng Đông có đám cưới kì lạ” [5;84]. Đây là một
nỗi buồn của người con gái khi đi lấy chồng nhưng vì tình yêu, vì hạnh phúc tràn ngập
bên Nghĩa đã giúp cô vững tin để bước đi tiếp trên con đường mà cô đã chọn.
65
Trương Thị Kim Anh
Cuộc đời của Hạnh lại tiếp nối cuộc đời của mẹ cô là phải tiễn chồng đi chiến đấu,
ngày chia tay Nghĩa lên đường nhập ngũ “Hạnh nhìn những người phụ nữ cùng cảnh ngộ
như Hạnh có nhiều cô khóc sướt mướt. Đứng trước Nghĩa, không hiểu sao Hạnh không
thể khóc” [5;107]. Hạnh là thế đó, cô luôn cứng cỏi trước người mình yêu, luôn cùng
người yêu vượt lên mọi khó khăn thử thách nhưng số phận lại quá nghiệt ngã đối với cô.
Cô đâu biết rằng hạnh phúc của mình đang đặt trước một thử thách lớn hơn việc vượt qua
lời nguyền độc kia, đó là chiến tranh. Chiến tranh có thể làm thay đổi mọi số phận con
người mà không ai biết trước được, và chiến tranh cũng làm thay đổi cả một bộ mặt của
làng Đông. Rất nhiều thiếu nữ ở làng Đông này không lấy được chồng, phải chăng cũng
vì chiến tranh, bởi vì “Cả làng Đông bây giờ bói cũng chả còn đứa con trai nào nhìn cho
ra hồn. Đứa nào không đui què, sứt môi, tai điếc thì mười bảy đã đòi khai thêm tuổi để đi
khám nghĩa vụ” [5;150].
Theo năm tháng hoài mong, thì chiến tranh cũng kết thúc Nghĩa vẫn còn sống và
trở về bên Hạnh. Một niềm hạnh phúc không thể nào diễn tả trong cô từ khi cô nhận được
bức điện từ chồng mình, Hạnh chăm chút lại nhan sắc với tâm trạng đầy rạo rực xuân tình:
“Từ hôm nhận được điện của Nghĩa, rỗi lúc nào Hạnh lại lấy gương ngắm thấy mình già
đi bao nhiêu. Mười năm rồi còn gì” [5;215]. Mười năm là khoảng thời gian mà Hạnh phải
sống trong cảnh cô đơn với một nỗi niềm khát khao được yêu thương cháy bỏng trong
người con gái khi đi lấy chồng đang tuổi xuân thì, nhưng đó chỉ là những phút giây ngất
ngây hoang tưởng trong cô mà thôi “Một thời xuân sắc và những phút ái ân với Nghĩa
bỗng trổi dậy. Đầu óc Hạnh căng ra rung lên trong ngất ngây hoang tưởng. Hạnh lao ra
dòng nước mát lạnh sóng sánh bóng trăng. Cơ thể lâu ngày khô héo bỗng rạo rực ngập
tràn hưng phấn. Hạnh vùng vẫy, quẫy đạp trong ham muốn làm tình với nước” [5;199].
Còn thực tại thì có lẽ cô cũng giống như mẹ cô ngày trước, thế hệ lại nối tiếp thế hệ trong
thời kì chiến tranh.
Nếu như chiến tranh không giết chết con người về mặt thể xác thì cũng giết chết con
người về mặt tinh thần, và Nghĩa của cô là vậy. Nghĩa về cùng với một chức vị cao trong
quân đội không chỉ làm cho cả dòng họ Nguyễn vui mừng mở mày mở mặt mà dường như
cả làng Đông cũng náo nức mừng Nghĩa về. Nhưng những “di chứng” của chiến tranh thì
không ai lường trước được, thay vào đó là Nghĩa mang về cho Hạnh nỗi đau hơn là niềm
vui. Từ ngày Nghĩa đi bộ đội Hạnh luôn khao khát có một đứa con với Nghĩa, khi nhìn lên
bụng Thắm đang mang thai, Hạnh “đặt nhẹ bàn tay lên bụng nó. Bụng Thắm tròn đầy ấm
nóng có một sự sống bé nhỏ đang mấp máy trong đó. Hạnh bỗng khao khát có với Nghĩa
một đứa con” [5;197]. Khi Nghĩa trở về Hạnh càng khao khát có con, khao khát được làm
mẹ hơn bao giờ hết và Hạnh nói với Nghĩa “Em mong lần này chúng mình sẽ có con”
[5;223]. Nhưng hết lần này đến lần khác Hạnh chẳng thấy được một thay đổi gì trong cơ
thể của mình, điều khiến cho cô càng đau đớn hơn khi nghe Nghĩa hỏi câu “Em đã có gì
chưa?” [5;255]. Và rồi mọi thứ lại đến với cô như một giấc mơ, cô cảm thấy cái hạnh phúc
mà lâu nay cô luôn mong đợi nó dần dần đi xa cô, để lại trong cô một nỗi trống vắng và
sợ hãi bởi những lời dị nghị của những người trong họ tộc và hàng xóm “Hạnh khiếp sợ
những ánh mắt lạnh lùng và những lời dị nghị “Bà thiếu tá phu nhân họ Nguyễn bị điếc”
[5;257]. Trong họ tộc lúc bây giờ lại đổ lỗi việc Hạnh không mang thai được là do Hạnh
66
Thân phận người phụ nữ dưới góc nhìn về chiến tranh của Dương Hướng trong Bến không chồng
chứ không phải do Nghĩa, họ đâu biết được rằng do “di chứng” của chiến tranh mà Nghĩa
đã không thể có con được. Chiến tranh đã cướp đi hết mọi thứ niềm tin và hi vọng tình yêu
trong cô, hạnh phúc trong cô với Nghĩa, cái hạnh phúc mà cô phải đánh đổi rất nhiều thứ
mới có được, để rồi điều còn lại trong cô lúc bây giờ là một tờ giấy li hôn gửi cho Nghĩa
“Thưa mẹ, đây là lá đơn li hôn con đã kí sẵn. Khi nào anh Nghĩa về mẹ đưa cho anh ấy”
[5;292]. Hạnh không còn gì nữa cả, mọi thứ đến với cô như một cơn lốc cuốn phăng đi
mọi thứ, cô đã mất hết tất cả, cái còn lại trong cô lúc bây giờ chỉ là một thân xác vật vờ
trôi giữa dòng đời, chỉ là một cái bến không chồng ở cái làng Đông này. Vượt qua mọi
rào cản của cuộc đời Hạnh lại một lần nữa quyết tâm tìm kiếm hạnh phúc riêng cho mình,
hay nói đúng hơn là để thực hiện ước mơ quyền làm mẹ trong cô, cô đã đến với chú Vạn
– người bạn thân của mẹ cô trong một đêm mưa gió chỉ có “tiếng hét và tiếng bước chân
chạy thình thịch” của một người phụ nữ đang khao khát được làm mẹ. Và cũng chính sau
cái đêm mưa gió ấy, cuộc đời Hạnh dường như đã lật sang trang mới, cô ra đi khỏi làng
Đông với một mầm sống đang lớn dần trong cô, ngày cô trở về làng Đông cùng với đứa
con gái của mình cũng là ngày cô nhận ra “Từ ngày đi khỏi làng Đông, Hạnh mới nhận ra
một điều con người ta sống trên đời cần có một mái gia đình. Không có lí gì khi ta làm
cho cuộc đời này tốt đẹp hơn lại là tội lỗi được” [5;330].
Khi đọc Bến không chồng của Dương Hướng chắc hẳn không ai không khỏi chạnh
lòng khi nghĩ về số phận của những cô thiếu nữ nơi làng Đông. Ngoài Hạnh ra, còn có rất
nhiều số phận bi kịch khác như Hồng, Cúc, Thắm, Dâu, Thao,. . . Ở họ chỉ biết có hai chữ
“đợi chờ”, đợi ngày hết chiến tranh, và “Chờ phút giây bình yên, đợi đạn bom ráo tạnh để
được ngồi bên anh, để được ghen, để được hờn, để được thương, để được giận, để thành
chồng, thành vợ và để được hôn con. . . ”. Nếu ai đã từng nghe những lời này trong bài hát
“Em vẫn đợi anh về” của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, lời thơ của Lê Giang thì hẳn sẽ càng hiểu
hơn nỗi ước vọng và khao khát cháy bỏng về một ngày mai tươi sáng và hạnh phúc trong
họ như thế nào. Nhưng không, chiến tranh đã cướp đi hết mọi ước mơ và hi vọng của họ,
họ không thể được “thành chồng thành vợ” với người mình yêu mà phải trở thành những
cái bến không chồng trong nỗi đau xót và đắng cay. Một đám cưới đã không thể diễn ra
trong sự chờ đợi của Hồng khi mà Hà là anh trai của Hạnh và cũng là người yêu của Hồng
mãi mãi không thể trở về. Khi nghe tin anh Hà chết thì Hạnh không chỉ thấy thương mẹ
mà còn thương cho Hồng vì Hạnh biết rằng: “chị Hồng người yêu anh Hà mấy năm cứ
trông chờ anh Hà về để làm đám cưới” [5;156]. Ở Dâu cũng chẳng khác gì Hồng, cũng
đợi chiến tranh kết thúc, cũng đợi người yêu trở về. Nhưng Hiệp, người yêu của Dâu đã
mãi mãi không trở về, để lại trong Dâu với bao nhiêu nỗi niềm ưu tư và tiếc nuối khi nghĩ
về Hiệp: “Anh ấy thiết tha mà mình thì gạt phăng. Lại còn động viên “anh cứ đi đi. Năm
năm, mười năm em vẫn chờ”. Bây giờ thì anh lại chẳng bao giờ về nữa” [5;231].
Ở Thắm và Cúc thì lại là một hoàn cảnh khác cũng không kém phần đau khổ gì so
với số phận Hạnh, Hồng, Dâu. Ở độ tuổi mười tám Thắm vào diện đẹp nhất làng Đông
thế mà phải lấy một tay thợ chụp ảnh tên là Huy bị thọt chân vì trai làng ai khỏe mạnh,
lành lặn thì đều đi bộ đội cả, đã thế “nhiều người làng Đông khen Thắm mát số lấy được
trai phố Huyện, thọt chân không phải đi bộ đội” [5;165]. Cuộc sống hôn nhân của Thắm
cũng chẳng hạnh phúc gì khi biết chồng không chung thủy với cô, sau này Thắm lại yêu
67
Trương Thị Kim Anh
một anh chàng pháo thủ tên là Thấu, nhưng chiến tranh đã mang người yêu Thắm đi mãi
mãi không biết khi nào trở lại, cô đành phải vò võ nuôi con một mình, rồi cũng trở thành
một cái bến không chồng ở làng Đông này. Còn Cúc thì lại càng đau khổ hơn khi mang trả
trầu cau lại cho Thành, bởi vì cô không tìm thấy được gương mặt lành lặn của người cô
yêu ngày xưa nữa, trong cô bây giờ chỉ còn lại một nỗi ám ảnh và sợ hãi khi đối diện với
Thành hơn là tình yêu: “Ngày anh ấy về mang vết thương trên mặt, em bàng hoàng nhiều
lúc gặp anh ấy em cứ ngớ ra cố hình dung gương mặt lành lặn của anh ấy ngày xưa, nhưng
khi nhìn mặt anh, em lại thấy hoàn toàn xa lạ, xa lạ tới mức đáng sợ. Gương mặt anh ấy
ám ảnh em cả trong giấc mơ” [5;173]. Chiến tranh đã làm cho gương mặt của Thành bị
biến dạng đi, không còn là Thành của cô ngày xưa nữa, điều còn lại trong Cúc bây giờ là
một nỗi niềm đau đớn giằng xé trong lòng, cô “giá mà đôi mắt em mù lòa đi không nhìn
thấy mà chỉ nghe anh ấy nói. . . ” [5;173]. Cúc không thể lấy người mình yêu vì chiến tranh
đã lấy đi gương mặt thân quen ngày xưa của người yêu cô, để rồi cuối cùng cô phải “vơ
bèo vạt tép” làm vợ lẽ người khác.
Mỗi người mỗi số phận và hoàn cảnh khác nhau, nhưng ở họ có cùng chung một bi
kịch là không tìm được một hạnh phúc trọn vẹn trong tình yêu, hôn nhân gia đình. Nếu
như trong thời kì xã hội phong kiến, với những đạo luật hà khắc của xã hội đã khiến cho
nhiều người phụ nữ không có quyền tự do trong việc lựa chọn người mình yêu, không có
quyền quyết định tương lai và số phận mình trong hôn nhân gia đình mà phải trông chờ
vào sự may mắn của cuộc đời, điều này thấy rất rõ qua các bài ca dao bắt đầu bằng môtíp
“thân em” như : Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai? ; Thân em
như hạt mưa sa / Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày; Thân em như giếng giữa đàng/ Người
khôn rửa mặt, người phàm rửa chân. . . [6;342]. Khi đến xã hội hiện đại, nhận thức của
con người về các mối quan hệ được nâng cao, người phụ nữ có nhiều quyền hơn, trong
đó có quyền quyết định về tình yêu hôn nhân gia đình. Họ đã dám khẳng định mình bằng
việc bước qua mọi rào cản, định kiến của xã hội để lấy được người mình yêu nhưng họ
không thể bước qua rào cản của chiến tranh. Bi kịch trong tình yêu hôn nhân gia đình của
những thiếu nữ làng Đông phải chăng là do chiến tranh đem lại chứ không phải những đạo
luật hà khắc của chế độ phong kiến xưa. Tuy nhiên, niềm tin và hi vọng trong họ về một
ngày mai không bao giờ vùi lấp, dù rằng cái ngày mai ấy hạnh phúc có đến với họ trong
sự muộn màng đi chăng nữa. Cũng như khi kết thúc truyện Dương Hướng viết: “Hạnh dắt
con gái đi bên Nghĩa. Giữa tiếng kèn réo rắt bên tai, chị vẫn nghe rõ lời chú Vạn cứ vẳng
lên. “Đừng thương hại tao. . . Hãy về với thằng Nghĩa. . . ” [5;333].
3. Kết luận
Khi viết Bến khồng chồng, Dương Hướng đã len lỏi vào được từng ngõ ngách những
góc khuất sâu thẳm của chiến tranh mà không ai tìm ra được, đó là sự cô đơn, sự khao
khát được chồng yêu, khao khát được làm vợ, làm mẹ của người phụ nữ nơi hậu phương.
Vì thế, khi tác phẩm mới ra đời đã tạo nên một sức hút lớn đến đông đảo bạn đọc, ngay
cả khi tác phẩm được đạo diễn Lưu Trọng Ninh dựng thành phim với cái tên Bến không
chồng cũng được mọi người đón nhận một cách khá háo hức về bộ phim. Bởi vì trong
68
Thân phận người phụ nữ dưới góc nhìn về chiến tranh của Dương Hướng trong Bến không chồng
chiến tranh không ai dám nghĩ đến tình yêu và hạnh phúc cho cá nhân mình, mà hầu như
chỉ nghĩ đến làm sao cho đất nước chấm dứt chiến tranh, nhân dân được ấm no, hạnh phúc,
còn những mất mát về đời tư cá nhân thì đành phải ngậm ngùi chôn chặt trong lòng, nhất
là đời tư cá nhân của người phụ nữ ở nông thôn. Bến không chồng của Dương Hướng ra
đời như một chìa khóa giúp bạn đọc hôm nay hiểu hơn về chiến tranh, về nỗi buồn, nỗi
cô đơn và nỗi bất hạnh của người phụ nữ trong chiến tranh. Bởi vì khi sống trong cả