DNA và RNA là những hợp chất cao phân tử. Các đơn phân là các
nucleotide. Mỗi nucleotide gồm ba thành phần
- H3PO4
- Đường desoxyribose (DNA ), ribose ( RNA)
- Nitrogenous base
10 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2568 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thành phần và cấu tạo hóa học của acid nucleic, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thành phần và cấu tạo hóa học của acid nucleic
DNA và RNA là những hợp chất cao phân tử. Các đơn phân là các
nucleotide. Mỗi nucleotide gồm ba thành phần
- H3PO4
- Đường desoxyribose (DNA ), ribose ( RNA)
- Nitrogenous base
DNA RNA
+ Purin Adenin (A) Adenin (A) Guanin (G) Guanin (G)
+ Pyrimidin Cytosin (C) Cytosin (C) Timin (T) Uracin (U)
(b) (c)
Hình 1.4 Thành phần đường và base của nucleotide
(a) Base purin va pyrimidin
(b) Đương ribose va deoxyribose
(c) Sư khac nhau giưa Thymine va Uracil
Trong nucleotide, base purin sẽ gắn với C1 của đường ỏ N9. Nếu là
pyrimidin thì sẽ gắn với C1 của đường ở N3. C5 của đường gắn với nhóm
phosphate.
Trong mạch, 2 nucleotide nối với nhau nhờ mối liên kết giữa nhóm
3’-OH của đường với nhóm -OH của H3PO4, cùng nhau mất đi một phân tử
nước.
Nếu phân tử chỉ gồm đường và nitrogenous base gọi là nucleoside.
1. DNA
1.1. Cấu tạo hóa học của DNA
Hình 1.5 Sự bắt cặp bổ sung của các base của hai mạch đơn
Trên cơ sở các nghiên cứu của mình, Chargaff (1951) đã đưa ra kết luận:
+ Số lượng A = T, G = C
+ Tỉ số (A +T)/(G + X) đặc trưng cho mỗi loài sinh vật.
Các base căn bản của acid nucleic bắt cặp bổ sung
Cũng trong thời gian này, Wilkins và Franklin (người Anh) nghiên cứu, phân
tích tán xạ bằng tia rơnghen, kết luận:
+ Các purin và pyrimidin có cấu trúc phẳng, mặt phẳng của chúng được xếp
vuông góc với trục dài của mạch polynucleotide cái này xếp chồng lên cái
kia, khoảng cách trung tâm giữa hai mặt phẳng kề nhau là 3,4 Ao
+ Mạch polynucleotide xoắn thành lò xo quanh trục giữa, mỗi bước xoắn là
34Ao (ứng với 10 nu)
+ Việc so sánh nồng độ DNA đo được với các số liệu tính toán trên cơ sở sắp
không gian của các nguyên tử cho thấy DNA có nhiều hơn một mạch
polynucleotide.
Năm 1951, J. Watson và F. Crick: tổng hợp các số liệu phân tích hóa học và
tán xạ của tia X, để xây dựng nên mô hình cấu trúc phân tử DNA. Theo mô
hình này, phân tử DNA có những đặc trưng chủ yếu trong cấu trúc không
gian như sau:
Hình 1.6. Mối liên kết hydro giữa A-T và G-C
1. Phân tử DNA gồm hai chuỗi polynucleotide xoắn song song ngược chiều
quanh một trục chung.
2. Các gốc base quay vào phía trong của vòng xoắn, còn các gốc H3PO4,
pentose quay ra ngoài tạo phần mặt của hình trụ. Các mặt phẳng của phân tử
đường nằm về phía phải của các base. Còn các base thì xếp trên những mặt
phẳng song song với nhau và thẳng góc với trục phân tử. Khoảng cách giữa
các cặp base là 3,4 Ao. Chúng lệch nhau một góc 360 nên cứ 10 gốc (10
nucleotide) tạo nên một vòng quay.
Hình 1.7 Chuỗi xoắn kép DNA
3. Chiều cao của mỗi vòng xoắn là 34 Ao, gồm 10 bậc thang do 10
cặp base tạo nên. Đường kính của vòng xoắn là 20 Ao.
4. Hai chuỗi polynucleotide gắn với nhau qua liên kết hydro được hình thành
giữa các cặp base đứng đối diện nhau theo nguyên tắc bổ sung cặp đôi
nghiêm ngặt: A luôn luôn liên kết với T bằng 2 mối liên kết hydro,
G liên kết với X bằng 3 mối liên kết hydro. Do đó trong phân tử DNA tổng
số base loại pirimidin luôn bằng tổng số các base loại purin (quy luật
Chargaff).
+ Khoảng cách giữa hai mạch polynucleotide luôn xác định, không thay đổi.
Khoảng cách này bằng kích thước của một base loại purin cộng với kích
thước của một base loại pirimidin.
+ A luôn luôn đi với T là vì giữa 2 base này chỉ có khả năng hình thành nên
hai liên kết hydrro ở các vị trí N6 - O6 và N1 - N1.
G luôn luôn đi với X vì giữa 2 base này có thể tạo ra 3 liên kết hydro ở các vị
trí N6 - O6, N1 -N1 và N2 - O2.
Vì vậy mà A chỉ liên kết với T và G chỉ liên kết với C.
5. Tính chất bổ sung giữa các cặp base dẫn đến tính chất bổ sung giữa hai
chuỗi polynucleotide của DNA. Do đó biết thành phần, trật tự sắp xếp của
các nucleotide trên chuỗi này sẽ suy ra thành phần, trật tự sắp xếp của các
nucleotide trên chuỗi kia. Đặc điểm quan trọng nhất của mô hình là đối song
song (antiparallel). Để các bazơ tương ứng đối diện nhau, hai mạch cần phải
bố trí: đầu của sợi này đối diện với đuôi của sợi kia. Mô hình Watson-Crick
ra đời từ năm 1953 và trong vòng 25 năm tiếp theo nó được công nhận và sử
dụng rộng rãi.
Mãi đến những năm 70, nhờ dùng các phân tích chính xác nhiều dạng DNA
đã được phát hiện, dạng thường gặp là dạng B theo mô hình của Watson-
Crick, đây là cấu trúc phổ biến cho hầu hết sinh vật. Mỗi dạng DNA là một
dòng họ các phân tử có kích thước dao động quanh các trị số trung bình
Hai chỉ số được dùng để đánh giá DNA
- Chỉ số h: là chiều cao giữa hai nu kề nhau.
- Chỉ số n: số nucleotide của một vòng xoắn
Ngoài DNA dạng B, còn nhiều dạng xoắn phải khác (A, C, D ...) chúng phân
biệt với DNA dạng B về khoảng cách giữa các base cũng như độ nghiêng của
chúng so với trục và sự phân bố trên chuỗi kép.
Gần đây, người ta còn phát hiện ra một dạng DNA có bộ khung zigzag và
đóng xoắn theo chiều trái, gọi là DNA xoắn trái hay DNA Z, trên mỗi vòng
xoắn có tới 12 cặp base. Giải thích sự tồn tại của DNA Z có nhiều quan niệm
khác nhau: Theo Watson, chỉ trong những điều kiện đặc biệt, như nồng độ
muối cao thì các vùng chứa trình tự ...GCGCGC... chuyển sang cấu hình Z,
ngược lại ở nồng độ muối thấp chúng quay trở lại dạng B. Điều đó chứng tỏ
DNA Z có thể đóng vai trò giảm sức căng cục bộ trong phân tử DNA siêu
xoắn hoặc có thể tương tác đặc thù với các protein điều hòa. Tuy nhiên A.
Rich cho rằng DNA Z xảy ra trong tự nhiên mà bằng chứng là có mặt trong
ruồi giấm bình thường. Có thể là vùng DNA Z nằm xen kẻ với vùng DNA B
và chúng có thể xoay hình dáng thành dạng B khi xảy ra các biến đổi hóa học
nào đó làm cho DNA Z trở nên không ổn định. Rich còn gợi ý rằng những
gen nằm ở các vùng bị xoay như thế thì có thể tháo xoắn sau đó và bắt đầu
phiên mã. Nhờ vậy mà protein có thể được tổng hợp. Mặc
dù đây mới chỉ là giả thiết song khám phá này đã cung cấp một công cụ tiềm
năng cho nghiên cứu về hoạt động của các gen và DNA.Việc phát hiện các
dạng DNA cho thấy DNA trong tế bào không đơn điệu. tùy trạng thái sinh lý
mà DNA ở dạng này hoặc dạng khác.
Hình 1.8 DNA dạng xoắn kép Z
a. Mô hình dạng B của Watson-Crick, là dạng xoắn phải với trục đều
b. Mô hình dạng Z, là dạng xoắn trái với trục không đều