Thành tựu hoạt động ngữ văn học của Lê Quý Đôn trong bối cảnh học thuật thời trung đại

Tóm tắt. Trên cơ sở tổng hợp và phân tích kết quả nghiên cứu về Lê Quý Đôn, đồng thời khảo sát trực tiếp di sản ngữ văn mà Lê Quý Đôn để lại, bài viết tiến hành phân loại và đánh giá về thành tựu hoạt động ngữ văn học của ông, xét trong bối cảnh học thuật đương thời. Di sản Hán Nôm mà nhà bác học Lê Quý Đôn để lại cho chúng ta là một gia tài vô giá. Với một khối lượng trước tác đồ sộ gồm trên 30 bộ sách lớn còn để lại cho đến ngày nay, ông xứng đáng được coi là một nhà hoạt động ngữ văn học tiêu biểu nhất trong thời phong kiến. Bên cạnh những sáng tác thơ văn, với các bộ sách biên khảo bao quát hầu hết các lĩnh vực học thuật thời trung đại, Lê Quý Đôn thực sự là người đầu tiên đã tổng kết về văn hiến Việt Nam một cách quy mô nhất.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 240 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thành tựu hoạt động ngữ văn học của Lê Quý Đôn trong bối cảnh học thuật thời trung đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Science, 2013, Vol. 58, No. 2, pp. 3-10 This paper is available online at THÀNH TỰU HOẠT ĐỘNG NGỮ VĂN HỌC CỦA LÊ QUÝ ĐÔN TRONG BỐI CẢNH HỌC THUẬT THỜI TRUNG ĐẠI Hà Minh Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Trên cơ sở tổng hợp và phân tích kết quả nghiên cứu về Lê Quý Đôn, đồng thời khảo sát trực tiếp di sản ngữ văn mà Lê Quý Đôn để lại, bài viết tiến hành phân loại và đánh giá về thành tựu hoạt động ngữ văn học của ông, xét trong bối cảnh học thuật đương thời. Di sản Hán Nôm mà nhà bác học Lê Quý Đôn để lại cho chúng ta là một gia tài vô giá. Với một khối lượng trước tác đồ sộ gồm trên 30 bộ sách lớn còn để lại cho đến ngày nay, ông xứng đáng được coi là một nhà hoạt động ngữ văn học tiêu biểu nhất trong thời phong kiến. Bên cạnh những sáng tác thơ văn, với các bộ sách biên khảo bao quát hầu hết các lĩnh vực học thuật thời trung đại, Lê Quý Đôn thực sự là người đầu tiên đã tổng kết về văn hiến Việt Nam một cách quy mô nhất. Từ khóa: Lê Quý Đôn, ngữ văn học, học thuật thời trung đại, văn hiến Việt Nam. 1. Mở đầu Lê Quý Đôn là nhà bác học Việt Nam thế kỉ XVIII. Di sản tư tưởng và trước thuật của ông có ảnh hưởng lớn đến đương thời và sau này. Chính vì thế mà cuộc đời và sự nghiệp của Lê Quý Đôn đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, giới thiệu (xin xem thêm [1], [5] và [8]). Lê Quý Đôn có một khối lượng công trình biên soạn, trước thuật đồ sộ, bao quát gần như toàn bộ các mặt, các lĩnh vực của học thuật và đời xống xã hội thời phong kiến như: lịch sử, địa lí, kinh học, văn học, nông học, kinh tế, chính trị, ngôn ngữ, tôn giáo, triết học, dân tộc học, nghệ thuật. . . Ở bất cứ lĩnh vực nào, ông đều có những phát hiện và kiến giải sâu sắc, đóng góp tư tưởng và tư liệu - phương pháp độc đáo. Sự nghiệp mà Lê Quý Đôn để lại, theo thời gian, cần tiếp tục có những khảo cứu, bàn giải, công bố ở những phạm vi sâu rộng hơn. Ở đây, chúng tôi chỉ chú ý khẳng định vị trí và đóng góp của Lê Quý Đôn với tư cách là một nhà hoạt động ngữ văn học tiêu biểu, thể hiện qua một loạt những công trình biên soạn khảo cứu công phu trải gần suốt cả cuộc đời, qua những biến động thăng trầm của thời đại. Ngày nhận bài 1/9/2012. Ngày nhận đăng 25/1/2013. Liên lạc Hà Văn Minh, e-mail: haminhsphn@gmail.com 3 Hà Minh 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Chế độ văn quan phương Đông cổ truyền là cơ sở sản sinh ra tầng lớp trí thức Nho học. Trí thức Nho học (nhà Nho) hoạt động trong nhiều lĩnh vực trọng yếu của thể chế chính trị, văn hóa và xã hội, họ trực tiếp tạo ra thành tựu văn hiến đương thời và những thành tựu ấy trở thành di sản văn hiến của dân tộc. Nghiên cứu, thẩm định, luận thuật, bảo tồn, khai thác di sản văn hiến quá khứ và đương thời trong lịch sử đã hình thành một ý thức học thuật độc đáo, tạo ra một loại nhà Nho làm khoa học đặc biệt, mà thành tựu cống hiến của họ sẽ có khả năng trùm lên nhiều thời đại. Lê Quý Đôn là một trong số không nhiều trí thức Nho học tự đặt lên vai mình gánh nặng chuyên chở những giá trị văn hiến này của dân tộc trong thời trung đại. Là một người đa tài, Lê Quý Đôn làm quan ở nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu vẫn là văn quan: Thị thư ở Viện Hàn Lâm, Toản tu quốc sử, Quốc Tử Giám tư nghiệp, Quốc sử quán tổng tài, Hàn lâm viện Thị giảng, Thừa chỉ Viện Hàn Lâm, Học sĩ ở Bí thư các. . . Như vậy, cuộc đời ông, dẫu trải nhiều thăng giáng, nhưng luôn gắn liền với văn hiến. Văn hiến hay di sản văn hóa thành văn (di sản ngữ văn) là sản phẩm của lịch sử văn hóa, nó là thước đo trình độ văn minh học thuật của một dân tộc, một vùng đất, của một triều đại hay cả một thời kì lịch sử lâu dài. Di sản ngữ văn này bao quát mọi phương diện của đời sống con người trong quá khứ cũng như trong hiện tại và tương lai. Nghiên cứu ngữ văn học lấy tư liệu văn hiến làm đối tượng. Hoạt động ngữ văn học cổ điển hay văn hiến học cổ điển, hiểu theo nghĩa rộng nhất, sẽ bao gồm các hoạt động và thành tựu trên các lĩnh vực trước thuật, biên định, tổ chức, khảo luận, đánh giá, truyền bá... di sản văn hiến của dân tộc và nhân loại. Nếu như bộ môn Văn hiến học hiện nay chỉ chủ yếu nghiên cứu các vấn đề văn bản học (Trung Hoa gọi là bản bản học) của di sản văn hoá thành văn, thì khoa Ngữ văn học cổ điển thâu tóm vào trong nó mọi lĩnh vực hoạt động liên quan đến tạo tác, lưu truyền, ảnh hưởng . . . của di sản văn hoá thành văn ấy. Từ góc nhìn bao quát này, có thể thấy, những đóng góp của Lê Quý Đôn cho nền văn hoá - văn hiến dân tộc là vô cùng đồ sộ. Với đối tượng là những di sản văn hiến phong phú, đa dạng nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau đã bị huỷ hoại, tán thất trong lịch sử, hoạt động ngữ văn học thời trung đại và đặc biệt là ở giai đoạn cuối Lê - đầu Nguyễn đã tập trung chủ yếu vào các vấn đề: (a) Sưu tầm rộng khắp các tư liệu di sản văn hoá thành văn ở tất cả các lĩnh vực; (b) "Văn bản hoá" các di sản được bảo tồn và lưu chuyển qua con đường "truyền miệng"; (c) Nghiên cứu, chỉnh lí, sắp xếp, phân loại các thư tịch có được; (d) Chú giải, sao chép (hoặc khắc in), giới thiệu, phổ biến các văn bản tiêu biểu. Trong bối cảnh chung ấy, ở mọi phương diện của hoạt động ngữ văn học trong quá khứ lịch sử, với những cống hiến về tư tưởng học thuật cũng như những công trình biên định di sản văn hoá thành văn cụ thể, Lê Quý Đôn đã tạo một dấu mốc lớn của học phong thời trung đại Việt Nam, làm nên một bước ngoặt trong ý thức của nhà Nho về khoa học. Hoạt động của Lê Quý Đôn góp phần thúc đẩy việc tạo ra một đặc điểm hết sức nổi bật trong hoạt động ngữ văn học giai đoạn cuối Lê - đầu Nguyễn, đó là sự ra đời của các cơ sở in ấn xuất bản, phát hành thư tịch Hán Nôm, cả của nhà nước với tính chất quan phương và cả của tư nhân. Theo đó là sự ra đời 4 Thành tựu hoạt động ngữ văn học của Lê Quý Đôn trong bối cảnh học thuật... của hàng loạt các công trình biên soạn mới ở nhiều lĩnh vực. Bên cạnh đó là sự ra đời lần đầu tiên các công trình thư mục học (mà Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú là hai nhà biên mục vĩ đại). Những công trình này, nối tiếp và bổ sung cho nhau, có thể nói là đã tổng kiểm kê về di sản văn hiến nước nhà. Thiên Nghệ văn chí trong Đại Việt thông sử và thiên Văn tịch chí trong Lịch triều hiến chương loại chí đã kiểm kê, phân loại, phân tích danh mục các văn bản thư tịch chủ yếu trong kho tàng di sản văn hoá thành văn của dân tộc. "Mặc dù còn có những điểm chưa thật sự hợp lí về mặt liệt kê, phân loại, hai công trình biên soạn mang tính chất mục lục và thư tịch học (thuộc ngữ văn học cổ điển) của Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú. . . vẫn là những di sản vô cùng quý báu đối với chúng ta. Ngày nay, muốn đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu kho tàng di sản văn hoá thành văn của dân tộc, chúng ta vẫn có thể tìm thấy trong Nghệ văn chí và Văn tịch chí những điều chỉ dẫn rất bổ ích" (Đặng Đức Siêu, xin xem thêm [7]). 2.2. Di sản mà Lê Quý Đôn để lại đã được nhiều nhà nghiên cứu tổng hợp, phân loại (xin xem thêm [1] và các tài liệu hữu quan). Chúng tôi xin kế thừa và điểm lại theo góc nhìn của bài viết. Kết hợp gần như song hành giữa trước thuật, sáng tác và biên định, kết quả hoạt động ngữ văn học của Lê Quý Đôn có thể hình dung qua những mảng thư tịch chính như sau: - Biên soạn mảng sách có tính chất “bách khoa” khảo cứu về cổ thư, trong đó 3 bộ nổi bật gồm: + Quần thư khảo biện ( ) (4 quyển), là bộ sách khảo biện, xét bàn các thư tịch; [sách đã được khắc in, có tựa của tác giả (năm 1757), của Chu Bội Liên (nhà Thanh) và của Hồng Khải Hi (sứ Triều Tiên, năm 1761)]; đương thời, trong mắt học giả nước ngoài, bộ sách này được đánh giá như là đại diện của trình độ học thuật Đại Việt. + Thánh mô hiền phạm lục ( ) (12 quyển), là sách ghi chép về mẫu mực của các bậc thánh đế hiền nhân, đáng làm khuôn mẫu để soi xét học tập; [sách này cũng có tựa của Chu Bội Liên và Hồng Khải Hi năm 1761, mà ông mang theo giới thiệu với phương Bắc cùng với nhiều sách khác trong chuyến đi sứ]. + Vân Đài loại ngữ ( ) (4 quyển), trích chép và luận bàn về các lời nói, điều mục. . . trong sách xưa, chia ra nhiều loại, nhiều mục, nhiều điều; bộ sách này có một vị trí đặc biệt trong trước thuật của Lê Quý Đôn nói riêng và trong lịch sử Nho học dân tộc nói riêng, được đánh giá là bộ “bách khoa toàn thư” đầu tiên và lớn nhất của Việt Nam thời trung đại. - Biên soạn mảng sách về lịch sử, địa lí, xã hội. Mảng sách này khá phong phú, cho thấy diện quan tâm và tầm nhìn rộng lớn của tác giả, có thể nêu những công trình chính: + Đại Việt thông sử [còn gọi là Lê triều thông sử ( )] (30 quyển), là bộ sử được viết theo thể kỉ truyện (riêng phần bản kỉ được chép theo lối biên niên) chép việc từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng; [hiện nay sách này chỉ còn lại một phần] nhưng vẫn cho thấy được phong cách và tư tưởng làm sử của tác giả. 5 Hà Minh + Quốc sử tục biên ( ) [tức (Đại Việt sử kí tục biên)], (8 quyển) [Lê Quý Đôn tham gia biên soạn], là bộ sử chép theo lối biên niên, từ Lê Trang Tông đến Lê Gia Tông; được đánh giá là chép việc kĩ lưỡng, bổ sung thêm nhiều chỗ còn thiếu trong sử cũ. + Bắc sứ thông lục ( ) (4 quyển), là sách ghi chép về những việc thấy và nghĩ khi đi sứ sang Trung Quốc, nội dung ghi chép đa dạng, từ công văn, thư từ ngoại giao đến núi sông, đường sá dọc hành trình, từ việc chuyện trò, thù tiếp, đối ứng đến sự kiện, phong vật . . . nghe biết được của đoàn sứ bộ. + Phủ biên tạp lục ( ) (6 quyển), ghi chép tổng hợp về chính trị, văn hóa, phong tục xã hội Đàng Trong, đặc biệt chép kĩ về xứ Thuận Hóa và xứ Quảng Nam; sách viết khi tác giả làm Hiệp trấn Tham tán quân cơ ở phủ Thuận Hóa; được coi là bộ sách đầu tiên đủ sức mở rộng nhãn giới cho trí thức Nho học đời Lê về mảnh đất phương Nam. + Kiến văn tiểu lục ( ) (12 quyển), có tựa của tác giả đề năm 1777, ghi chép những điều “mắt thấy tai nghe”; là bộ sách biên soạn theo lối kí sự, chép về chính trị, lịch sử, địa lí, kinh tế, kĩ thuật, văn hóa, phong tục, thi ca, nghệ thuật. . . của Đại Việt từ đời Trần đến đời Lê; việc bàn rộng nhưng khá chi tiết, cẩn trọng. Ở mảng sách này còn có thể kể đến các bộ như Âm chất văn chú ( ) (2 quyển), đã khắc in, chép các bài huấn chú, phần lớn là của các danh gia Trung châu, có kèm nhiều chú giải, đính chính của tác giả; Danh thần lục ( ), (2 quyển), chép công nghiệp sự tích của danh thần các triều; Địa lí tinh ngôn thư ( ). . . - Biên soạn mảng sách bàn giảng về kinh truyện có tính chất lịch sử, triết học - tư tưởng. . . Mảng sách này có đủ 5 bộ, luận thuật về “ngũ kinh” của Nho học, tuy nhiên, ngoài bộ đầu giảng về Kinh Thư thì các bộ sau hiện còn những nghi vấn về tính xác thực đang chờ kiểm chứng. Đó là: + Thư kinh diễn nghĩa ( ) (3 quyển), giảng nghĩa về bộ Kinh Thư, sách đã được khắc in và có tựa của tác giả đề năm 1772. + Dịch kinh phu thuyết ( ) (6 quyển), gồm những lời bàn “nông nổi” theo cách nói khiêm tốn của tác giả về Kinh Dịch, một bộ “kì thư” trong kinh điển Trung Hoa. + Xuân Thu lược luận ( ), sách bàn tóm lược về kinh Xuân Thu, bộ sử nước Lỗ của Khổng Tử. + Thi thuyết ( ), bàn về Kinh Thi. + Lễ thuyết ( ), bàn về Kinh Lễ . . . - Biên định mảng sách văn tuyển, thi tuyển và sáng tác văn chương. Mảng sách này khá phong phú và cũng là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp nói chung và văn nghiệp nói riêng của Lê Quý Đôn, với tư cách một nhà văn, một nhà thơ, một nhà lí luận văn học. Các bộ tiêu biểu gồm: 6 Thành tựu hoạt động ngữ văn học của Lê Quý Đôn trong bối cảnh học thuật... + Toàn Việt thi lục ( ), bộ sưu tuyển đồ sộ nhất Việt Nam thời trung đại, gồm nhiều quyển, ghi chép thơ ca suốt hơn năm trăm năm từ triều Lý đến triều Lê (xin xem [5], [6]). + Hoàng Việt văn hải ( ), như tên gọi của nó, sưu tập “biển văn” nước Việt, rất tiếc nay đã thất truyền. + Tiêu Tương bách vịnh ( ) [còn có tên - Liên châu thi tập, (4 quyển)], chép thơ của chính Lê Quý Đôn cùng các thi gia khác, và những bài trả lời của các thi sĩ nhà Thanh và Cao Li làm khi ông đi sứ, nay đã mất. Sáng tác văn chương của Lê Quý Đôn tập hợp ở hai bộ văn thơ chữ Hán:Quế Đường văn tập ( ) (3 quyển), sưu tập các sáng tác tản văn viết theo nhiều thể; Quế Đường thi tập ( ) (4 quyển), sưu tập hầu hết các sáng tác thơ ca trải nhiều thời kì. Ngoài ra ông còn làm văn thơ Nôm, hiện nay chỉ còn biết được khoảng 5 bài ở dạng truyền tụng, như: Rắn đầu biếng học, một số bài kinh nghĩa - văn sách "Mẹ ơi con muốn lấy chồng", “Lấy chồng cho đáng tấm chồng, Bõ công tô điểm má hồng răng đen”. . . và bài “khải” chép trong Bắc sứ thông lục. Thực ra thì mối bận tâm lớn nhất và những cống hiến quan trọng nhất của Lê Quý Đôn là ở tư cách một nhà tư tưởng - văn hoá, một nhà bác học chứ không phải với tư cách một nhà văn - nhà thơ, một người biên định thơ ca. Nhưng nếu khảo sát toàn bộ những trước tác mà ông để lại, chúng ta dễ nhận ra một điều, thơ ca văn học và những ghi chép liên quan của nhà bác học chiếm một khối lượng không nhỏ. Ngoài những bộ sưu tuyển riêng, ta thấy ông còn trực tiếp sao lục, chú dẫn về thi văn ở hầu hết các công trình biên khảo. Điều đó cho thấy, với Lê Quý Đôn, văn chương chính là hiện thân của gương mặt văn hiến dân tộc. Các bộ tổng tập hoặc tuyển tập thi tuyển, văn tuyển với quy mô lớn mà Lê Quý Đôn đó thực hiện như Toàn Việt thi lục ( ), Hoàng Việt văn hải ( ), đã tổng kết công trình biên định thơ văn đời trước và tạo một cú hích (về cơ sở tư liệu và phương pháp) cho sự ra đời của một loạt công trình sưu tầm, chỉnh lí, tuyển chọn thơ ở đời sau như Hoàng Việt thi tuyển ( ) và Hoàng Việt văn tuyển ( ) của Bùi Huy Bích, Minh đô thi vựng ( ) của Bùi Nhữ Tích, Việt thi tục biên ( ) của Nguyễn Thu, Quốc triều thi lục ( ) của Trần Văn Cận. . . “Cái bóng” quá lớn của Lê Quý Đôn ở phương diện này đó bao trùm lên đời sống văn chương nhiều đời sau. 2.3. Để có được những công trình có giá trị tư liệu và học thuật to lớn ảnh hưởng đến đời sau, Lê Quý Đôn được kế thừa và thực sự ông đã luôn thường trực ý thức trách nhiệm lớn lao trong việc nối tiếp thành quả của tiền nhân, đồng thời với ý thức kế thừa ấy là sự cách tân, đổi mới về phương pháp và quan điểm - tư tưởng học thuật. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua Kiến văn tiểu lục, Toàn Việt thi lục. . . (xin xem thêm [3]). Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh thêm ở đây là, do cơ duyên và cũng như là một sự tất nhiên, ông đã được trực tiếp tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của không khí học thuật Trung Hoa, 7 Hà Minh cụ thể là những thành tựu và phương pháp của văn hiến học đời Thanh. Nhưng điều quan trọng hơn nữa, Lê Quý Đôn đã từ những tri thức tiếp nhận được sau chuyến đi sứ (1760 -1762), kết hợp với tư tưởng riêng mà chủ động biến khát vọng về văn hoá dân tộc của ông trở thành hiện thực. Thành tựu văn hiến học Trung Hoa và đời Thanh mà Lê Quý Đôn tiếp nhận đã được ông trực tiếp thừa nhận trong các bài tựa, thể lệ biên soạn các bộ sách Vân đài loại ngữ, Kiến văn tiểu lục, Toàn Việt thi lục. . . , và cụ thể hơn, được thể hiện qua chính nội dung, cách thức. . . các công trình biên khảo lớn. Những nội dung chủ yếu đồng thời cũng là cống hiến của văn hiến học Trung Hoa/ và đời Thanh mà Lê Quý Đôn chịu ảnh hưởng là những tri thức, phương pháp về khảo chứng, hiệu khám, tập dật, biện nguỵ, biên mục, biên thư, phân loại, chú giải. . . ở một trình độ tiên tiến nhất của học thuật lúc bấy giờ. Những tri thức, phương pháp ấy lại được ý thức tự tôn và niềm tự hào dân tộc “tiếp sức”, giúp Lê Quý Đôn thực sự trở thành nhân vật số một trong việc đảm trách sứ mệnh chuyên chở những giá trị văn hoá truyền thống cho tương lai. Cần phải khẳng định, Lê Quý Đôn đã có một tinh thần dân tộc hết sức sâu sắc, điều đó thể hiện qua ý thức bảo lưu di sản văn hoá thành văn của ông. Chính tinh thần dân tộc và cụ thể là ý thức về vai trò to lớn của văn hiến đã thôi thúc ông trong suốt cả cuộc đời, khiến tư cách nhà hoạt động ngữ văn học Lê Quý Đôn nổi bật và bao trùm lên tư cách nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà giáo dục... của ông. Và cũng chính thành tựu hoạt động ngữ văn học đã trở thành một điều kiện tiên quyết để hậu thế ghi nhận ông như một nhà bác học uyên bác ở hầu hết các lĩnh vực, trong học thuật cũng như đời sống xã hội đương thời. Bất kể ở một hoàn cảnh nào, khi có cơ hội, ông đều tận dụng để giới thiệu và qua đó biểu lộ niềm tự hào về văn hoá dân tộc. Sử sách đã ghi lại những hoạt động giới thiệu, giao lưu văn hoá của Lê Quý Đôn với nước ngoài và đánh giá những hoạt động ấy như là thành tựu nổi bật trong sự nghiệp bang giao với tư cách là sứ thần của một quốc gia văn hiến tự chủ. Những việc làm cụ thể như: giới thiệu sách vở, thư tịch với danh sĩ phương Bắc; đàm đạo học thuật, thù tạc, ngâm vịnh. . . với quan lại các cấp Trung Hoa và sứ thần Triều Tiên; trao đổi về văn hoá, tiếp thu học thuật Trung Quốc. . . của Lê Quý Đôn trên thực tế là những việc làm thể hiện ý thức tự chủ chủ dân tộc. Tự chủ chủ dân tộc trước hết là tự chủ về văn hoá. Trong lời tựa nhiều tập sách của Lê Quý Đôn, ông thể hiện một tư tưởng rõ rệt về so sánh lịch sử - văn hoá dân tộc với các nước trong khu vực. Ông phát biểu: “nước ta từ khi gây dựng, văn minh không kém gì Trung Quốc” (ngã bang triệu khải văn minh vô tốn Bắc quốc ( ) (Toàn Việt thi lục, Lệ ngôn). Trong lời Tựa Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn nhận định: "Nước Nam nổi tiếng là một nước văn hiến, từ hai triều nhà Lý, nhà Trần đến bản triều, các bậc tiền bối trứ tác cũng nhiều, nhưng lâu ngày bị mai một, sách vở còn truyền lại không được bao nhiêu, những sĩ phu say mê việc đời cổ không dựa vào đâu để khảo cứu được...". Ở Lệ ngôn sách Toàn Việt thi lục, ông lại dẫn lời tựa Trích diễm thi tập của Hoàng Đức Lương và lời tựa Tinh tuyển thi tập của Dương Đức Nhan rồi than xót về sự hư hao, mất mát của sách vở thư tịch các đời, khiến cho người Việt cứ phải dẫn sách vở nước ngoài. Có đặt trong tình hình, như Hoàng Đức Lương trong Trích diễm thi tập đã nói: “những gì thu thập được cũng chỉ là một hai 8 Thành tựu hoạt động ngữ văn học của Lê Quý Đôn trong bối cảnh học thuật... trong trăm ngàn phần. . . Há có một nước văn hiến, dựng nước đã mấy nghìn năm, thế mà không có lấy một chút sách vở gì làm bằng. . . chẳng cũng đáng đau xót lắm thay!” (dẫn trích và chỉnh lí theo [1]) thì mới thấy hết giá trị mà các tác phẩm của Lê Quý Đôn đã làm được. Tổng kết, khảo thuật tinh hoa cổ xưa, Lê Quý Đôn là người tiêu biểu cho lớp học giả có quyết tâm thực tế để chống lại âm mưu đồng hoá văn hoá trải nhiều thời đại của kẻ thù phương Bắc. Nhiều lần ông trực tiếp hoặc gián tiếp nhắc đến tư tưởng muốn huỷ diệt di sản văn từ sách vở người Việt của phương Bắc nhằm thi hành chính sách nô dịch về văn hoá (mà tiêu biểu nhất là chỉ dụ của Minh Thành tổ về việc ra lệnh cho quan lại cai trị nhà Minh phải tận lực huỷ diệt đốt bỏ các văn từ thư tịch nước Nam. . . để thực hiện dã tâm thâm độc bậc nhất là cắt đứt mối liên lạc của người Việt với lịch sử quá khứ của mình). Có thể thấy rõ, chính ý thức muốn sưu tầm, bảo lưu tinh hoa văn hoá thành văn của dân tộc là tư tưởng chỉ đạo quan điểm và phương pháp sưu tập, biên định di sản văn hoá thành văn quá khứ của Lê Quý Đôn. Với điều này, nhà bác học trở thành một hình mẫu mới của một kiểu loại trí thức dân tộc mới trong lịch sử, mà trước đó chưa thể có, hặc giả còn rất mờ nhạt: Kiểu loại nhà trí thức khoa học, với tri thức khoa học cao, phương pháp khoa học tiên tiến, phạm vi học thuật từ chuyên sâu đến mở rộng, khát vọng học thuật trở thành lí tưởng cháy bỏng. Học phong thời đại mà kiểu loại nhà trí thức Lê Quý Đôn góp công đặt một dấu mốc, rõ ràng, đã vượt thoát khỏi mẫu hình kiểu nhà Nho thi thư truyền thống. Một sự dấn thân mới sẽ làm mới lại và làm lu mờ cái lí tưởng trung quân hiểu theo lẽ thông thường, bé mọn, cố hữu. Với Lê Quý Đôn, mới biết, người trí thức tức là đường xa gánh nặng, nhìn vào trí thức sẽ thấy rõ thời thế hưng vong thế nào. 3. Kết luận Di sản ngữ văn mà nhà bác học Lê Quý Đôn để lại cho chúng ta là một gia tài vô giá. Với một khối lượng trước tác đồ sộ, gồm trên 30 bộ sách lớn còn để lại cho đến ngày nay, được thực hiện với một tinh thần và tư tưởng - phương p