Abstract: Studying coastal landscapes is an important and meaningful content in determining the
natural and human properties of the territory and territorial sea, which is a valuable scientific basis
for spatial planning in the economic development associated with the use of resources and
environmental protection. The Quang Ngai’s coastal area is determined according to the continental
boundary of 6 maritime districts/ cities and the boundary on the sea of the provincial coastal fishing
zone. Coastal landscapes include terrestrial landscapes, marine landscapes, and island landscapes
formed by the result of the interaction of natural components and human factors. The landscape
structure of the coastal areas in Quang Ngai includes 1 system, 2 sub-systems, 3 classes, 6 subclasses, 10 types, and 108 kinds of landscapes, In which, there are 75 kinds of terrestrial landscape,
27 kinds of marine landscape, and 6 kinds of the island landscape. The landscapes of the study area
have differentiation from west to east (from the low mountain landscapes, hill - plain landscapes to
marine landscapes and island landscapes) and from north to south, which is clearly represented in
the differentiation of plain landscape kinds. The landscapes are highly variable, sensitive to external
impacts, including development activities.
15 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 545 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu The classification system and characteristics of coastal landscapes in Quang Ngai province, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66
52
Original Article
The Classification System and Characteristics
of Coastal Landscapes in Quang Ngai Province
Dang Thi Ngoc1,, Nguyen Cao Huan1, Nguyen Dang Hoi2, Tran Van Truong1,
Ngo Trung Dung2
1VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam
2Institute of Tropical Ecology, Vietnam-Russian Tropical Centre, 63 Nguyen Van Huyen, Hanoi, Vietnam
Received 20 March 2020
Revised 06 September 2020; Accepted 17 September 2020
Abstract: Studying coastal landscapes is an important and meaningful content in determining the
natural and human properties of the territory and territorial sea, which is a valuable scientific basis
for spatial planning in the economic development associated with the use of resources and
environmental protection. The Quang Ngai’s coastal area is determined according to the continental
boundary of 6 maritime districts/ cities and the boundary on the sea of the provincial coastal fishing
zone. Coastal landscapes include terrestrial landscapes, marine landscapes, and island landscapes
formed by the result of the interaction of natural components and human factors. The landscape
structure of the coastal areas in Quang Ngai includes 1 system, 2 sub-systems, 3 classes, 6 sub-
classes, 10 types, and 108 kinds of landscapes, In which, there are 75 kinds of terrestrial landscape,
27 kinds of marine landscape, and 6 kinds of the island landscape. The landscapes of the study area
have differentiation from west to east (from the low mountain landscapes, hill - plain landscapes to
marine landscapes and island landscapes) and from north to south, which is clearly represented in
the differentiation of plain landscape kinds. The landscapes are highly variable, sensitive to external
impacts, including development activities.
Keywords: Coastal landscape, landscape differentiation, Quang Ngai.
________
Corresponding author.
E-mail address: dangngoc2406@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4589
D.T. Ngoc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 53
Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ
tỉnh Quảng Ngãi
Đặng Thị Ngọc1, , Nguyễn Cao Huần1, Nguyễn Đăng Hội2, Trần Văn Trường1,
Ngô Trung Dũng2
1Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
2Viện Viện Sinh thái nhiệt đới, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga, 63 Nguyễn Văn Huyên, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 20 tháng 3 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 06 tháng 9 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 17 tháng 9 năm 2020
Tóm tắt: Nghiên cứu cảnh quan vùng bờ có ý nghĩa quan trọng trong xác định các thuộc tính tự
nhiên, nhân sinh của lãnh thổ, lãnh hải, là cơ sở khoa học có giá trị cho hoạch định không gian phát
triển kinh tế gắn với sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi
được xác định theo ranh giới trên lục địa của 6 huyện, thành phố giáp biển, ranh giới trên biển lấy
theo đường ranh giới vùng khai thác thủy sản ven bờ của tỉnh. Đây là khu vực kinh tế động lực, có
ý nghĩa quan trọng của tỉnh Quảng Ngãi. Cảnh quan vùng bờ bao gồm các cảnh quan trên đất liền
và cảnh quan biển, đảo ven bờ được hình thành do kết quả tác động tương hỗ của các hợp phần và
yếu tố tự nhiên và nhân sinh. Cấu trúc cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi đã được xác định bao
gồm 1 hệ, 2 phụ hệ, 3 lớp, 6 phụ lớp,10 kiểu và 108 loại cảnh quan. Trong đó, có 75 loại cảnh quan
lục địa, 27 loại cảnh quan biển và 6 loại cảnh quan đảo. Cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi có sự
phân hóa từ tây sang đông (từ các cảnh quan núi thấp, đồng bằng - gò đồi trên lục địa đến cảnh quan
biển nông, cảnh quan đảo ven bờ) và phân hóa theo phương bắc - nam thể hiện rõ ở sự phân dị các
loại CQ đồng bằng. Các cảnh quan này có tính biến động, nhạy cảm cao đối với các tác động bên
ngoài, trong đó có các hoạt động phát triển.
Từ khóa: cảnh quan vùng bờ, phân hóa cảnh quan, Quảng Ngãi.
1. Mở đầu
Vùng bờ được hiểu là khu vực chuyển tiếp
giữa đất liền hoặc đảo với biển, bao gồm vùng
biển ven bờ và vùng đất ven biển (Luật tài nguyên,
môi trường biển và hải đảo, 2015). Vùng bờ chịu
tác động trực tiếp bởi các quá trình tự nhiên từ đất
liền (môi trường lục địa), từ biển (môi trường
biển) và các hoạt động nhân sinh. Việc sử dụng
hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường vùng bờ hiện
là một trong những vấn đề cấp bách, được nhiều
nước, nhiều nhà khoa học quan tâm, trong đó có
các nhà Địa lý nghiên cứu cảnh quan. Điều này đã
________
Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: dangngoc2406@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4589
được khẳng định trong Hội nghị địa lý quốc tế
năm 2018 “Địa lý cảnh quan trong thế kỷ 21” tổ
chức tại Simferopol, Nga [1].
Nghiên cứu cảnh quan (CQ) dưới nước nói
chung, CQ biển nói riêng là một khuynh hướng
mới của địa lý hiện đại [2,3], nó giải quyết được
các vấn đề liên quan đến quản lý và sử dụng hợp
lý tài nguyên, bảo vệ môi trường vùng bờ [4].
Nghiên cứu một cách hệ thống CQ biển và hải
đảo, nhất là CQ vùng bờ về đặc điểm đặc trưng
của các đơn vị CQ, quy luật phân hóa của chúng
theo không gian và động lực theo thời gian có
D.T. Ngoc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 54
tính đến tác động của quá trình tự nhiên và nhân
sinh tạo cơ sở khoa học vững chắc cho việc sử
dụng hợp lý tài nguyên, quản lý tổng hợp vùng
bờ hiệu quả và khẳng định chủ quyền biển đảo
của quốc gia. Tuy nhiên, nghiên cứu CQ vùng
bờ, nhất là CQ biển vẫn còn nhiều hạn chế, liên
quan đến những khó khăn trong công tác điều tra,
khảo sát các yếu tố tự nhiên (địa mạo đáy biển,
động lực biển, sinh vật biển,...) và vấn đề an ninh
chủ quyền trên biển.
Trong nghiên cứu địa lý, phân loại CQ trên
đất liền đã có nhiều kết quả, trong khi đó có khá
ít công trình nghiên cứu về CQ biển. Ở Liên Xô
(cũ), CQ biển được bắt đầu nghiên cứu ở các
vùng biển nội như biển Caspi, biển Đen theo
quan điểm cấu trúc CQ, biển Azop dựa theo các
đặc điểm khí hậu và thủy văn [5]. Ngày nay, các
nhà địa lý Nga quan tâm nghiên cứu CQ biển đảo
ven bờ thuộc vùng Viễn Đông, vùng Primorie và
vùng biển phía Bắc [1]. Khi nghiên cứu CQ biển,
Preobrazensky (2000) [2] đã chỉ ra sự khác nhau
về vai trò các yếu tố thành tạo CQ trên lục địa,
trên đảo và CQ biển (CQ biển được gọi là
BENTEMA). Dựa vào đặc điểm và vai trò khác
nhau này của các yếu thành tạo CQ biển, Roff &
Taylor (2000) [6] đã phân loại CQ vùng biển
Canada theo 2 kiểu: CQ đáy biển và CQ khối
nước. Cách phân loại này được Golding và nnk
(2004) [7] áp dụng và phát triển cho nghiên cứu
CQ vùng biển Ailen trong Dự án “The Irish Sea
Pilot”. Ở đây, CQ được phân theo ba kiểu dựa vào
mối tương tác của CQ đáy biển và CQ khối nước
không giống nhau phụ thuộc vào độ sâu của đáy
biển. Ở vùng biển ven bờ, hai kiểu CQ này luôn
tương tác với nhau một cách chặt chẽ nên không
phân chia và được gọi là CQ biển ven bờ
(Coastal landscape). Đối với vùng biển mở, được
phân thành CQ đáy biển (tương ứng với bộ phận
nền tảng rắn gồm địa hình đáy và trầm tích bề
mặt) và CQ khối nước (tương ứng với bộ phận
sinh cảnh nước và thực vật thủy sinh). Cách phân
loại này đã được áp dụng mở rộng cho toàn bộ
lãnh hải của nước Anh trong dự án UKSeaMap
và cho cả vùng biển phía tây bắc Châu Âu trong
dự án MESH (Connor và nnk, 2006) [8].
Ở Việt Nam, phân loại CQ vùng bờ bước đầu
được xem xét trong một số rất ít công trình lý
luận (Nguyễn Ngọc Khánh và nnk, 1996 [9];
Nguyễn Thành Long và nnk, 2012 [5],...) chủ
yếu đề cập đến CQ ở phạm vi vùng đất ven biển,
hiện chưa có một hệ thống phân loại CQ có cơ
sở khoa học thống nhất từ lục địa ra biển và hải
đảo cho một vùng bờ cụ thể ở tỉ lệ lớn.
Tỉnh Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm miền Trung, có một huyện đảo và
vùng lãnh hải rộng lớn. Biển và vùng bờ được xác
định là khu vực kinh tế động lực, có ý nghĩa quan
trọng của tỉnh với những lợi thế đặc biệt về vị thế
địa kinh tế - chính trị và quốc phòng, an ninh. Tỉnh
có Lý Sơn là đảo tiền tiêu của duyên hải Nam
Trung Bộ, giàu tài nguyên thiên nhiên với các hệ
sinh thái đặc thù, khu bảo tồn biển Lý Sơn, tài
nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn biển đảo; có
tiềm lực cơ sở hạ tầng với Khu kinh tế Dung Quất,
các khu công nghiệp, cụm công nghiệp ven biển,
cảng biển, cảng cá,... Vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi là
nơi chuyển tiếp giữa lục địa và biển, bao gồm
vùng đất ven biển, không gian biển và đảo ven bờ.
Trong nghiên cứu này, phần đất liền được giới hạn
trong 6 huyện thị ven biển (Bình Sơn, Sơn Tịnh,
Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ và thành phố Quảng
Ngãi); không gian biển được tính từ đường bờ đến
ranh giới vùng khai thác thủy sản ven bờ tỉnh
Quảng Ngãi (căn cứ theo Quyết định số 928/QĐ-
UBND ngày 30/6/2014 của UBND tỉnh Quảng
Ngãi) và phần đảo ven bờ thuộc huyện đảo Lý
Sơn. Sự tương tác lẫn nhau cả về mặt tự nhiên,
kinh tế - xã hội, môi trường, an ninh quốc phòng
trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nước biển dâng
đã tạo nên những đặc điểm, sự phân hóa phức tạp
trong cấu trúc, động lực và biến đổi CQ vùng bờ
tỉnh Quảng Ngãi, có ý nghĩa trong quyết định các
loại hình khai thác, sử dụng tài nguyên.
Trên cơ sở xây dựng hệ thống phân loại CQ
theo các tiêu chí lựa chọn và thành lập bản đồ
CQ tỷ lệ 1/50.000, bài báo trình bày đặc điểm
cấu trúc CQ, sự phân hóa và tính nhạy cảm của
các đơn vị CQ ở các bậc phân loại khác nhau cho
vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi. Đặc điểm và sự phân
hóa CQ quy định chức năng của chúng, là cơ sở
để khai thác, sử dụng các đơn vị CQ cho các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội gắn với sử dụng hợp
lý tài nguyên và bảo vệ môi trường vùng bờ tỉnh
Quảng Ngãi.
D.T. Ngoc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 55
2. Cơ sở dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở dữ liệu
Bài báo sử dụng một số kết quả nghiên cứu
của đề tài khoa học cấp Nhà nước mã số KC
09.12/11-15 (Nguyễn Cao Huần chủ trì, 2015);
các bản đồ địa chất, địa hình, thổ nhưỡng, hiện
trạng sử dụng đất,.... cùng với dữ liệu, số liệu của
nhóm tác giả tạo lập trong quá trình khảo sát thực
địa, tham gia một số đề tài khoa học có liên quan
trực tiếp đến lãnh thổ nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
a) Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa:
03 đợt khảo sát thực địa (tháng 4/2014, tháng
8/2016, tháng 12/2017) được thực hiện theo điểm
và tuyến trên các kiểu địa hình, các thủy vực
khác nhau trên lục địa và trên đảo Lý Sơn để ghi
nhận, mô tả đặc điểm các hợp phần, yếu tố tự
nhiên, hoạt động nhân sinh; xác định sự phân hóa
không gian của chúng cũng như các đơn vị CQ
trên thực địa.
b) Phương pháp phân tích liên hợp thành
phần: được sử dụng để xác định mối quan hệ
giữa các hợp phần và ranh giới phân chia các đơn
vị CQ, phân tích phát sinh, phát triển, đặc điểm
và sự phân hóa của CQ.
c) Phương pháp bản đồ - GIS: được áp dụng
để biên tập, thành lập các bản đồ hợp phần CQ
và bản đồ CQ. Các bản đồ hợp phần biên tập bao
gồm bản đồ địa chất, bản đồ thổ nhưỡng, bản đồ
trầm tích tầng mặt; các bản đồ thành lập: bản đồ
địa mạo, bản đồ phân bố hệ sinh thái. Dựa trên
cơ sở dữ liệu đầu vào, kết hợp với hệ thống phân
loại CQ, thực hiện chồng xếp các lớp bản đồ
thành phần để thành lập bản đồ CQ tỉ lệ 1/50.000.
Bản đồ CQ là kết quả của việc chồng xếp và tích
hợp các lớp bản đồ thành phần theo trình tự: 1)
Địa chất, Địa hình; 2) Địa mạo; 3) Thổ nhưỡng,
Trầm tích tầng mặt; 4) Hệ sinh thái - Thảm thực
vật. Theo đó, mỗi đơn vị CQ bất kỳ đều bao gồm
các thuộc tính của các bản đồ hợp phần (cũng là
thuộc tính CQ). Phần mềm được sử dụng để biên
tập, thành lập các bản đồ là Mapinfo Pro 15 và
ArcGIS 10.5.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Tiếp cận cảnh quan trong nghiên cứu vùng
bờ tỉnh Quảng Ngãi
Hệ thống CQ vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi bao
gồm các CQ trên lục địa thuộc phạm vi các
huyện thị giáp biển và CQ biển đảo ven bờ đến
ranh giới vùng khai thác thủy sản của tỉnh, trong
đó có huyện đảo Lý Sơn. Chuyển tiếp giữa các
CQ trên lục địa và CQ biển đảo là các CQ đầm
phá, cửa sông ven biển. Các CQ này có sự phân
hóa theo các yếu tố thành tạo, động lực nhưng có
tác động qua lại với các quá trình trên lục địa và
biển, đảo ven bờ và cả hoạt động của con người.
Đối với CQ biển, các hợp phần tự nhiên đóng vai
trò quan trọng hơn cả bao gồm địa hình với trầm
tích bề mặt nền đáy (tương ứng với CQ đáy biển
của Roff [6]) và khối nước với các hệ sinh thái
thủy sinh đang tồn tại (tương ứng với CQ khối
nước của Roff [6]). Hai nhóm tiêu chí tương ứng
với “CQ đáy biển” và “CQ khối nước” được một
số nhà khoa học phân biệt rõ hơn ở các CQ vùng
biển mở [2,10] nhưng đối với các CQ đầm phá,
cửa sông, CQ biển nông, các hợp phần CQ này
luôn có tác động trực tiếp với nhau nên không
thể tách biệt được.
Dựa vào kết quả phân tích hệ thống phân loại
CQ trên lục địa của Nikolaev (1978) [11], Phạm
Hoàng Hải và nnk (1997) [12], phân loại CQ
biển của Preobrazensky và nnk (2000) [2],
Petrov (1989) [10], Nguyễn Ngọc Khánh và nnk
(1996) [9], Nguyễn Thành Long & Nguyễn Văn
Vinh (2012) [5] và căn cứ đặc điểm thực tế của
vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi, hệ thống phân loại CQ
được lựa chọn gồm: Hệ - Phụ hệ - Lớp - Phụ lớp
- Kiểu - Loại CQ. Mỗi bậc phân vị được xác định
theo các tiêu chí riêng đảm bảo nguyên tắc: các
tiêu chí cho cấp phân vị lớn bao giờ cũng phủ cả
cho cấp nhỏ, và cấp phân vị nhỏ có số lượng CQ
lớn hơn hoặc bằng so với cấp lớn liền kề trên.
Các tiêu chí xếp vào các nhóm: i). Nhóm tiêu chí
nhiệt - ẩm, chủ yếu dựa vào bức xạ và nhiệt độ
áp dụng cho cấp hệ, phụ hệ; ii). Nhóm tiêu chí
đại địa hình theo hình thái (tương ứng với hai
quá trình chủ đạo là bóc mòn và tích tụ) - lớp và
lớp phụ CQ; iii). Nhóm tiêu chí thực vật/ hệ sinh
thái và điều kiện sinh cảnh - kiểu CQ. Cụ thể,
D.T. Ngoc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 56
thảm thực vật và điều kiện sinh khí hậu cho kiểu
CQ trên lục địa và trên đảo ven bờ; hệ sinh thái
thủy sinh và điều kiện sinh cảnh dưới nước cho
kiểu CQ biển ven bờ; iv). Nhóm tiêu chí địa hình
(theo nguồn gốc - hình thái) - thổ nhưỡng/ trầm
tích và thảm thực vật/ hệ sinh thái cho cấp loại
CQ. Cụ thể, kiểu địa hình - loại thổ nhưỡng -
thảm thực vật hiện trạng cho phân loại CQ trên
lục địa và trên đảo; kiểu địa hình - trầm tích tầng
mặt - hệ sinh thái thủy sinh cho phân loại CQ
biển ven bờ. Các chỉ tiêu cụ thể và chi tiết cho
từng cấp đơn vị được trình bày trong Bảng 1.
Bảng 1. Cấp phân vị và chỉ tiêu phân loại cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi
STT
Cấp
phân
vị
Chỉ tiêu phân loại CQ khu vực nghiên
cứu
CQ lục địa CQ biển CQ đảo
1. Hệ CQ
Nền nhiệt độ không khí, nền bức xạ chủ đạo trên bề mặt và hoàn
lưu khí quyển
- Hệ CQ nhiệt đới gió
mùa nội chí tuyến
2.
Phụ hệ
CQ
Tương tác giữa địa
hình và hoàn lưu
gió mùa, phân bố
lại chế độ nhiệt -
ẩm
Tương tác giữa hoàn lưu gió mùa và chế độ
hoàn lưu nước mặt quyết định sự phân bố của
chế độ nhiệt - muối và đặc điểm sinh vật
02 phụ hệ CQ:
- Phụ hệ CQ nhiệt đới
gió mùa không có mùa
đông lạnh (trên đất
liền)
- Phụ hệ CQ biển đảo
nhiệt đới nóng ẩm
3.
Lớp
CQ
Đặc trưng đại địa
hình (theo hình
thái), tương ứng
với hai quá trình
lớn trong chu trình
vật chất là bóc
mòn và tích tụ
Đặc trưng bởi vật chất thành tạo, mức độ
tương tác giữa các quyển vật chất thành tạo,
gồm CQ biển (các khối nước) chiếm ưu thế
và CQ đảo (các khối đất, đá trên mặt nước
biển) chiếm diện tích nhỏ.
03 lớp CQ:
- Lớp CQ núi
- Lớp CQ đồng bằng -
gò đồi
- Lớp CQ biển đảo ven
bờ
4.
Phụ
lớp CQ
Sự phân hóa của
các điều kiện tự
nhiên theo độ cao
địa hình (địa hình
và nền nhiệt ẩm)
Sự phân hóa của các
điều kiện tự nhiên theo
độ sâu lớp nước
Địa hình đảo và
mức độ xa bờ phản
ánh sự ảnh hưởng
của tương tác giữ
lục địa và biển
06 phụ lớp CQ:
- PLCQ núi thấp
- PLCQ đồi
- PLCQ đồng bằng ven
biển
- PLCQ biển nông ven
bờ hiện đại (0-30m)
- PLCQ biển nông ven
bờ cổ (>30m)
- PLCQ đảo ven bờ
5.
Kiểu
CQ
Kiểu thảm thực
vật và điều kiện
sinh khí hậu
Hệ sinh thái thủy sinh
và điều kiện sinh cảnh
nước
Kiểu thảm thực vật
và điều kiện sinh
cảnh đảo
10 kiểu CQ
6.
Loại
CQ
Kiểu địa hình -
loại thổ nhưỡng -
thảm thực vật hiện
trạng.
Kiểu địa hình - trầm
tích đáy và hệ sinh thái
thủy sinh theo đới động
lực biển
Kiểu địa hình -
loại đất và thảm
thực vật hiện trạng
108 loại CQ
D.T. Ngoc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 57
3.2. Các hợp phần và yếu tố thành tạo cảnh quan
vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi
a) Các hợp phần và yếu tố tự nhiên
Quảng Ngãi nằm trong vùng có nền địa chất
đa dạng, lịch sử vận động và hoạt động kiến tạo
khá phức tạp. Phần lục địa ven biển được hình
thành và phát triển trên các nền đá đa nguồn gốc
có tuổi từ Proterozoi đến Neogen, chịu sự tác
động của các hệ thống sông lớn và hoạt động của
sóng biển qua nhiều thời kỳ khác nhau. Vùng biển
đảo Lý Sơn được tạo thành bởi hoạt động phun
trào núi lửa và các trầm tích nguồn gốc biển, gió,
núi lửa từ Pleistocen đến Holocen [13].
Địa hình vùng bờ khá phức tạp, bao gồm đồi,
núi xen đồng bằng, đới biển nông và đảo; thấp
dần từ tây sang đông ở phần lục địa, chuyển tiếp
đến vùng biển nông và đảo ven bờ. Địa hình đồi
núi có diện tích không lớn, thường là những khối
núi sót hay dải đồi cao được hình thành trên các
đá biến chất và đá trầm tích, phân bố rải rác trên
dải đồng bằng và lộ ra trên bờ biển. Địa hình
đồng bằng chiếm ưu thế trên phần đất liền, có độ
cao 2-30 m, nghiêng thoải về phía đông, chạy từ
bắc xuống nam không liên tục mà bị phân cách
bởi các sông và đồi, núi nhô ra sát biển, vừa thể
hiện tính chất của đồng bằng phù sa và đồng
bằng gò đồi. Dải cát ven biển trải dọc theo 130
km đường bờ biển, đặc trưng như cồn cát, mũi
đất, cửa sông, đầm nước mặn,... với độ rộng
trung bình 2-3 km. Đường bờ biển bị chia cắt bởi
các cửa sông (cửa Sa Cần, cửa Sa Kỳ, cửa Đại,
cửa Lở), hiện hữu hệ thống vũng vịnh và mũi đá
lớn như vũng Dung Quất, vũng Việt Thanh, mũi
Ba Làng An, mũi Sa Huỳnh,.... Vùng biển nông
ven bờ của Quảng Ngãi có độ dốc lớn, có nơi
cách bờ chưa tới 3 hải lý đã có độ sâu 50 m. Nền
đáy biển từ 50 m nước trở vào chủ yếu là cát bùn,
ngoài 50 m trở ra chủ yếu là cát pha vỏ sò [13].
Địa hình đáy biển gần bờ có các rạn nhỏ, vùng
khơi có những rãnh sâu, gò rạn. Vùng đảo Lý
Sơn gồm 2 hòn đảo (đảo Lớn và đảo Bé) là
những cao nguyên nằm trên các khối núi lửa có
độ cao trung bình từ 20-30 m so với mực nước
biển [14].
Khí hậu vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi vừa có đặc
tính chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa, vừa
chịu ảnh hưởng của khí hậu hải dương và địa
hình vùng núi ven biển. Lượng bức xạ dồi dào,
phổ biến từ 130-150 kcal/cm²/năm. Nền nhiệt độ
trung bình năm khá cao, khoảng 26oC, tổng nhiệt
độ hàng năm khoảng 9.000-9.500oC. Tổng số
nắng trung bình năm đạt 2.150-2.500 giờ/năm
[15]. Lượng mưa hàng năm ở vùng ven biển
Quảng Ngãi tương đối thấp so với vùng đồi núi
phía tây, khoảng 1.850-2.050 mm/năm. Mùa
mưa kéo dài từ tháng IX đến tháng XII. Những
trận mưa rất lớn, tập trung có thể gây lũ bất
thường và tình trạng ngập úng nghiêm trọng ở
vùng đồng bằng thấp ven biển.
Vùng bờ Quảng Ngãi bao chiếm phần hạ lưu
của các hệ thống sông chính: Trà Bồng, Trà
Khúc, Vệ và Trà Câu. Các sông đều xuất phát từ
sườn núi phía đông dãy Trường Sơn và chảy ra
Biển Đông. Ngoài ra, còn có một số sông nhỏ
cũng chảy trực tiếp ra biển, như