1.1. Lí do chọn đề tài
Sự phát xạ sóng hài bậc cao (High-order Harmonic Generation – kí hiệu
HHG) do tương tác của nguyên tử với lade có cường độ mạnh được phát hiện đầu
tiên vào năm 1988 bởi nhóm nghiên cứu của nhà khoa học M. Ferray (Pháp). Từ
đó, HHG đã mở đường cho những ứng dụng to lớn, trong đó có việc chụp ảnh
phân tử [1], [2], và quan sát các quá trình ở cấp thời gian femto giây [3], [4]. Nối
tiếp sau những công trình “chụp ảnh” phân tử, HHG đã được sử dụng để theo dõi
quá trình đồng phân hóa HCN/HNC và acetylen/vinyliden. Những công trình này
đã mở đầu cho việc nghiên cứu các quá trình đồng phân hóa và những phản ứng
hóa học của các phân tử có cấu trúc phức tạp hơn bằng cơ chế phát xạ HHG –
quá trình hỗ biến hóa học (tautomerism) đối với các bazơ nitơ của ADN (Axit
Deoxyribonucleic).
ADN là phân tử mang thông tin di truyền của tất cả các dạng sinh vật sống.
Khi phân tử ADN bị biến đổi thì thông tin di truyền cũng sẽ bị xáo trộn, gây ra
đột biến. Một trong những nguyên nhân dẫn đến đột biến trong quá trình sao
chép ADN chính là quá trình tautomerism. Trong phân tử ADN, có bốn loại bazơ
nitơ, mỗi loại thường tồn tại dưới hai dạng đồng phân hỗ biến (tautomer): một
dạng phổ biến và một dạng hiếm gặp. Quá trình tautomerism xảy ra khi có sự
biến đổi giữa hai tautomer từ dạng phổ biến sang hiếm gặp. Các dạng hiếm gặp
dù có thời gian tồn tại rất ngắn nhưng nếu trong thời gian tồn tại đó, chúng được
huy động vào quá trình tổng hợp ADN thì đột biến sẽ xảy ra và dẫn đến hậu quả
là thông tin di truyền bị thay đổi. Do đó, nhu cầu tìm kiếm phương pháp để có
thể thu nhận thông tin và tác động vào quá trình tautomerism có ý nghĩa quan
trọng và mang tính thực tiễn cao.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 350 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Theo dõi quá trình động học phân tử các bazơ nitơ của ADN bằng lade xung cực ngắn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
112
THEO DÕI QUÁ TRÌNH ĐỘNG HỌC PHÂN TỬ
CÁC BAZƠ NITƠ CỦA ADN BẰNG LADE XUNG CỰC NGẮN
Hoàng Văn Hưng,
Lê Hải Mỹ Ngân, Lê Thị Cẩm Tú
(Sinh viên năm 4, Khoa Vật lí)
GVHD: PGS.TSKH. Lê Văn Hoàng
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Sự phát xạ sóng hài bậc cao (High-order Harmonic Generation – kí hiệu
HHG) do tương tác của nguyên tử với lade có cường độ mạnh được phát hiện đầu
tiên vào năm 1988 bởi nhóm nghiên cứu của nhà khoa học M. Ferray (Pháp). Từ
đó, HHG đã mở đường cho những ứng dụng to lớn, trong đó có việc chụp ảnh
phân tử [1], [2], và quan sát các quá trình ở cấp thời gian femto giây [3], [4]. Nối
tiếp sau những công trình “chụp ảnh” phân tử, HHG đã được sử dụng để theo dõi
quá trình đồng phân hóa HCN/HNC và acetylen/vinyliden. Những công trình này
đã mở đầu cho việc nghiên cứu các quá trình đồng phân hóa và những phản ứng
hóa học của các phân tử có cấu trúc phức tạp hơn bằng cơ chế phát xạ HHG –
quá trình hỗ biến hóa học (tautomerism) đối với các bazơ nitơ của ADN (Axit
Deoxyribonucleic).
ADN là phân tử mang thông tin di truyền của tất cả các dạng sinh vật sống.
Khi phân tử ADN bị biến đổi thì thông tin di truyền cũng sẽ bị xáo trộn, gây ra
đột biến. Một trong những nguyên nhân dẫn đến đột biến trong quá trình sao
chép ADN chính là quá trình tautomerism. Trong phân tử ADN, có bốn loại bazơ
nitơ, mỗi loại thường tồn tại dưới hai dạng đồng phân hỗ biến (tautomer): một
dạng phổ biến và một dạng hiếm gặp. Quá trình tautomerism xảy ra khi có sự
biến đổi giữa hai tautomer từ dạng phổ biến sang hiếm gặp. Các dạng hiếm gặp
dù có thời gian tồn tại rất ngắn nhưng nếu trong thời gian tồn tại đó, chúng được
huy động vào quá trình tổng hợp ADN thì đột biến sẽ xảy ra và dẫn đến hậu quả
là thông tin di truyền bị thay đổi. Do đó, nhu cầu tìm kiếm phương pháp để có
thể thu nhận thông tin và tác động vào quá trình tautomerism có ý nghĩa quan
trọng và mang tính thực tiễn cao.
Với ý nghĩa thực tiễn đó, nhóm chúng tôi đã thực hiện đề tài “Theo dõi quá
trình động học phân tử của các bazơ nitơ của ADN bằng lade xung cực ngắn”.
Trong đó, chúng tôi lựa chọn hai bazơ nitơ: thymine và adenine để tiến hành cho
tương tác với lade xung 5 fs, bước sóng 800 nm, cường độ mạnh 2.1014 W/cm2.
Năm học 2009– 2010
113
1.2. Mục đích nghiên cứu
Sử dụng dữ liệu HHG thu được khi cho lade xung cực ngắn tương tác với
hai bazơ nitơ adenine và thymine trong quá trình tautomerism để từ đó theo dõi
quá trình động học phân tử của hai bazơ nitơ này.
Để có thể đạt được mục đích này, chúng tôi cần phải thực hiện được những
mục tiêu sau:
- Mô phỏng cấu trúc phân tử và HOMO (Highest Occupied Molecular
Orbital) của phân tử adenine và thymine. So sánh với số liệu thực nghiệm [9],
[10].
- Tính toán mặt thế năng PES (Potential Energy Surface) và tìm ra ba cấu
trúc cân bằng. Mô phỏng đường phản ứng hóa học CRP (Chemical Reaction
Path) của hai phân tử adenine và thymine.
- Mô phỏng HHG thu được khi cho lade xung 5 fs, cường độ 2.1014 W/cm2,
bước sóng 800 nm tương tác với phân tử.
- Xác định dấu vết các trạng thái tautomer từ phổ HHG.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
- Tìm hiểu, phân tích tài liệu lí thuyết về: phần mềm tính toán Gassian;
ADN, các bazơ nitơ, quá trình tautomerism; lý thuyết phát xạ HHG, mô hình ba
bước Lewenstein.
- Sử dụng phương pháp phiếm hàm mật độ DFT (Density Functional
Theory) với hiệu chỉnh Gradient B3LYP và hệ hàm cơ sở 6-31G+(d,p) thông qua
phần mềm Gaussian để mô phỏng cấu trúc phân tử, HOMO, mặt thế năng.
- Sử dụng phương pháp động học phân tử với gần đúng Born-Oppenheimer
cùng với phương pháp phiếm hàm mật độ DFT với hiệu chỉnh Gradient B3LYP
và hệ hàm cơ sở 6-31G+(d,p) thông qua phần mềm Gaussian để mô phỏng đường
phản ứng hóa học trong quá trình tautomerism.
- Sử dụng mô hình ba bước Lewenstein về phát xạ HHG để mô phỏng
HHG do tương tác giữa phân tử và lade bằng ngôn ngữ lập trình Fortran.
- Sử dụng mô hình thí nghiệm mô phỏng như hình vẽ sau để cho lade
tương tác với phân tử:
(a) Thymine (b) Adenine
Hình 1: Mô hình thí nghiệm mô phỏng đối với hai phân tử
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
114
Các phân tử khí có phân bố đẳng hướng, do đó chúng phải được định
phương để dữ liệu HHG thu được có tính đồng bộ cao. Phân tử sẽ được định
phương trong mặt phẳng vuông góc với phương truyền của lade chiếu vào. Sau
đó chiếu lade (5 fs, 800 nm, 2.1014 W/cm2) vào phân tử, các hiệu ứng phi tuyến
xảy ra và một trong những hiệu ứng đó là phát xạ HHG. Đặt thiết bị thu tín hiệu
HHG theo cùng phương truyền của lade vào và chỉ đo các HHG phát ra có cùng
phân cực và vuông góc với vectơ phân cực của lade chiếu vào (từ đây sẽ gọi là
HHG song song và HHG vuông góc). Gọi là góc hợp bởi phương của vectơ
phân cực của lade và trục phân tử. Trục phân tử trong mô hình này được chọn là
cùng phương với mối liên kết N1-C2.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Cấu trúc và HOMO của các phân tử
Cấu trúc hai tautomer và trạng thái chuyển tiếp của phân tử adenine và
thymine tối ưu hóa từ phần mềm Gaussian được thể hiện bằng hình vẽ dưới đây.
(a) (b) (c)
Hình 2: Ba trạng thái của phân tử adenine
(a) Trạng thái imino; (b) Trạng thái chuyển tiếp; (c) Trạng thái amino.
(a) (b) (c)
Hình 3: Ba trạng thái cân bằng của phân tử thymine
(a) Trạng thái enol; (b) Trạng thái chuyển tiếp; (c) Trạng thái keto
Các số liệu thu được từ mô phỏng của Gaussian khá phù hợp với dữ liệu
thực nghiệm [9], [10] do đó mô hình tính toán đã sử dụng là đáng tin cậy. Trong
đề tài này, chúng tôi sử dụng mô hình tính toán ba bước Lewenstein. Theo mô
hình này, lade sẽ tương tác với HOMO của phân tử. Do đó, tiếp tục sử dụng
Năm học 2009– 2010
115
phương pháp này chúng tôi tiến hành mô phỏng HOMO của phân tử để chuẩn bị
cho việc mô phỏng HHG.
2.2. Mặt phẳng thế năng và đường phản ứng hóa học
Sử dụng phần mềm Gaussian, chúng tôi lần lượt thay đổi vị trí của nguyên
tử hydro trong không gian để khảo sát mặt thế năng của adenine và thymine. Với
phân tử thymine việc này được thực hiện bằng cách thay đổi khoảng cách C4-
H11(R) và góc O8-C4-H11 (góc cấu trúc θH), với adenine là khoảng cách C6-
H15 và góc N1-C6-H15. Kết quả tính mặt thế năng và mô phỏng đường phản
ứng hóa học của phân tử thymine như sau:
Hình 4: Mặt phẳng thế năng của phân
tử thymine
Hình 5: Đường phản ứng hóa học
của phân tử thymine
Quan sát hình vẽ, ta thấy trên mặt thế năng của phân tử thymine có một vị
trí cực tiểu địa phương ứng với trạng thái enol, một vị trí yên ngựa tương ứng với
trạng thái chuyển tiếp và một vị trí cực tiểu toàn cục ứng với trạng thái keto. Dựa
vào đồ thị đường phản ứng hóa học, mức chênh lệch năng lượng giữa hai trạng
thái enol – keto là 0.62 eV, giữa trạng thái chuyển tiếp – keto là 1.92 eV.
Đối với adenine cũng thu được kết quả tương tự, phân tử adenine cũng có
một vị trí cực tiểu địa phương ứng với trạng thái imino, một vị trí yên ngựa tương
ứng với trạng thái chuyển tiếp và một vị trí cực tiểu toàn cục ứng với trạng thái
amino. Năng lượng giữa hai trạng thái imino – amino là 0.53 eV, giữa trạng thái
chuyển tiếp – amino là 2.1 eV.
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
116
2.3. Phát xạ HHG và phân biệt ba trạng thái
Sử dụng mô hình ba bước, chúng tôi mô phỏng HHG trên ngôn ngữ
Fortran. Lần lượt thay đổi giá trị góc định phương khác nhau từ 00 đến 900 và thu
kết quả dữ liệu HHG.
Hình 6: Cường độ HHG song song theo các góc định phương khác nhau
Quan sát đồ thị ta nhận thấy cường độ HHG song song phụ thuộc góc định
phương đối với amino-adenine và keto-thymine đều có những đặc điểm chung. Ở
vùng tần số thấp 11 , cường độ HHG phát ra rất lớn, hơn nữa trong vùng đó
mô hình ba bước Lewenstein không còn chính xác nữa. Sau đó, đồ thị có dạng
gần như bằng phẳng trong một vùng tần số nhất định (miền phẳng). Miền này kết
thúc tại ngưỡng tần số nhất định 33 (cut off [8]). Sau đó với 33 thì cường
độ HHG giảm nhanh và rất nhỏ. Do đó dữ liệu HHG chỉ có giá trị trong miền
phẳng với tần số trong khoảng 11 33 . Để thấy rõ sự phụ thuộc của HHG vào
góc định phương ta xét với các bậc cụ thể 19, 21, 23 và 25 cho phân tử thymine.
Hình 7: Sự phụ thuộc cường độ HHG vào góc định phương cho thymine
Với các trạng thái của thymine, HHG song song ứng với một bậc cụ thể đạt
cực đại tại giá trị góc theta vào khoảng 600-700 còn HHG vuông góc phát ra đại
Năm học 2009– 2010
117
cực trị tại hai vị trí góc theta vào khoảng 350-400 và 650-700. Tương tự cho
adenine, chúng tôi nhận thấy chưa thể phân biệt được các trạng thái khác nhau
của phân tử này. Nguyên nhân của việc chưa thể dùng phương pháp này để phân
biệt các trạng thái cân bằng của phân tử adenine cũng như thymine là sự đóng
góp của nguyên tử hydro lên HOMO của phân tử với cả ba trạng thái cân bằng là
không đáng kể. Mà trong mô hình chúng tôi sử dụng lade chỉ tương tác với
HOMO của phân tử và phát HHG. Do đó phương pháp này nên được sử dụng với
những đồng phân mà có HOMO khác nhau về mặt hình dạng. Cũng cần có
phương pháp cải tiến mô hình để thu được kết quả chính xác hơn.
2.4. Theo dõi quá trình tautomerism
Trong quá trình tautomerism, vẫn giữ nguyên mô hình thí nghiệm, chiếu
lade liên tục trong quá trình này và từ dữ liệu HHG thu được chúng tôi tiến hành
khảo sát cường độ HHG thu được phụ thuộc vào hai biến số góc định phương và
góc cấu trúc.
Hình 8: Góc cấu trúc trong quá trình tautomer hóa của phân tử thymine
Góc cấu trúc đặc trưng cho ba trạng thái của phân tử thymine là ~300, cho
trạng thái enol ~520, cho trạng thái chuyển tiếp và 940 cho trạng thái keto. Khảo
sát sự phụ thuộc của cường độ HHG vào hai biến số góc định phương và góc cấu
trúc chúng tôi thu được kết quả như sau:
Hình 9: Cường độ HHG song song phụ thuộc vào góc định phương và góc
cấu trúc trong quá trình hỗ biến hóa học của thymine ứng với bậc 19 và 21
Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH
118
Trong cả quá trình tautomerism, dựa vào HHG song song với bậc 19 và 21
ta nhận thấy HHG cực đại trong 3 vùng. Vùng thứ nhất là vùng nằm ở vị trí góc
cấu trúc cỡ 300-350 tương ứng với trạng thái enol; vùng thứ hai là vùng nằm
trong khoảng góc cấu trúc cỡ 500-600 tương ứng với trạng thái chuyển tiếp; vùng
thứ ba là vùng nằm trong khoảng góc cấu trúc cỡ 900-940 tương ứng với trạng
thái keto. Với HHG vuông góc cũng như HHG song song nhưng với các bậc còn
lại (khác bậc 19 và 21) thì các cực đại không trùng với ba trạng thái cân bằng
này. Do đó sử dụng HHG song song bậc 19 và 21 ta có thể theo dõi được quá
trình tautomerism của thymine.
Áp dụng phương pháp tương tự cho phân tử adenine chúng tôi nhận thấy
chưa thể phân biệt được các trạng thái cân bằng: imimo, trạng thái chuyển tiếp,
amino do các cực đại không trùng với trạng thái này.
Nguyên nhân của việc này là do thymine có cấu tạo một mạch vòng còn
adenine có cấu tạo hai mạch vòng do đó ảnh hưởng của hydro lên HOMO trong
quá trình tautomerism của phân tử thymine là đáng kể hơn. Do đó phương pháp
này đã thành công cho việc theo dõi quá trình tautomerism của phân tử thymine.
3. Kết luận và hướng phát triển
Như vậy, bằng cách sử dụng phương pháp phiếm hàm mật độ DFT với hiệu
chỉnh Gradient B3LYP và hệ hàm cơ sở 6-31G+(d,p) thông qua phần mềm
Gaussian chúng tôi đã mô phỏng được cấu trúc và HOMO của ba trạng thái cân
bằng của hai bazơ nitơ adenine và thymine. Kết quả tính toán phù hợp với thực
nghiệm [9], [10]. Sử dụng phương pháp động học phân tử bằng gần đúng Born-
Oppenheimer chúng tôi đã mô phỏng được quá trình tautomerism của adenine và
thymine, bằng hình ảnh mặt thế năng và đường phản ứng hóa học của phân tử.
Tiếp theo, dựa trên mô hình ba bước Lewenstein, chúng tôi đã mô phỏng
được HHG do tương tác của hai phân tử này với lade và theo dõi thành công quá
trình tautomerism cho phân tử thymine. Kết quả này mang tính định hướng cho
thực nghiệm.
Tuy nhiên theo mô hình ba bước Lewenstein thì lade chỉ tương tác với
HOMO của phân tử. Vì HOMO của các trạng thái cân bằng của adenine và
thymine là rất giống nhau, nên chưa thể sử dụng HHG phân biệt được các trạng
thái của từng phân tử, đồng thời cũng chưa thể theo dõi được quá trình
tautomerism của adenine. Do đó cần thiết phải có mô hình tính toán chính xác
hơn để mô phỏng HHG.
Năm học 2009– 2010
119
Đề tài có thể được phát triển theo hướng theo dõi quá trình tautomerism của
hai bazơ nitơ còn lại và quá trình deamination của cytosine là quá trình chuyển từ
cytosine thành uracil không có trong ADN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Itatani J., Levesque J., Zeidler D., Niikura H., Pepen H., Kieffer J. C.,
Corkum P. B., Villeneuve D. M. (2004), “Tomographic imaging of
molecular orbitals”, Nature 432, 867.
[2] Le Van Hoang, Le Anh Thu, Rui-Hua Xie and Lin C.D. (2007),
“Theoretical analysis of dynamic chemical imaging with lades using
high-order harmonic generation”, Physical Review A 76, 013414.
[3] Nguyen Ngoc Ty, Le Van Hoang, Vu Ngoc Tuoc, Le Anh Thu (2010),
“Retrieving molecular structural information and tracking HNC/HCN
isomerization process with high harmonic generation by ultrashort lade
pulses”, Communications in Physics 20.
[4] Ngoc-Ty Nguyen, Bich-Van Tang, and Van-Hoang Le (2010),
“Tracking Molecular Isomerization Process with High Harmonic
Generation by Ultrashort Lade Pulses”, J. Mol. Struct (Theochem) 949,
52.
[5] Đinh Đoàn Long, Đỗ Lê Thăng (2009), Cơ sở di truyền học phân tử và
tế bào, Nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
[6] Lewenstein M., Balcou Ph., Ivanov M.Yu., L’Huillier Anne, and
Corkum P.B. (1994), “Theory of high harmonic generation by low –
frequency lade fields”, Physical Review A 49, 2117.
[7] Frisch M. J. et al. (2003), GAUSSIAN 03, revision C.02, Gaussian, Inc.,
Pittsburgh, PA.
[8] Corkum P. B. (1993), “Plasma perspective on strong field multiphoton
ionization”, Physical Review Letters 71, 1994.
[9]
[10]