TÓM TẮT
Huyền Quang là một thiền sư đồng thời là một thi nhân. Thiên nhiên trong thơ Huyền
Quang là cái đẹp, là hiện thân của toàn chân, toàn mĩ.
Thiên nhiên là cách để ông bày tỏ quan niệm và trình bày một cách gián tiếp triết lí
nhà Phật. Thiên nhiên trong thơ Huyền Quang còn là hiện thân của tâm hồn, cách sống
của thi nhân. Qua thiên nhiên, Huyền Quang - hình tượng tác giả hiện lên thật rõ trong
một tâm thế sáng với tinh thần tỉnh thức của người tu Thiền và một tâm hồn thi nhân
rộng mở.
Thiên nhiên trong thơ Huyền Quang trong sáng, tĩnh lặng, mang màu thiền sâu sắc.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 283 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thiên nhiên trong thơ Huyền Quang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 - Thaùng 6/2011
48
THIÊN NHIÊN TRONG THƠ HUYỀN QUANG
NGUYỄN THỊ DIỆU HIỀN
(*)
TÓM TẮT
Huyền Quang là một thiền sư đồng thời là một thi nhân. Thiên nhiên trong thơ Huyền
Quang là cái đẹp, là hiện thân của toàn chân, toàn mĩ.
Thiên nhiên là cách để ông bày tỏ quan niệm và trình bày một cách gián tiếp triết lí
nhà Phật. Thiên nhiên trong thơ Huyền Quang còn là hiện thân của tâm hồn, cách sống
của thi nhân. Qua thiên nhiên, Huyền Quang - hình tượng tác giả hiện lên thật rõ trong
một tâm thế sáng với tinh thần tỉnh thức của người tu Thiền và một tâm hồn thi nhân
rộng mở.
Thiên nhiên trong thơ Huyền Quang trong sáng, tĩnh lặng, mang màu thiền sâu sắc.
ABSTRACT
Huyen Quang is a Zen Buddhist and poet. Nature in his poems is a symbol of uttermost
truth and perfect beauty.
Through nature Huyen Quang expressed his views and presented the philosophy of
Buddhism indirectly. In his poems, nature is also a symbol of poets’ souls and ways of
living. Again through nature, Huyen Quang appeared vividly with a pure state of mind of a
Zen Buddhist and a soul of a great poet.
Nature in Huyen Quang’s poems is pure, tranquil, and meditative.
1. Thiên nhiên là đề tài muôn thuở của
thi ca. Với các Thiền sư, thiên nhiên không
chỉ là tình yêu mà còn là lối quay về, là nơi
tìm lại tự tính của mình. Thiền sư Thích
Giác Toàn đã rất có cơ sở khi cho rằng:
“Một nét đẹp có thể nói là “bất khả tư
nghì” hay tinh thần nhân bản sâu sắc tuyệt
vời của các Thiền sư thời Lí - Trần là sự
sống con người được tồn tại trong sự tồn
tại vĩnh hằng của cảnh sắc thiên nhiên” (1).
Lối sống thanh đạm, giản dị, hài hoà nên
việc gần gũi thiên nhiên trở thành lẽ sống
của họ. (*)
Thiên nhiên còn là đối tượng thẩm mĩ
cho nguồn cảm hứng Thiền. Trong quan
(*)
ThS, Trường THPT Thiên Hộ Dương, Cao Lãnh,
Đồng Tháp.
niệm của Thiền gia, thiên nhiên là nơi giúp
con người tìm lại bản ngã, cái nôi nuôi
dưỡng tự tính của mình. Con người do vô
minh, tham dục nên quên cái chân bản ngã,
chỉ khi trở về với thiên nhiên, đối diện với
vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, con
người mới phát hiện, quay lại với chính
mình. Thiền sư Thiền Lão đời thứ sáu,
dòng Vô Ngôn Thông, khoảng niên hiệu
Thông Thụy (1034-1038) đã trả lời những
câu thăm hỏi của vua Lí Thái Tông bằng
hình ảnh của thiên nhiên: - Hoà thượng trụ
trì núi này được bao lâu? Sư đáp: Đản tri
kim nhật nguyệt/ Thuỳ thức cựu xuân thu
(Chỉ biết ngày tháng này/ Ai rành xuân thu
ngày trước). Hay: - Hằng ngày Hoà thượng
làm gì? Sư trả lời: Thuý trúc hoàng hoa phi
ngoại cảnh/ Bạch vân minh nguyệt lộ toàn
49
chân (Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác/
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân)(2).
Chỉ biết ngày tháng hiện tại, việc đã qua
không màng nghĩ đến vì giây phút hiện tại
rồi cũng sẽ trở thành quá khứ. Câu trả lời
của sư cho thấy một tâm thức luôn tỉnh
thức trước thực tại. Mọi việc đều “như thị”
đúng quy luật của nó. Đáp lại cho câu hỏi,
Hoà thượng dẫn dắt nhà vua thể nhập vào
thiên nhiên, trong sự hoà nhập đó, con
người sẽ nhận biết không còn sự khác biệt
giữa trúc biếc hoa vàng Thiên nhiên làm
đẹp tâm hồn con người và cái đẹp ấy lan
toả soi chiếu rực sáng cái bên ngoài.
Không còn biên giới giữa tâm và cảnh,
giữa “ta” và “vật”, giữa nội tâm và ngoại
cảnh, thiên nhiên và con người tồn tại ở
trạng thái như nhiên “vật ngã lưỡng vong”,
con người nhận ra cái tâm giác ngộ bản thể
của mình. Thiên nhiên cũng là nơi Thiền
gia chuyển tải những quan niệm về triết lí
nhà Phật. Đó là các vấn đề về sinh - tử, sắc
- không, về bản thể, chân như
Huyền Quang là một Thiền sư - thi
nhân, thơ của sư không chỉ là trí tuệ, tâm
hồn của ngài mà còn là những rung động
tinh tế của một hồn thơ trước thiên nhiên
2. Huyền Quang (玄光, 1254-1334),
tên thật là Lí Đạo Tái (李道載), quê ở làng
Vạn Tải thuộc lộ Bắc Giang. Thuở nhỏ sư
dung nhan kì lạ, thông minh, học một biết
mười, đỗ Tiến sĩ (Trạng nguyên) lúc 21
tuổi. Sau khi thi đậu, nhà vua định gả công
chúa nhưng sư từ chối. Sư được bổ làm
quan ở Hàn Lâm Viện và phụng mạng đón
sứ Trung Hoa. Một hôm, sư theo vua Anh
Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện
Phụng Nhãn nghe Thiền sư Pháp Loa giảng
kinh chợt tỉnh ngộ duyên trước. Sư dâng
biểu xin từ chức để xuất gia tu hành. Năm
1305 sư xuất gia thọ giới tại chùa Vĩnh
Nghiêm, theo làm thị giả cho Điều Ngự,
lấy pháp hiệu là Huyền Quang, sau đó theo
hầu Pháp Loa. Sư bị tai tiếng vì man kế
Điểm Bích, cuộc lễ chẩn tế của sư đã xoá
sạch mối nghi ngờ.
Một điều khác biệt trong thơ của
Thiền sư Huyền Quang so với các Thiền sư
thời Lí - Trần là thơ ông không giáo điều,
không thuyết lí khô khan về đạo. Thiền lí
và các Thiền ngữ như Phật, tâm, vô
thường, vô ngã, sắc, không, hữu, vô của
nhà Phật ít thấy xuất hiện trong thơ ông.
Tuy nhiên, chất Thiền lại đậm sâu hơn
trong tinh thần. Nó hoà vào những cách
cảm, cách nghĩ về cuộc đời, thiên nhiên,
con người. Có lẽ một nhà sư như Huyền
Quang khi làm thơ, mượn câu thơ để ghi
nhận lại những trải nghiệm, suy tư của
mình trên bước đường tu tập, qua những
bài thơ đó người đọc không thể không
nhận ra tâm hồn ông, tấm lòng ông với
thiên nhiên, với con người.
Thiên nhiên đẹp, thanh thoát, hữu tình
trong thơ Huyền Quang là hiện thân của
toàn chân, toàn mĩ. Hai mươi ba bài thơ
trong tập thơ Ngọc tiên tập(3) đều hướng về
thiên nhiên và con người hoà điệu cùng
thiên nhiên. Có khi thi nhân miêu tả thiên
nhiên trực tiếp, có khi trong những cảnh
ngộ đau xót của con người ông đề thơ như
một sự cảm thông chia sẻ (Ai phù lỗ, Tặng
sĩ đồ tử đệ), trong trường hợp này thiên
nhiên hiện diện như một chứng nhân: Kỉ
gia sầu đối kim tiêu nguyệt (Đêm nay mấy
kẻ sầu trăng nhỉ?). Thiên nhiên cũng là
cách để ông bày tỏ quan niệm: Hà nhân
tiểu ẩn lâm tuyền hạ/ Nhất tháp tùng
phong trà nhất bôi (Lui về rừng suối hơn
không/ Chè thơm một chén, gió thông một
giường). Dù miêu tả ở khía cạnh nào, thiên
nhiên - khách thể thẩm mĩ trong thơ Huyền
Quang vẫn là hiện thân của cái đẹp và thi
nhân - chủ thể thẩm mĩ say ngắm, chiếm
50
lĩnh cái đẹp đó. Phải thực sự rung động
trước cảnh sắc bàng bạc của mùa thu trên
sông, ông mới có những câu thơ đẹp đến
nao lòng: “Tiểu đỉnh thừa phong phiếm
diểu mang/ Sơn thanh thủy lục hựu thu
quang” (Mênh mông theo gió, con thuyền
nhỏ/ Thu sáng ngời xanh bóng nước, cây)
hay “Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương”
(Trăng lặn lòng sông, sương trắng đầy)
Mùa thu luôn là nguồn cảm hứng của
thi nhân. Thu trên sông trong cái nhìn của
Huyền Quang là hình ảnh tiếp nối cảnh non
xanh, nước biếc, ánh trời thu; là thời gian
nối thời gian Sương phủ, trăng chìm dưới
bóng sâu... Mọi cái liên tiến, sóng đôi làm
không gian vừa tĩnh vừa động. Thi nhân
vừa say trong cái đẹp của thiên nhiên vừa
giật mình thảng thốt trước bước đi của thời
gian. Cảnh làm nên tứ thơ. Cảnh, tình hoà
quyện khiến nguồn thi liệu dào dạt trong
lòng nhà thơ lên tiếng. Bài thơ gợi nhớ
“Chiều thu ở Vũ Lân” của Trần Nhân
Tông:
Hoạ kiều đảo ảnh trám khê hoành
Nhất mạch tà dương thủy ngoại minh
Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc
Thấp vân như mộng viễn chung thanh
(Dưới dòng khe suối bóng cầu soi
Lóng lánh chiều lên rực ánh tươi
Núi vắng nhẹ rơi ngàn lá đỏ
Chuông ngân hoà quyện khói mây trôi)
Cảnh vật tươi tắn, sinh động hiện lên
thuần khiết trong cái nhìn của Thiền sư.
Mọi vật đều lung linh, hư ảo “bóng cầu
dưới suối, lấp lánh nắng chiều, lá nhẹ rơi
nơi núi vắng, chuông ngân, mây trôi”. Mọi
vật theo đúng tiến trình quy luật của nó.
Trước cảnh huyền diệu đó lẽ nào lòng
người không rung động?
Thiên nhiên trong thơ Huyền Quang
thật bình lặng yên ả như tâm hồn Thiền sư,
trong chốn đó người tu ung dung tự tại:
Am sát trời xanh lạnh,
Cửa mở trên từng mây
Động rồng trời sáng bạch
Khe hổ lớp băng dầy
Chẳng có gì phải lo nghĩ, mọi ưu phiền
lo toan vứt bỏ, chỉ còn lại lão tăng già:
Vụng dại mưu nào có
Già nua gậy một cây
Rừng tre chim chóc lắm
Quá nửa bạn cùng thầy
(Yên Tử sơn am cư)
Thiên nhiên cũng là cách nhà sư trình
bày một cách gián tiếp triết lí nhà Phật.
Ngọ thụy là bài thơ không chỉ miêu tả cảnh
rừng sau cơn mưa “Vũ quá khê sơn tịnh,
Phong lâm nhất mộng lương” (Mưa tạnh
núi khe sạch, Rừng phong một giấc mơ).
Bài thơ hàm chứa triết lí Thiền một cách
kín đáo:
Phản quan trần thế giới
Khai nhản tuý mang mang
(Ngoảnh nhìn đời bụi bặm
Mở mắt dường say sưa)
Nhìn lại cõi đời bụi bặm, mở mắt mà
dường ngủ say. Câu thơ chứa đầy sự mâu
thuẫn nhưng là sự nghịch lí cần thiết để
diễn tả một công án Thiền. Mê lầm và tỉnh
thức. Như thế nào gọi là mê, thế nào là
tỉnh? Mở mắt mà vẫn ngủ say chỉ có thể là
đối với người trong cõi trần. Nhìn ra bên
ngoài nên còn ta, còn người, còn thấy được
- thua, hơn - thiệt, còn đầy phân biệt, ngã
chấp. Phiền toái, đau khổ, sân si cũng từ
đây. Đó chẳng phải là mê sao? Tỉnh chẳng
phải là hành trình tìm kiếm chính mình mà
các Thiền sư cả một đời lao tâm vì nó?
Phản quan tự kỉ bổn tùng tha đắc (soi sáng
lại chính mình là phận sự gốc, không từ
bên ngoài mà được) đó chính là kim chỉ
nam của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Quay lại chính mình để nhận biết đó cũng
51
là cách lí giải, chuyển tải tư tưởng, triết lí
về đạo của ngài Huyền Quang.
Hình ảnh chiếc thuyền con cô độc
trong con nước chiều đang lên, không gian
bốn bề mênh mang với nước sông liền trời
(Chu trung), sương phủ trăng chìm dưới
bóng sâu (Phiếm chu) làm hiện lên một
không gian khoáng đạt và lặng lẽ, trống
không và bình dị, biểu trưng cho tâm hồn
Thiền gia bát ngát vô bờ bến. Con người
giao cảm, hoà nhập vào không gian, nhập
tâm mình làm một với tâm bản thể chân
như của vũ trụ, của đất trời vạn vật.
Nhà đá (Thạch thất) là nơi ở của người
tu với cuộc sống đạm bạc đơn sơ, có lúc
đối diện với thiên nhiên khắc nghiệt. Đâu
phải lúc nào thiên nhiên cũng là bạn hữu
tâm tình cùng nhà thơ - Thiền sư. Thiên
nhiên đôi khi như chính nó nghiệt ngã, lạnh
lẽo đến vô cùng: Nhất lĩnh xối y kinh tuế
hàn (Tấm áo lông thô lạnh tháng ngày)
nhưng người tu vẫn thản nhiên và cuộc
sống vẫn tiếp diễn như nó vốn có. Người tu
vẫn ung dung tự tại toạ thiền: Sư ở trên
giường Thiền, kinh trên án; Lò tàn củi lụi,
mặt trời lên đã ba cây sào... Thời gian trôi,
mọi vật đều thay đổi. Triết lí đạo Phật ẩn
hiện đằng sau câu thơ một cách kín đáo: lẽ
vô thường. Sư nhìn thấy quy luật cuộc sống
đang tiếp diễn, đằng sau sự tàn lụi kia là sự
sống, sức sống vươn lên mạnh mẽ. Không
có gì mất đi, chỉ có sự chuyển biến từ trạng
thái này sang trạng thái khác. Con người
cũng vậy. Sự chết có hay không hay là sự
chấm dứt ở hình thức này biến chuyển sang
một trạng thái khác trong một hình hài
khác (Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng từng
nhận thấy thế). Cho nên trong sự tàn lụi, sư
vẫn thấy sự sống lan toả. Hình ảnh mặt trời
đang lên là xu thế tất yếu của sự vận động,
của quy luật cuộc sống. Vậy cứ an nhiên
bình thản Tăng tại thiền sàng kinh trên án,
có gì phải bận lòng, cuộc đời vốn thế!
Trong bài Diên Hựu tự (Chùa Diên
Hựu), Huyền Quang - hình tượng tác giả
hiện lên thật rõ trong một tâm thế sáng với
tinh thần tỉnh thức của người tu Thiền.
Kristnamurti một Thiền gia người Ấn đã
từng nói: “Khi người quan sát, đối tượng
được quan sát là một, tức bạn đã ở trong
Thiền”. Nhất thể là trạng thái giác ngộ của
người tu Thiền, phải trái đều như nhau,
không phân biệt nên không bị chi phối,
không vướng bận, mọi cái đều sáng tỏ như
ánh trăng trong đêm thu:
Thượng phương thu dạ nhất chung lan,
Nguyệt sắc như ba phong thụ đan
(Đêm thu chùa thoảng tiếng hương
tàn,
Phong đỏ, trăng ngời, sóng nguyệt lan)
Trăng sáng, tinh thần sáng, phút giây
diệu ngộ bừng cháy:
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan
(Thấu hiểu thị phi đều thế cả,
Dầu ma, dầu Phật chốn nào hơn)
Quay về thiên nhiên là ước vọng của
sư, là niềm khao khát khôn nguôi:
Tranh như trục bạn quy sơn khứ,
Điệp chướng trùng san vạn vạn tầng
(Chi bằng theo bạn về non quách
Núi dựng non che vạn vạn tầng)
Dù là bậc Thiền sư, mọi chuyện đều
gác hẳn ngoài tai, nhưng con người thi
nhân trong sư vẫn đâu đó vọng vang tiếng
lòng, nỗi buồn, nỗi ngao ngán thế sự đau
đáu tâm can:
Đức bạc thường tàm kế tổ đăng
Không giao Hàn Thập khởi oan tăng
Huyền Quang thấy thẹn với mình vì
không làm tròn nhiệm vụ đối với Thiền
phái. Ở tuổi 77, con người thường muốn
gác bỏ hết mọi việc, huống chi với sư - một
người mà Thôi đã theo Thiền lòng lặng tắt
52
còn lưu luyến chi chuyện được mất, hơn
thua...
3. Thiên nhiên trong thơ Huyền Quang
là cảnh sắc của sông nước, của trăng, gió
thu và nổi bật nhất là hình ảnh hoa cúc. Có
lẽ đó là loài hoa nhà sư yêu nhất. Chùm thơ
về Hoa cúc là hiện thân của tâm hồn, cách
sống của thi nhân trước thiên nhiên. Hoa
cúc thường được xem là biểu tượng của
mùa thu. Theo quan niệm người xưa “Xuân
sinh, hạ trưởng, đông liễm, thu tàn”, mỗi
mùa mang một nhiệm vụ của nó. Mùa thu
báo hiệu cho sự tàn phai, sự chấm dứt của
quá trình sống của hoa lá cỏ cây, mùa của
lá rụng Vườn thu tàn tạ, ngàn hoa rụng
Nhưng kì diệu thay, đoá hoa cúc vẫn vàng
ươm trong thu rét mướt Riêng cúc đông li
vẫn đượm màu. Muôn hoa đều rã rời bởi
mùa thu chỉ còn riêng mình “hoa cúc vẫn
cười cợt với gió đông”. Phải chăng sự tồn
tại thách thức với thời gian của hoa cúc
làm nên cốt cách riêng biệt cho chính nó?
Huyền Quang chẳng đã từng nói: So với
muôn hoa cúc đứng đầu đó sao? Lấy hoa
cúc gửi gắm tâm tư, bày tỏ quan niệm cho
thấy sự tinh tế và trí tuệ của Thiền sư - thi
nhân Huyền Quang. Vẻ rực rỡ tươi sáng
của hoa cúc trong tiết trời thu gió rét, giữa
sự tàn úa của muôn hoa khác làm nên nét
riêng của loài hoa bình dị này. Vì yêu nên
hoa cúc trong ông là mối bận bịu:
Lão khứ sầu thu ngâm vị ổn
Thi biều thực vị cúc hoa mang
(Sầu thu, tuổi tác ngâm chưa được
Thơ rượu vì hoa bận đến nhau)
Hoa cúc trong cái nhìn của Thiền sư là
đoá hoa của sự tuỳ duyên nhậm vận, của
triết lí nhà Phật: “Cố viên tuỳ xứ thổ hoàng
hoa” (Vườn cũ nơi nơi đã nở hoa vàng).
“Tuỳ xứ” nơi nào loài hoa này cũng có thể
mọc được, có thể sống và trổ hoa. Từ đặc
điểm này khiến người ta cảm nhận đến sự
tuỳ duyên trong giáo lí nhà Phật được
chuyển tải qua cái nhìn tuệ giác của Thiền
sư: đoá hoa cúc tuỳ duyên. Gặp duyên thì
mọc, gặp duyên thì nở. Vì lẽ đó sư đã từng
ngao ngán trước sự vô tâm, không hiểu
được vẻ huyền diệu nơi hoa của con người:
Vẻ đẹp tinh khôi người chẳng hiểu
Bẻ về cài tóc, đáng cười không ?
Cái đẹp của hoa cúc không chỉ là cái
đẹp của thanh tịnh, của sự vi diệu. Trời
xuân, hoa xuân nở khắp nơi. Hoa đua chen
khoe sắc khiến tâm hồn người không thể
không xao động trước vẻ đẹp của muôn
hoa:
Xuân lai hoàng bạch các phương phi,
Ái diễm liên hương diệc tự thì
(Xuân dến trăm hoa đua sắc thắm
Một thời hương sắc kém chi nhau)
“Ái diễm liên hương” chuyện yêu hoa
bởi hoa đẹp, bởi hương hoa làm say đắm
lòng người là chuyện của thế gian, của
người phàm. Nhưng kiếp hoa vốn mong
manh, sớm nở tối tàn. Đoá hoa vô thường
trong vườn xuân rồi cũng phai tàn Biên
giới phồn hoa toàn trụy địa (Vườn thu tàn
tạ ngàn hoa rụng). Cái đẹp cùng hương hoa
mất đi làm lòng tiếc thương buồn bã. Nếu
hiểu được đó là chuyện thường hằng của
đất trời thì tất cả vẻ đẹp kia chỉ là giả
tưởng. Nhưng lạ lùng thay, diệu kì biết bao
đoá hoa cúc vẫn đượm màu giữa ngàn hoa
tàn úa. Trong cái giả tưởng, sắc tướng hiện
hữu rõ ràng. Hình tượng hoa cúc là hiện
thân cho cái chân toàn mĩ, toàn bích, cái
chân đó không dễ gì nhận ra, cần có con
mắt trí huệ mới nhìn thấu đáo. Hoa cúc VI
là bài thơ về thiên nhiên đậm chất Thiền,
trong đó lẽ “sắc - không” của tư tưởng Phật
giáo được sư Huyền Quang gửi gắm kín
đáo sâu sắc.
Tinh thần hợp nhất, tự do, tự tại của
người tu Thiền được soi sáng bởi thiên
53
nhiên. Vô ngã, vô úy cũng là đây. Con
người hoà nhập với thiên nhiên, với đất
trời, với vũ trụ:
Hoa tại trung đình, nhân tại lâu,
Phần hương độc toạ tự vong ưu.
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh,
Hoa hướng quần phương xuất nhất
đầu
(Hoa ở trước sân người trên lầu,
Đốt hương ngồi lặng bỗng quên sầu.
Hồn nhiên, người vật không tranh
cạnh,
So với muôn hoa cúc đứng đầu)
(Hoa cúc V)
Cái bản ngã trở thành đại ngã. Con
người vượt qua cái hữu hạn đến với cái vô
hạn, đến bên kia bờ giác. Thứ Bảo Khánh
tự bích gian đề (Hoạ bài thơ đề trên vách
chùa Bảo Khánh) là sự hoá thân vào thiên
nhiên của thi nhân Huyền Quang:
Khói nhạt đồng hoang quê lắm vẻ
Lầu nam quán bắc xế vừng hồng
Thơ không thi liệu, xuân không chủ
Mấy cội hoa sầu nhớ gió đông
Tâm hồn thơ bàng bạc cùng khắp
không gian, thời gian, cảnh vật và thiên
nhiên. Dường như thi nhân phủ định mọi
cái, dửng dưng đến độ Xuân vô chủ tích thi
vô liệu nhưng trong tận cùng tiềm thức,
một khao khát không nguôi, thôi thúc cháy
bỏng Sầu tuyệt đông phong kỉ thụ hoa.
Thiên nhiên trong thơ Huyền Quang
trong sáng và mang đậm chất Thiền sâu
sắc. Những bài thơ về thiên nhiên của
Huyền Quang như đưa ta vào một khu
vườn Thiền uyên nguyên, tĩnh lặng. Bao
nhiêu thế kỉ đã qua, Bách tuế quang âm
nhiển chỉ trung (Ngày tháng, trăm năm một
thoáng nhanh) đất trời vẫn lồng lộng, thiên
nhiên vẫn ngát xanh và con người không
thôi say đắm trước nó Thiên nhiên trong
thơ Huyền Quang vẫn lưu luyến vấn vương
tâm tư ta. Tình yêu của Huyền Quang với
thiên nhiên là bất diệt...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thích Giác Toàn (2010), Những sáng tác văn học của các thiền sư thời Lí – Trần, Nxb
Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
2. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên), (1998), Thơ văn Lí - Trần, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội, tập II.
3. Trần Thị Băng Thanh, (chủ biên), (2001), Huyền Quang - Cuộc đời, Thơ và Đạo, Nxb
TP. Hồ Chí Minh.