Tiểu sử nhà văn Vũ Trọng Phụng

1. Cuộc đời Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912 trong một gia đình rất nghèo ở Hà Nội (mà theo lời Ngô Tất Tố là nghèo “gia truyền”). Ông thân sinh là Vũ Văn Lân, quê ở Hưng Yên, vốn làm nghề thợ điện ở xưởng xe ôtô Ch. Biollot ở Hà Nội nhưng ông mất lúc Vũ Trọng Phụng mới 7 tháng tuổi. Bà thân sinh là Phạm Thị Khách, kiếm sống bằng nghề khâu vá thuê, là người tỉnh Hà Đông (nay là thành phố Hà Nội). Sau khi chồng mất, bà ở vậy tần taor nuôi con từ năm 24 tuổi và được đánh giá là “một người mẹ chí từ của một người con chí hiếu”. Vũ Trọng Phụng thuở bé lớn lên trong tình yêu thương của mẹ và được cắp sách đến trường. Năm 1921, ông bắt đầu học Pháp văn ở trường Hàng Vôi rồi trường Hàng Kèn, sau đó nữa là trường Sinh Từ. Là một trong những lứa thanh niên được học tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ đầu tiên của nước ta, Vũ Trọng Phụng vô cùng thần tượng nền văn hóa Pháp và là lớp nhà văn tích cực truyền bá văn học chữ Quốc Ngữ. Tuy vậy, tuổi thơ của ông không được suôn sẻ. Trong môi trường học đường, với xuất thân nghèo khó, lại mồ côi nên ông bị tách biệt với các học trò khá giả không biết đến sự đồng cảm khác. Điều này làm ông mang trong mình sự tự ti, yếu đuối và cô độc. Chính sự mặc cảm đã dồn nén và ngày càng lớn lên trong lòng cậu Tý (tên sữa của Vũ Trọng Phụng), rồi sau này lại biến thành nỗi uất ức, bi phẫn với cuộc đời, với xã hội.

docx15 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 190 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu sử nhà văn Vũ Trọng Phụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VŨ TRỌNG PHỤNG Cuộc đời Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912 trong một gia đình rất nghèo ở Hà Nội (mà theo lời Ngô Tất Tố là nghèo “gia truyền”). Ông thân sinh là Vũ Văn Lân, quê ở Hưng Yên, vốn làm nghề thợ điện ở xưởng xe ôtô Ch. Biollot ở Hà Nội nhưng ông mất lúc Vũ Trọng Phụng mới 7 tháng tuổi. Bà thân sinh là Phạm Thị Khách, kiếm sống bằng nghề khâu vá thuê, là người tỉnh Hà Đông (nay là thành phố Hà Nội). Sau khi chồng mất, bà ở vậy tần taor nuôi con từ năm 24 tuổi và được đánh giá là “một người mẹ chí từ của một người con chí hiếu”. Vũ Trọng Phụng thuở bé lớn lên trong tình yêu thương của mẹ và được cắp sách đến trường. Năm 1921, ông bắt đầu học Pháp văn ở trường Hàng Vôi rồi trường Hàng Kèn, sau đó nữa là trường Sinh Từ. Là một trong những lứa thanh niên được học tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ đầu tiên của nước ta, Vũ Trọng Phụng vô cùng thần tượng nền văn hóa Pháp và là lớp nhà văn tích cực truyền bá văn học chữ Quốc Ngữ. Tuy vậy, tuổi thơ của ông không được suôn sẻ. Trong môi trường học đường, với xuất thân nghèo khó, lại mồ côi nên ông bị tách biệt với các học trò khá giả không biết đến sự đồng cảm khác. Điều này làm ông mang trong mình sự tự ti, yếu đuối và cô độc. Chính sự mặc cảm đã dồn nén và ngày càng lớn lên trong lòng cậu Tý (tên sữa của Vũ Trọng Phụng), rồi sau này lại biến thành nỗi uất ức, bi phẫn với cuộc đời, với xã hội. Năm 1926, khi mới 15 tuổi, Vũ Trọng Phụng đã đỗ bằng Tiểu học. Với gia cảnh khó khăn, ông lựa chọn thi vào trường Sư phạm sơ cấp với hi vọng tìm được học bổng để đỡ đần phần nào cho gia đình nhưng không thành. Từ đó, ông bắt đầu bươn trải kiếm sống và lăn lội trong cuộc đời xô bồ. Khoảng tháng 10 năm 1926, Vũ Trọng Phụng xin vào làm thư kí cho nhà hàng Godard nhưng chỉ vài tháng đã bị đuổi việc do quá say mê văn chương mà lơ là công việc. Năm 1927, ông lại xin vào đánh máy chữ ở nhà in Viễn Đông (Viễn Đông ấn quán - IDEO). Nhưng lần nữa vì đam mê mà ông đã viết văn trong giờ làm việc, nên chỉ sau 2 năm, ông lại bị sa thải. Đây cũng là cơ duyên đầu tiên đưa Vũ Trọng Phụng chuyển sang chuyên tâm viết văn, viết báo. Chính vì thời gian làm thư kí và sống ở phố Hàng Bạc, Hà Nội – nơi ông đã gắn bó gần hết cuộc đời – đã giúp Vũ Trọng Phụng có vốn sống vô cùng phong phú. Ông được tiếp xúc với nhiều hạng người, va chạm với nhiều cuộc mưu sinh khốc liệt, bắt gặp những cách làm tiền, những bon chen, tội ác, những trụy lạc, cạm bẫy và cả những cảnh bi đát mà đê tiện. Hơn nữa, Vũ Trọng Phụng lại sống qua những đoạn bi thương của đất nước. Đó là cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 trên quy mô toàn cầu, làm đời sống của giai cấp lao động vốn đã khốn đốn nay lại càng khốn đốn, mà bọn nhiều tiền lại nhân cơ hội tích trữ đầu cơ, cho vay lãi nặng. Đó cũng là sự thoái trào của phong trào cách mạng 1930-1931, rồi đó cũng là phong trào Âu hóa đương bắt đầu phát triển rầm rộ. Tất cả những điều trên, đã làm nên một Vũ Trọng Phụng với tư tưởng bi quan, phẫn uất sau này. Thậm chí, nhiều người còn cho rằng câu tự thuật của Xuân Tóc Đỏ: “Tôi sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu”, cũng là tiếng lòng của nhà văn. Đầu năm 1938, Vũ Trọng Phụng lập gia đình với cô Vũ Mị Nương, con gái của một nhà buôn nghèo ở quận Thanh Xuân. Cuối năm đó, hai người có con gái Võ Mị Hằng. Dù tài hoa, nhưng ngòi bút của ông không thể ông gồng gánh cả gia đình. Ông phải làm việc cật lực trong hoàn cảnh thiếu thốn, từ đó lại làm trầm trọng thêm căn bệnh lao quái ác. Ông mất vào ngày 13 tháng 10 năm 1939, khi mới 27 tuổi, để lại bà nội, mẹ già, một người vợ góa và con gái nhỏ chưa đầy năm. Con người Tìm hiểu xu hướng văn chương của một tác giả, điều quan trọng là phải tìm hiểu con người họ với những hoàn cảnh gia đình, xã hội tác động vào họ như thế nào. Bởi suy cho cùng tác phẩm văn chương là sự phản ánh thế giới khách quan qua lăng kính chủ quan của nhà văn, lăng kính chủ quan của một nhà văn chính là thế giới quan của họ. Thế giới lại được định hình dựa trên những điều kiện gia đình, xã hội, tiểu sử bản thân. Chẳng hạn thơ Tố Hữu có giọng điệu ngọt ngào, đằm thắm cũng là chịu ảnh hưởng của người mẹ thuộc nhiều ca dao, dân ca và của quê hương xứ Huế với những điệu hò mái đẩy hết sức thiết tha. Vì vậy tìm hiểu về con người của một nhà văn sẽ giúp chúng ta giải mã được dễ dàng những tư tưởng của nhà văn ấy phản ánh trong tác phẩm. Vũ Trọng Phụng là một con người thông minh từ thuở nhỏ. Lớn lên ông cũng đã thể hiện mình là một cây bút đa tài. Vũ Trọng Phụng tham gia viết nhiều thể loại văn học: kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, dịch thuật và ở thể loại nào Vũ Trọng Phụng cũng có được những thành công nhất định. Đặc biệt Vũ Trọng Phụng nổi bật với mảng tiểu thuyết và phóng sự. Do phần lớn cuộc đời Vũ Trọng Phụng sống ở thành thị, nên ông có một vốn sống vô cùng phong phú ở nơi đây. Xuất thân trong cảnh nghèo hèn, lại phải quay cuồng, trầy trật, vật lộn với những cuộc sống mưu sinh hằng ngày nên Vũ Trọng Phụng có cơ hội gần gũi với những người nghèo khổ thành thị. Ông có dịp tiếp xúc thường xuyên với những hạng cùng đinh dưới đáy xã hội, đó là con sen, thằng ở, là đám dân nghiện hút, bọn lưu manh, bon gái điếm nên ông có cái nhìn rất chân thật về họ. Tuy nhiên Vũ Trọng Phụng lai không được gần gũi, tiếp xúc với những người lao động chân chính với sự trong sáng, khỏe khoắn ở họ. Cho nên Vũ Trọng Phụng chưa có cái nhìn bao dung về người lao động, những trang viết của ông về người lao động phần nhiều là méo mó, phiến diện. Đồng thời Vũ Trọng Phụng cũng thông thuộc những hạng người thuộc tầng lớp trên: bọn nghị viên, bọn thầu khoán, bọn me tây, bọn tư sản, bọn viên chức, các loại người trong bộ máy cai trị đương thời Đời sống xã hội ấy đã cung cấp cho Vũ Trọng Phụng nhiều hình mẫu nhân vật, gây ra trong ông cái ý thức mạnh bạo, sự cần thiết phải bày tỏ thái độ trước một thực trạng xã hội “vô nghĩa lí, đầy rẫy những tệ nạn”, cũng như ý thức về thân phận và tình cảnh nghèo khổ cơ cực của mình. Đọc những trang văn Vũ Trọng Phụng viết về mặt trái của xã hội dễ khiến người ta liên tưởng đây là tay sành sỏi, thạo đời, đã từng lăn lóc lâu năm trong hang ổ của bọn đĩ điếm, của đám nghiện hút, bọn cờ bạc, bịp bợm Thế nhưng theo chứng thực của bạn bè cùng thời với Vũ Trọng Phụng, ông lại là người rất khuôn phép, rất nề nếp, rất giàu tự trọng và rất bình dị. Trong cuộc sống ông chỉ mong kiếm chút tiền phụ giúp mẹ già và dành dụm tiền cưới vợ để có con nối dõi. Song cuộc sống ngheo khổ cứ bám riết lấy ông. Từ tuổi thơ bất hạnh đến lớn lên gặp cảnh lố lăng, đã hình thành trong tư tưởng Vũ Trọng Phụng nỗi hoài nghi, tư tưởng phủ nhận khó phai mờ. Cảnh thất nghiệp thường xuyên (làm nhiều nghề mà nghề nào cũng dang dở) cộng với xã hội xung quanh lại xa hoa, phè phưỡn, trụy lạc, trác táng, một xã hội trái ngược hoàn toàn với mong muốn của nhà văn. Cho nên Vũ Trọng Phụng sớm có tâm trạng bi phẫn với thời cuộc. Cái bi phẫn ấy không chỉ là sự uất ức của một cá nhân mà là tâm trạng chung của một lớp người có hoài bão đẹp nhưng đành bất lực trước thực trạng xã hội, mà Vũ Trọng Phụng chỉ là một đại diện tiêu biểu. Và cách để Vũ Trọng Phụng giải tỏa những uất ức ấy là ông đem phản ánh vào văn chương. Cho nên các sáng tác của ông như những câu chửi rủa thẳng thừng vào xã hội mà ông gọi là “Xã hội chó đểu”, là “khốn nạn”. Bên cạnh đó thì Vũ Trọng Phụng còn là người bi quan, ông đã thừa nhận: “Tôi vốn là người bi quan”, vì thế trong ý thức sáng tác của Vũ Trọng Phụng là tâm trạng hoài nghi, phủ định, lấy cảm hứng phê phán làm cảm hứng xuyên suốt và chủ đạo. Và suy cho cùng đó chính là sự bế tắc của một người bất đắc chí và từ sự bế tắc đó Vũ Trọng Phụng rơi vào cái nhìn cực đoan về con người, nhất là người lao động, ông rơi vào chủ nghĩa định mệnh. Quan niệm nghệ thuật Quan niệm nghệ thuật chính là tư tưởng, lập trường, là cách nhìn của một nhà văn về cuộc sống. Văn học phản ánh cuộc sống, lấy chất liệu từ hiện thực cuộc sống. Song trong cuộc sống có vô vàn sự vật, hiện tượng có thể tác động đến nhà văn, làm nảy sinh ở họ cảm hứng sáng tác. Nên việc lựa chọn những tác động nào, những mảng hiện thực cuộc sống nào để phản ảnh trong tác phẩm chính là xuất phát từ quan niệm nghệ thuật. Hay nói cách khác, quan niệm nghệ thuật chính là cái để nhà văn lựa chọn phạm vi hiện thực để cấu tứ thành tác phẩm văn học. Và mỗi một nhà văn lại có cách thể hiện quan niệm nghệ thuật rất riêng, có người bộc lộ trực tiếp, có người bày tỏ gián tiếp. Nếu như Nam Cao thường hé mở quan niệm nghệ thuật của mình thông qua phát ngôn hoặc suy nghĩ của các nhân vật thì Vũ Trọng Phụng lại thể hiện nó một cách trực tiếp thông qua các bài viết của mình. Ngay từ khi bước vào con đường văn chương, Vũ Trọng Phụng đã khẳng định cho mình khuynh hướng “tả thực” để theo đuổi đến cùng. Nghĩa là ông viết về cuộc sống với tất cả những gì vốn có của nó, không màu mè, không tô vẽ, không bôi hồng hay nhào nặn nó cho sáng sủa, cho tốt đẹp. Theo ông, người viết văn vác trên vai mình một chiếc gương khổng lồ để đi vào cuộc sống mà phản ánh cho thực chất, triệt để cuộc sống ấy, dù cho nó có nhiều ung nhọt, xấu xa. Trong bài viết “Thư ngỏ cho ông Thái Phỉ, chủ báo Tin văn về bài “Văn chương dâm uế”” (in trên Hà Nội báo số 38 ngày 23/9/1936), Vũ Trọng Phụng có viết: “Tôi là một trong những nhà văn sĩ tả chân”. Như vậy Vũ Trọng Phụng đã khẳng định mình là một văn sĩ “tả chân” cũng có nghĩa với ông viết về hiện thực xã hội trở thành một niềm thôi thúc, một nhu cầu và trách nhiệm của người cầm bút. Hiện thực cuộc sống với nhan nhản cảnh tượng bỉ ổi, đê hèn đã thẩm thấu vào tư tưởng Vũ Trọng Phụng để nó bật ra thành những trang văn cay nghiệt. Những cảnh bê tha nghiện hút, những kẻ sống không lí tưởng chỉ biết chúi đầu vào cờ bạc, ăn chơi, những kẻ trưởng giả chỉ quen dâm dật, hà hiếp người nghèo là thế giới nhân vật chính trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Có thể nói, tả thực cái xã hội “chó đểu”, “khốn nạn” Vũ Trọng Phụng không bỏ sót đối tượng nào. Tất cả trở thành đối tượng để ông trút nỗi căm hờn của mình. Do vậy khi viết về bọn trưởng giả, Vũ Trọng Phụng rất tài tình trong việc phanh phui bản chất dâm ô, đểu cáng, hám tiền, hám danh, độc ác của chúng. Như vậy, quan điểm nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng trái ngược hoàn toàn so với thứ văn chương lãng mạn đương thời, tiêu biểu là các nhà văn của Tự lực văn đoàn. Nếu như các nhà tiểu thuyết lãng mạn ưa miêu tả cuộc sống bằng sự mĩ miều, đẹp đẽ, tô vẽ cho nó có cái thơ mộng, tươi tắn, thì Vũ Trọng Phụng lại miêu tả cuộc sống với tất cả những cái xấu xa, bẩn thỉu của nó. Vũ Trọng Phụng hướng ngòi bút sắc sảo của mình đi mổ xẻ những tệ nạn, những cái xấu xa của xã hội. Bởi theo lời của chính Vũ Trọng Phụng: “Nhà báo thì phải nói sự thật cho mọi người biết”. Nói là nhà báo cũng có nghĩa là nhà văn sĩ nói chung khi viết phải thành thực, phải như người thư kí của thời đại, phải ghi lại được tất thảy những sự thật hiển hiện trong đời sống. Ví dụ khi viết về Hà Nội thì đó là: “Hà Nội lầm than, ăn cướp, ăn cắp, ăn trộm, đàn bà nghiện hút, buôn người, đồng bóng, sư vãi hoang dâm”. Theo Vũ Trọng Phụng, “Nhà những văn sĩ tả chân có quyền và bổn phận tả những điều ấy mặc lòng đó là thứ dâm uế, nhơ bẩn”. Đặc biệt, quan điểm nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng được thể hiện rõ nét nhất, tập trung nhiều nhất trong luận điểm “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết; Tôi và các nhà văn cùng chỉ hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời () Tả thực cái xã hội khốn nạn, công kích cái xa hoa, dâm đãng của bọn người có nhiều tiền, kêu ca những sự thống khổ của dân nghèo bị bóc lột, bị áp chế, bị cưỡng bức muốn cho xã hội công bình hơn nữa”. Như thế đồng nghĩa với việc Vũ Trọng Phụng ý thức được mối quan hệ mật thiết giữa văn học và cuộc sống. Hiện thực cuộc sống chính là nền tảng cơ bản nhất làm nên nội dung của tác phẩm văn học, có như vậy tác phẩm văn học mới phục vụ đắc dụng cho con người. Tả thực cái xã hội khốn nạn để thấy được những vấn đề nhức nhối, nổi cộm, những tệ nạn đang hoành hành xã hội, giúp con người ý thức được sự thật đó để lánh xa, để bài trừ và để hướng đến một xã hội công bình hơn chứ nếu cứ say sưa trong những “danh từ điêu trá của văn chương” sẽ là liều thuốc đầu độc con người chìm sâu trong ảo tưởng, cổ xúy cho lối sống thác loạn mà không thể thức tỉnh kịp thời. Chẳng hạn, Vũ Trọng Phụng không biết gọi gái đĩ là “nàng”, bởi chữ ấy nó thi vị lắm. Ông chỉ ra các tai hại của kiểu viết lãng mạn “tô điểm cho gái đĩ ấy cái thi vị mà gái đĩ ấy không có, đến nỗi đọc xong chuyện người ta chỉ thấy một gái đĩ làm gương cho thế gian noi theo!” [1,215]. Trong quan điểm nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng rất trọng sự thực, nhà văn phải là người dám nói lên những vết thương của xã hội cho mọi người nghe, không lảng tránh, không trốn chạy hiện thực. Đi ngược lại với điều ấy là văn chương giả dối. Cho nên trong quan niệm nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng không có chỗ cho những điều thanh cao, tao nhã, những thứ ấy chỉ là loại văn chương xoàng xĩnh mà thôi. Tuy vậy, do bị chi phối bởi tâm trạng bi quan, bi phẫn và tư tưởng định mệnh chủ nghĩa cho nên cái nhìn của Vũ Trọng Phụng về hiện thực nhiều khi lệch lạc, thậm chí là cực đoan, dẫn đến thế giới quan hay chính là quan điểm nghệ thuật của ông có những biểu hiện sai lầm, thiếu nhất quán. Nhất là trong cách nhìn của ông về con người là rất nghiệt ngã, chỉ toàn người xấu: “Riêng tôi, xã hội này tôi chỉ thấy là khốn nạn, quan lại tham nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, một tụi văn sĩ đầu cơ xảo quyệt”. Công bằng mà nói thì trong thế giới quan của Vũ Trọng Phụng, mặc dù thống nhất trong khuynh hướng “tả chân”, nhưng tư tưởng của ông cũng có chông chênh dao động, cái nhìn về xã hội, về con người có phần đen tối. Song những hạn chế ẩy cũng không làm mờ nhạt được một cây bút sắc sảo, tài năng, một người có quan điểm hết sức tiến bộ và dũng cảm, dám nhìn thẳng vào hiện thực xã hội để phản ánh nó một cách sinh động, chân thực, cho dù xã hội ấy là thối nát, dơ dáy. Sự nghiệp sáng tác Vũ Trọng Phụng là nhà văn “Tài danh bạc mệnh”, sự ra đi của ông đúng vào lúc tài năng đang ở độ chín nhất, để lại niềm thương tiếc vô hạn cho nhiều đồng nghiệp cũng như nhiều độc giả. Mặc dù sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng diễn ra vẻn vẹn chưa đầy một thập kỉ, nhưng ông đã để lại cho hậu thế một di sản văn học đồ sộ, trong đó có nhiều sáng tác xuất sắc. Nhận định về văn chương Vũ Trọng Phụng, nhà nghiên cứu phê bình văn học Vũ Tuấn Anh cho rằng: “Ông là một hiện tượng văn chương đặc biệt. Đặc biệt trong tính độc sáng của nó, đặc biệt trong sự không thể trộn lẫn với ai trong cả cuộc đời và văn nghiệp. Và mượn cách nói của ông khi phê bình Tắt đèn: Ông là một hiện tượng đặc biệt tùng lai chưa từng thấy. Những năm 30, cụ thể hơn là giai đoạn 1932-1939 có thể coi là một thời kỳ ngắn, đặc biệt là sự chín muồi và hoàn thiện đồng loạt các thể loại văn học hiện đại, với những tác phẩm đỉnh cao và những tên tuổi lớn trong làng văn. Khởi đầu và kết thúc sự nghiệp văn học ngắn ngủi của Vũ Trọng Phụng gần như nằm trọn trong khoảng thời gian này.” Trong khoảng thời gian Vũ Trọng Phụng sáng tác, xã hội Việt Nam có nhiều sóng gió, nhiều biến động sâu sắc, tác động mạnh mẽ để nhịp độ phát triển văn học. Nhìn một cách tổng quát thì quá trình sáng tác của Vũ trọng Phụng có thể chia làm 3 chặng đường sáng tác: - Chặng đường thứ nhất: Từ năm 1930 đến năm 1935 - Chặng đường thứ hai: Từ năm 1935 đến năm 1936 - Chặng đường thứ ba: Từ năm 1936 đến tháng 10 năm 1939 Chặng thứ nhất: Từ năm 1930 đến năm 1935 Vũ Trọng Phụng có sáng tác đăng báo từ những năm 1930. Qua những lời kể sơ sài của Tam Lang (“Hoài niệm về Vũ Trọng Phụng” – Tao đàn, số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng) và của Thiều Quang (“Tập san phê bình” số đặc biệt trên Ngọ báo khoảng năm 1930) thì ngòi bút Vũ Trọng Phụng đã có khuynh hướng tả chân rõ rệt. “Tả chân” ở đề tài, vạch ra những chuyện dơ dáy của xã hội; nhất là lối văn “lại tả một cách bạo hơn nữa, bạo đến sỗ sàng” (Tam Lang - Bài đã dẫn). Năm 1931, Vũ Trọng Phụng cho ra mắt vở kịch Không một tiếng vang. Tác phẩm này có thể được coi là cột mốc đánh dấu sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng một cách chính thức, qua tác phẩm ông đã khẳng định mình là một cây bút hiện thực phê phán. Vũ Trọng Phụng chỉ thực sự nổi tiếng từ những thiên phóng sự Cạm bẫy người (Đăng trên báo Nhật Tân, 1933) và Kĩ nghệ lấy Tây (Đăng trên báo Nhật Tân từ số 69, ngày 05/12/1934). Cũng năm 1934, Vũ Trọng Phụng cho đăng tiểu thuyết Dứt tình trên Hải Phòng tuần báo. Câu chuyện tình lãng mạn diễn ra trên bãi biển, phòng khách này không hợp lắm với ngòi bút “tả chân” của nhà văn, nó chỉ chứng tỏ sức hấp dẫn mạnh mẽ của trào lưu lãng mạn khi đó đối với ông. Tựu chung lại, những sáng tác của Vũ Trọng Phụng thời kì này có mấy đặc điểm nổi bật: Trước hết, đó là khuynh hướng “tả chân” và tố cáo xã hội, thể hiện rõ trong phần lớn các tác phẩm. Hơn hẳn các nhà văn trước năm 1930, Vũ Trọng Phụng đã táo bạo, xông xáo trong việc “lật mặt trái” dơ dáy của xã hội thuộc địa thối nát khi đó. Ngay từ sớm ông đã thể hiện mình là kẻ thù không đội trời chung của xã hội đồng tiền. Giá trị hiện thực chủ yếu của sáng tác Vũ Trọng Phụng thời kì này phần nào phản ánh được tình trạng bần cùng, phá sản, lưu manh hóa của tầng lớp tiểu tư sản, dân nghèo thành thị và nông dân trong những năm khủng hoảng kinh tế, tình trạng giàu - nghèo bất công và những tệ nạn trong xã hội thành thị đương thời. Qua đó ông bày tỏ thái độ ghê gớm đến thói lừa lọc, đểu giả, bất nhân, chà đạp lên chuẩn mực đạo đức, lên luân thường đạo lí, chỉ biết đến tiền và nhục dục. Tuy vậy, thời kì này Vũ Trọng Phụng cũng bộc lộ nhiều mặt yếu. Đó là phạm vi phản ánh còn hẹp, đối tượng phản ánh chủ yếu là đám lưu manh và dân nghèo ở thành thị; chưa đi vào đề tài hiện thực rộng lớn, điển hình, chiều sâu của sự phản ánh cũng như tình cảm của nhà văn còn hạn chế. Nhà văn lên án sự bất công, thối nát của xã hội, song chưa nhìn rõ mối mâu thuẫn giai cấp và nguyên nhân sâu xa của những tệ nạn xã hội như lưu manh, mại dâm Những lời kết án đồng tiền tuy đanh thép nhưng chưa chỉ ra được nguyên nhân căn bản khiến đồng tiền lũng đoạn xã hội là do thế lực sử dụng đồng tiền. Sáng tác Vũ Trọng Phụng thời kì này còn có những mâu thuẫn. Trong khi phơi bày những ung nhọt của xã hội, phản ánh cuộc sống khốn khổ của người nghèo, những nạn nhân của xã hội, ngòi bút Vũ Trọng Phụng rơi vào chủ nghĩa tự nhiên lạnh lùng và có thái độ miệt thị đối với họ. Lối viết của Vũ Trọng Phụng vẫn còn sống sượng hay đề cập đến cái dâm của con người như loài động vật. Cũng trong thời kì này, tư tưởng bi quan định mệnh bắt đầu chi phối đến sáng tác của Vũ Trọng Phụng, mặc dù nó chưa thực sự đậm nét và phổ biến. Chỉ trong Dứt tình, tư tưởng này mới trở thành tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Chặng đường thứ hai: Từ năm 1935 đến năm 1936 Đây là giai đoạn sáng tác ngắn nhất, song dồi dào và đạt tới đỉnh cao nhất trong sự nghiệp văn học của Vũ Trọng Phụng. Đây thời kì mà tài năng của Vũ Trọng Phụng nở rộ hơn cả. Bằng sức lao động nghệ thuật không biết mệt mỏi, Vũ Trọng Phụng đã viết nên nhiều kiệt tác. Trên tuần báo Công dân số 1, ra ngày 25 tháng 9 năm 1935, ông bắt đầu cho đăng phóng sự Dân biểu và dân biểu. Tiếp đó trên Hà Nội báo số ra đầu tiên ngày 01 tháng 01 năm 1936, ông bắt đầu cho ra mắt tiểu thuyết Giông tố. Cũng trên Hà Nội báo, ông lần lượt đăng phóng sự Cơm thầy cơm cô (từ số 12, ra ngày 25 tháng 3 năm 1936), Số đỏ (tiểu thuyết hoạt kê, từ số 40, ra ngày 07 tháng 10 năm 1936) và một loạt truyện ngắn (Giấc mơ ngày Tết, Tết ăn mày, Lỡ lời, Bộ răng vàng, Con người điêu trá, Hồ sê líu hồ líu sê sàng). Trong khi đó, trên tờ Tương lai Vũ Trọng Phụng cho đăng tiểu thuyết Vỡ đê (từ tháng 7 năm 1936) và nhiều bài bút chiến. Trên tờ Sông Hương ông cho đăng tiểu thuyết Làm đĩ cũng trong năm 1936. Thời kì này, không khí sinh hoạt chính trị náo nhiệt hào hứng khi bước vào thời kì Mặt trận dân chủ đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến ngòi bút của Vũ Trọng Phụng, vốn đã được tích lũy và rèn luyện ở thời kì trước, để bước vào thời kì sung sức nhất khiến ông có thể phát huy cao nhất những mặt tích cực, sở trường và đạt được những thà