Tóm tắt
Thiêng hóa môi trường tự nhiên đã xuất hiện từ lâu trong văn hóa tín ngưỡng của hầu hết các dân
tộc trên thế giới. Thuyết vạn vật hữu linh của Edward Burnett Tylor đã cho thấy ý nghĩa sâu sắc trong
quan niệm của con người từ thời nguyên thủy về thế giới tự nhiên tồn tại xung quanh họ thông qua
những hoạt động văn hóa tín ngưỡng. Ở Việt Nam, chúng ta cũng bắt gặp hiện tượng thiêng hóa môi
trường tự nhiên trong văn hóa tín ngưỡng của nhân dân xuất hiện từ xa xưa và khá phổ biến. Xem xét,
nghiên cứu về nó có thể giúp chúng ta thấy được sâu sắc hơn quan niệm về vũ trụ luận phương Đông
trong dòng chảy lịch sử, văn hóa truyền thống Việt Nam.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 253 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thiêng hóa môi trường tự nhiên trong văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
27Số 30 (Tháng 12 - 2019)
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
THIÊNG HÓA MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN
TRONG VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM
TRẦN QUỐC TUẤN
Tóm tắt
Thiêng hóa môi trường tự nhiên đã xuất hiện từ lâu trong văn hóa tín ngưỡng của hầu hết các dân
tộc trên thế giới. Thuyết vạn vật hữu linh của Edward Burnett Tylor đã cho thấy ý nghĩa sâu sắc trong
quan niệm của con người từ thời nguyên thủy về thế giới tự nhiên tồn tại xung quanh họ thông qua
những hoạt động văn hóa tín ngưỡng. Ở Việt Nam, chúng ta cũng bắt gặp hiện tượng thiêng hóa môi
trường tự nhiên trong văn hóa tín ngưỡng của nhân dân xuất hiện từ xa xưa và khá phổ biến. Xem xét,
nghiên cứu về nó có thể giúp chúng ta thấy được sâu sắc hơn quan niệm về vũ trụ luận phương Đông
trong dòng chảy lịch sử, văn hóa truyền thống Việt Nam.
Từ khóa: Thiêng hóa, môi trường tự nhiên, văn hóa tín ngưỡng, tự nhiên thần
Abstract
The sacredize of the natural environment has been presented for a long time in the religious culture
of most ethnic groups in the world. The animist theory of Edward Burnett Tylor has shown the profound
meaning in the conception of people since primitive times about the natural world that exists around
them through cultural and religious activities. In Vietnam, we also encounter the phenomenon of
sacredize natural environment in the belief culture of the people, which has appeared since ancient
times and is quite common. Examining and researching on sacredize can help us to understand more
the concept of Eastern cosmology in the flow of Vietnamese history and traditional culture.
Keywords: Sacredize, natural environment, religious culture, natural god
T riết lý phương Đông truyền thống dựa trên học thuyết về âm dương, ngũ hành là sự khái quát về vũ trụ,
về sự tồn tại và phát triển của vạn vật trong tự
nhiên của người Á Đông, trong đó có Việt Nam,
đã có từ xa xưa. Nguồn gốc của vũ trụ và sự
tồn tại, vận hành, phát triển của vạn vật trong
vũ trụ được người Á Đông biểu hiện bằng mối
quan hệ vận động qua lại giữa 5 yếu tố là Kim
- Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Trong văn hóa truyền
thống Việt Nam, ảnh hưởng của triết lý âm
dương, ngũ hành được biểu hiện rất rõ trong
đời sống sinh hoạt, đặc biệt là trong đời sống
văn hóa tín ngưỡng của nhân dân. Hiện tượng
tôn thờ và sùng bái thiên nhiên gắn với triết
lý âm dương, ngũ hành của người Việt xuất
hiện khá phổ biến trong sinh hoạt văn hóa
tín ngưỡng. Các vị thần tự nhiên hiện lên với
những thuộc tính được gắn với quan niệm về
ngũ hành âm dương có thể nói là sự khác biệt
căn bản trong thực hành văn hóa tín ngưỡng
của người Việt với văn hóa tín ngưỡng thờ các
thần tự nhiên của các dân tộc khác thuộc nền
văn hóa phương Tây.
Số 30 (Tháng 12 - 2019)28
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
1. Thiêng hóa môi trường tự nhiên trong
văn hóa tín ngưỡng của một số dân tộc trên
thế giới
Trong quan niệm của người Việt và một số
dân tộc khác trên thế giới, mọi sự vật trong tự
nhiên có liên quan đến sự mưu sinh của con
người thì đều có linh hồn tựa như chính con
người. Lý thuyết này đã được nhà nghiên cứu
văn hóa người Anh - Edward Burnett Tylor
(1832 - 1917) phát kiến và gọi theo cách của
các nhà nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam hay
trên thế giới hiện nay là thuyết vạn vật hữu
linh (Animalism). Thuyết vạn vật hữu linh cho
thấy ý nghĩa sâu sắc trong quan niệm của con
người từ thời nguyên thủy về giới tự nhiên tồn
tại xung quanh họ. Niềm tin vào sự tồn tại linh
hồn của vạn vật, sự tồn tại của các thần thánh
trong cuộc sống đã thể hiện chặng đường
lịch sử tự nhiên trong quá trình tiến hoá của
con người. Điều muốn nói ở đây là con người
ngay từ thời xa xưa đã coi các thực thể tự nhiên
xung quanh họ đều là những thực thể “sống”,
bởi đều có linh hồn tồn tại bên trong các thực
thể đó. Một nguồn nước, một ngọn núi, một
cái cây, một viên đá, trong tự nhiên, theo
quan niệm của người từ xa xưa, đều là những
thực thể “sống” và biết suy nghĩ như con người.
Không những thế, chúng còn có quyền lực siêu
nhiên khiến con người phải kính nể, sợ hãi, và
như vậy, họ phải thờ phụng chúng.
Ngay từ thời cổ đại, trong tôn giáo của
người Ai Cập, việc sùng bái tự nhiên được biểu
hiện một cách rõ nét và chiếm một vị trí quan
trọng trong hệ thống tín ngưỡng về thần linh
của họ. Theo quan niệm của họ, các vị thần tự
nhiên này có thể can thiệp và có ảnh hưởng to
lớn đến sinh mệnh của con người. Vì vậy, mỗi
mô đất, ngọn núi, dòng sông, trong tâm
trí họ đều biến thành những thần thánh linh
thiêng như: Thiên thần Nut được hiện ra dưới
hình dạng là một người đàn bà hay một con
bò cái; địa thần Geb được hiện ra dưới hình
dạng là một người đàn ông; thủy thần Ôdirit
chính là thần sông Nin mang nước tưới tiêu
cho đồng ruộng tốt tươi. Trong tự nhiên, mặt
trời có thể coi là quan trọng nhất bởi nó là yếu
tố quyết định, khởi nguồn cho sự sống trên trái
đất, vì vậy đối với người Ai Cập cổ đại, thần mặt
trời Amon-Ra là vị thần tối cao, chúa tể của các
thần linh và tượng trưng cho quyền lực vô biên
của các vị vua ở Ai Cập (Pharaon).
Với người Hy Lạp cổ đại, vị thần tối cao
là vị thần mặt trời Helios. Vào năm 304 trước
Công nguyên, nhân dân đảo Rhodes1 đã giành
chiến thắng trong cuộc chiến tranh với người
Maxedonia, và họ tin rằng thần mặt trời Helios
đã phù hộ cho họ, vì vậy họ đã đúc tượng thần
mặt trời bằng đồng cao 36m - bức tượng cao
nhất thời bấy giờ để thờ phụng. Ngoài thần
mặt trời, người Hy Lạp cổ đại còn thờ thần mặt
trăng (Artemit) - vị thần của thiên nhiên hoang
dã và săn bắn.
Với người Lưỡng Hà cổ đại, thần mặt trời
(Samat) là vị thần bảo trợ pháp luật và tòa án;
thần địa ngục Nêgan là vị thần được hiện thân
trong hình hài một sinh vật kỳ dị, có sức mạnh
siêu nhiên; thần biển ngoài chức năng là vị
thần chúa tể của biển khơi còn là thần dạy cho
nhân dân biết nghề thủ công, nghệ thuật và
khoa học
Ở Australia, người dân bản địa thường tin
rằng trong lòng các núi lửa có những thần
linh (được họ gọi là Ingna) ngự trị, và những
vị thần này đã nhóm lửa từ dưới lòng đất, rồi
ném lên những hòn đá nung đỏ (nham thạch).
Trong thực tế, các ngọn núi lửa hoạt động đã
để lại những hậu quả và tác hại to lớn đến cuộc
sống mưu sinh của con người, chính vì vậy đã
diễn ra các nghi thức cúng tế để cầu xin thần
linh, thậm chí tục hiến sinh người và động vật
cho thần núi lửa cũng thấy xuất hiện ở các tộc
người khác nhau trên thế giới. Tylor đã dẫn
chứng về tục hiến sinh người cho thần Masaya
của người Nicaragua, khi lửa ở miệng các ngọn
29Số 30 (Tháng 12 - 2019)
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
núi bốc lên thì họ ném những thân thể người
được hiến tế vào miệng núi để cầu xin thần lửa
phù hộ không tiếp tục làm hại dân làng nữa
[1, tr.785].
Đối với nhiều dân tộc trên thế giới, các
dòng sông, suối, ao hồ cũng có những vị thần
linh ngự trị. Ở Australia, người dân bản địa cho
rằng những ma nước sống đầy các hồ và sông
suối. Có thể nói, không một loại thần thánh
nào lại đóng một vai trò quan trọng như ma
nước, nó trừng phạt tất cả những ai tắm ở các
nơi cấm, hay vào những giờ cấm và làm cho
phụ nữ phải bị hành hạ khắc nghiệt và bị chết.
Ở Mỹ, người da đỏ thường có tập tục hiến sinh
một con vật sống cho ma nước ở các sông, hồ
để cầu xin sự bình an, khỏi bệnh tật. Ở Đông
Phi, bộ lạc Wanika coi mỗi mạch nước đều có
những vị thần ngự trị và nhiệm vụ của họ là
phải mang lễ vật đến cúng tế mỗi khi thấy cần
thiết. Còn ở Bắc Âu, hầu hết các làng ở Estonia
đều có những thần suối của riêng mình để
cúng tế, thậm chí theo họ miêu tả lại thì họ còn
có thể nhìn thấy những con ma nước mang
bít tất xanh và vàng đi ra từ con suối thiêng
Wohhanda, và chắc chắn đó là những con ma
suối mà ngày xưa họ thường mang thú vật và
trẻ nhỏ để hiến tế [1, tr.786-787].
2. Thiêng hóa môi trường tự nhiên trong
văn hóa tín ngưỡng Việt Nam
Cũng như một số dân tộc trên thế giới, trong
lịch sử văn hóa Việt Nam, không khó tìm thấy
những dấu ấn về hiện tượng thiêng hóa môi
trường tự nhiên trong kho tàng văn hóa của
54 dân tộc. Tuy nhiên, tục thờ các vị thần tự
nhiên trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt
thường theo chiều hướng được phân loại theo
triết lý âm dương ngũ hành, thể hiện rõ quan
niệm về vũ trụ luận của người phương Đông.
Việc thiêng hóa môi trường tự nhiên đầu
tiên mà ta có thể nói tới trong hệ thống tín
ngưỡng thờ thần của người Việt đó là sự xuất
hiện của các vị thần núi. Chúng ta có thể bắt
gặp hiện tượng ở nhiều địa phương có địa
hình địa lý gắn liền với các dãy núi, ngọn núi,
nhân dân ở đó thường có những sinh hoạt văn
hóa mang tính tín ngưỡng thờ cúng sơn thần.
Trong số tất cả các vị thần núi trong hệ thống
tín ngưỡng dân gian của người Việt, Tản Viên
Sơn Thánh là một vị sơn thần xuất hiện khá
sớm và là một trong “Tứ bất tử” trong hệ thống
tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Trong tâm thức
dân gian, Tản Viên Sơn Thánh là vị linh thần
biểu tượng cho tinh thần và sức mạnh to lớn
của nhân dân trong công cuộc lao động, làm
ăn và chiến đấu chống thiên tai (lũ lụt) để bảo
vệ cuộc sống. Trong Việt điện u linh của Lý Tế
Xuyên thời nhà Trần, thần núi Tản Viên đã hiện
lên với huyền thoại chiến thắng Thủy Tinh và
lấy được Mỵ Nương con vua Hùng. Đời vua
Trần Nhân Tông niên hiệu Trùng Hưng năm
thứ nhất, ông được sắc phong là Hựu Thánh
Khuông quốc Hiển ứng vương. Còn theo Lĩnh
Nam chích quái của Vũ Quỳnh thời Hậu Lê thì
thần núi Tản Viên xuất hiện vào thời vua Hùng
thứ mười tám với tên gọi Sơn Tinh, đã được
làm rể khi lấy Mỵ Nương, cùng với vua Hùng
chiến đấu anh dũng ngoan cường và chiến
thắng vẻ vang trong công cuộc chống lại Thủy
Tinh. Hơn nữa, theo truyện thì Sơn Tinh còn
được cho là một trong năm mươi người con
trai theo cha xuống biển trong truyền thuyết
lịch sử Lạc Long Quân và Âu Cơ, rồi từ biển mà
ngược lên vùng núi mà làm vua nước Việt.
Cũng trong Việt điện u linh, một vị sơn thần
khá tiêu biểu nữa xuất hiện, đó là thần Đồng
Cổ với vai trò giúp các đấng quân vương, mà
cụ thể ở đây là vua Lý Thái Tông trong công
cuộc kiến tạo quốc gia của mình. Truyện Tản
Viên Hựu Thánh Khuông quốc Hiển ứng vương
trong Việt điện u linh kể rằng: Lý Thái Tông
đương khi còn là Thái tử, năm 1020 mang
quân đi đánh Chiêm Thành đã nằm mơ thấy
một dị nhân thân cao tám thước, mày râu cứng
nhọn, mặc chiến bào, tay cầm binh khí đến
Số 30 (Tháng 12 - 2019)30
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
trước mặt tâu rằng: “Tôi là thần núi Đồng Cổ,
nghe tin Thái tử sang đánh phương Nam, tôi
xin theo giúp để phá giặc lập chút công nhỏ”,
trận ấy quả nhiên đại thắng. Sau này khi Lý
Thái Tổ mất, các em của vua có âm mưu phản
trắc muốn giành ngôi báu, một lần nữa thần
Đồng Cổ lại giúp Lý Thái Tông phòng ngừa họa
hạn, vì vậy thần được Lý Thái Tông phong là
Thiên hạ minh chủ gia, tước Đại vương. Sách
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, một ngày
trước khi các em vua (các vương) định làm
phản, vua chiêm bao thấy một người tự xưng
là thần núi Đồng Cổ nói với mình về việc ba
vương Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh làm
loạn, bảo vua phải diệt trừ ngay đi. Sau khi tỉnh
giấc, vua sai phòng bị như lời thần dặn thì quả
nhiên ứng nghiệm. Sau khi dẹp yên được các
bè đảng làm phản, Lý Thái Tông đã cho dựng
miếu ở bên hữu thành Đại La, phía sau chùa
Thánh Thọ2 để hàng năm cúng tế và coi thần
như một vị minh thần có sức mạnh siêu nhiên,
có thể ra những hình phạt, trừng trị những
người “làm con bất hiếu, làm tôi bất trung” [3,
tr.277-279].
Trong tâm trí của người Việt, ở những ngọn
núi cũng có các đấng thần linh ngự trị. Các vị
sơn thần hầu hết xuất hiện ở các địa phương
có địa hình nhiều núi, đồi, hoặc có địa hình
bằng phẳng xen kẽ đồi núi cao như Hà Tây, Sơn
Tây (nay thuộc Hà Nội), Thanh Hóa, Nghệ An...
Hệ thống sơn thần của người Việt khá phong
phú, tiêu biểu như thần núi Mẫu Sơn (Lạng
Sơn), thần núi Tam Đảo (Vĩnh Phúc), thần núi
Chè (Bắc Ninh), thần núi Sam, thần núi Cấm
(An Giang)
Trên núi có các sơn thần, dưới nước thì có
các thủy thần. Vị thần đầu tiên xuất hiện trong
hệ thống tín ngưỡng Thành hoàng ở Việt Nam
là một thủy thần, đó là thần sông Tô Lịch. Ở
vị thần này toát lên những giá trị tinh thần,
tinh hoa cốt cách của văn hóa truyền thống
dân tộc. Trong Việt Điện u linh có miêu tả: Đời
Đường Mục Tông, niên hiệu Trường Khánh
năm thứ 3 (823), Lý Nguyên Gia là quan đô
hộ của nhà Đường ở nước ta, khi đi xem thế
đất thành Long Biên xưa đã cho dựng đền thờ
thần Tô Lịch làm Thành hoàng của vùng đất
này. Khi dựng xong đền, Lý Nguyên Gia được
Thần báo mộng khuyên bảo cách trị dân và
trách nhiệm của người làm quan, Lý Nguyên
Gia cảm phục và xin được nghe theo. Các đời
sau, vua quan đều tôn thần làm Thành hoàng
linh thiêng của vùng. Khi Cao Biền làm Tĩnh Hải
quân tiết độ sứ ở nước ta (866 - 875), cho xây
thành Đại La, nghe được tiếng thần rất là linh
thiêng, mới cho sắm lễ vật để cúng tế và tôn
thần là Đô phủ Thành hoàng Thần quân. Đến
thời vua Lý Thái Tổ, khi cho thiên đô về thường
nằm mơ thấy một vị thần đi qua trước cung
vua vái lạy và hô “vạn tuế”. Vua bèn hỏi rõ ngọn
ngành xuất thân của thần và khi tỉnh giấc, vua
sai các quan trong triều đến đền để tế lễ và
phong thần làm “Quốc đô Thăng Long Thành
hoàng Đại vương” [6, tr.69-71].
Cũng có nội dung tương tự về thần sông
Tô Lịch nhưng trong sách Lĩnh Nam chích quái
của Vũ Quỳnh, thần sông Tô Lịch lại hiện lên
với vẻ đầy khí phách hồn thiêng sông núi Việt
thông qua sự đối đáp rất đỗi hùng hồn với
Cao Biền. Sách miêu tả: Cao Biền khi đến nước
ta đã cho trấn yểm sông Tô Lịch nhưng đã bị
thần cảnh cáo thông qua việc báo mộng rằng:
“Đêm qua, vì ngài quá kiêu ngạo, nên ta đùa
một chút thôi. Nay nghe ngài dự tính yểm ta.
Ta đây chính là tinh hoa của Long Đỗ, hào kiệt
của đất thiêng, vốn vâng mệnh Trời đến trấn
ngự nơi đây, cho đến nay đã lâu đời. Ngài nên
biết tự xét mình, để khỏi hối về sau”. Sau đó
Cao Biền đã lấy hàng vạn cân vàng bạc, sắt,
đồng lập đàn, làm bùa, làm phép để trấn yểm
nhưng ngay đêm ấy mưa to, gió lớn và sấm
sét ầm ầm đánh vào những nơi yểm trấn của
Biền, làm chúng tan thành mây khói, trôi bạt
hết cả ra sông và lấp bằng thế đất lại như cũ.
31Số 30 (Tháng 12 - 2019)
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Biền bèn than rằng: “Khí vượng Viêm Bang như
vậy, ta không thể ở lâu được, có thể nguy, bèn
dâng biểu xin được thay thế. Khi hắn về đi trấn
ngự ở Thục Xuyên, thì bị thủ hạ hắn giết” [4,
tr.171-179].
Các vị thủy thần hầu hết xuất hiện ở các địa
phương có nhiều ao, hồ, sông, suối và những
nơi tiếp giáp gần với biển như Hải Phòng, Thái
Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An
Diện mạo các thủy thần trong hệ thống tín
ngưỡng dân gian Việt Nam cũng khá đa dạng
và phong phú. Lúc đầu các vị thủy thần xuất
hiện dưới dạng là các thần sông, thần suối,
thần biển, thần ao, hồ, sau đó hệ thống
này ngày càng được phát triển mở rộng theo
đà nhân hóa và trở thành các vị thần có tên
tuổi, gốc tích rõ ràng như: Đông Hải Đại vương
Đoàn Thượng, Bát Hải Đại vương, Thánh Tam
Giang Trương Hống - Trương Hát, Nam Hải Đại
Vương Phạm Tử Nghi, Tứ vị Thánh nương
Ngoài sơn thần, thủy thần, trong hệ thống
các thần tự nhiên của người Việt còn có cả một
hệ thống thổ thần (thần đất/thần thổ địa). Một
trong những thần thổ địa trong hệ thống tín
ngưỡng dân gian người Việt xuất hiện khá
sớm đó là thần Thổ Lệnh ở xứ Giao Châu thế
kỷ VII. Thời Vĩnh Huy (650 - 655) nhà Đường, có
nhân vật Lý Thường Minh được cử làm đô đốc
Phong Châu, đến vùng đất này thấy thế đất
đẹp, mạch dồn ở chỗ ngã ba sông Bạch Đằng
và sông Bạch Hạc, mới cho dựng một quán
Thông Thánh ở Bạch Hạc, sau đó ông đã cho
người đắp một tượng thần Hộ quán. Tượng
đắp xong, Lý Thường Minh đốt hương khấn
rằng: “Ở đây vị thần nào thiêng, xin báo mộng
cho biết, được như hình trạng pho tượng đã tô,
mới thỏa lòng kẻ ngu này”. Đêm hôm ấy, ông
nằm mộng thấy hai dị nhân hiện lên, một xưng
là Thổ Lệnh (thần đất) và một xưng là Thạch
Khanh (thần đá) đến tiếp kiến. Sau đó là một
cuộc thi tài giữa thần đất và thần đá để giành
quyền được vào ở ngôi đền phía trước quán,
cuối cùng phần thắng đã thuộc về thần Thổ
Lệnh với tài nghệ pháp thuật cao hơn. Nhân
dân trong vùng về sau thường đến đền cầu
khấn và đều được linh ứng. Thần Thổ Lệnh đã
được nhân dân địa phương tôn là phúc thần,
quanh năm thờ phụng, nhang khói [6, tr.112-
113].
Thời Khai Nguyên (713 - 739) nhà Đường,
khi ấy nước ta vẫn bị đô hộ bởi thế lực phương
Bắc. Thứ sử Quảng Châu là Lư Ngư giữ trọng
trách cai quản xứ Giao Châu, với ý đồ đồng
hóa người Việt bản địa, khi đến đây đã chọn
chỗ đất có phong cảnh đẹp, địa hình thuận
lợi là thôn An Viễn3 nằm giữa hai huyện Long
Đỗ và Từ Liêm, cho xây dựng đền thờ sống
vua Đường Huyền Tông với niên hiệu Khai
Nguyên, đồng thời cũng cho dựng tượng thần
thổ địa để phối thờ. Việc làm của Lư Ngư được
hiểu là sự truyền bá tư tưởng thần phục người
Việt đối với người phương Bắc bằng việc lồng
ghép thờ vua của họ với một vị thần thổ địa
của người Việt. Lư Ngư đã chọn vị thổ thần
chứ không phải là một vị thần nào khác để thờ
cùng với vua Khai Nguyên nhà Đường, điều
đó đã chứng tỏ tín ngưỡng thờ thổ thần của
người dân bản địa rất sâu sắc thời kỳ này [6,
tr.101-102].
Cũng thời nhà Đường, đời vua Đường Ý
Tông (860 - 873), Cao Biền được vua Đường
giao giữ chức Tiết độ sứ, sang Giao Châu thay
thế Trương Điệp đánh quân Nam Chiếu xâm
lược. Vốn là người thích đạo thuật, trấn yểm,
khi tiến đánh quân Nam Chiếu, Cao Biền đã cho
dựng đền tế lễ thần thổ địa ở đây để cầu mong
thần giúp đánh thắng giặc nhanh chóng. Sách
Việt điện u linh có ghi rằng: “Biền vốn thích đạo
thuật, dựng chấn xong liền dựng đàn tế lễ cầu
thần giúp. Canh ba đêm ấy, nghe trên không
có tiếng thần nói:
Nhược yếu thành quan sự,
Tu sách đạo đức nhân.
Năng phủ giai phục chính,
Nghịch đẳng tất lai tân.
Số 30 (Tháng 12 - 2019)32
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Dịch là:
Muốn làm nên việc công,
Phải tìm nguồn đạo đức.
Nếu khiến đều trở lại chính đạo,
Bọn nghịch tặc sẽ phục theo hết.
Biền mừng lắm, liền dựng Đạo cung, đặt
làm cung đô hộ, lại làm đền ở bên tả cung
ấy thờ thần thổ địa. Về sau dân thờ làm phúc
thần” [6, tr.114-115].
Hẳn Cao Biền thời đó cũng đã áp dụng
phương cách của các nhà cầm quân thời xưa,
thường hay mượn chuyện quỷ thần để làm
quân, dân tin tưởng nhằm thống nhất ý chí
trước khi ra trận - một điều tối quan trọng
quyết định sự thắng bại trong các trận đánh.
Nhưng điều đáng nói ở đây là Cao Biền một
lần nữa chọn một vị thổ thần để làm lá bùa hộ
mệnh cho mình, qua đó cho thấy các vị nhiên
thần nói chung và thổ thần nói riêng có vai trò
rất quan trọng trong văn hóa tín ngưỡng của
con người thời đó.
Đến thời tiền Lê, nổi lên hình ảnh một vị thổ
thần có vai trò rất to lớn trong việc bình thiên
hạ của các bậc đế vương, đó là thần thổ địa
ở Đằng Châu (Hưng Yên ngày nay). Thần thổ
địa Đằng Châu đã chinh phục được cả những
bậc đế vương bằng cách hóa phép làm mưa,
làm tạnh khi Lê Ngọa Triều (khi còn là Thái tử)
đi thuyền dạo chơi thực ấp ở nơi đây. Sau đó,
vị thổ thần này còn đưa ra lời khuyên cho Lê
Ngọa Triều giành ngôi vua từ tay người anh
ruột của mình là Lê Trung Tông. Khi lên làm
vua, Lê Ngọa Triều đã phong cho thần là Khai
Thiên Thành hoàng Đại vương [6, tr.109-111].
Tín ngưỡng thờ thổ thần còn ghi đậm trong
nhân gian cho tới ngày nay. Hình ảnh ông thần
thổ địa - thần tài ở các gia đình, đặc biệt ở
những nhà làm ăn buôn bán, đã quá rõ ràng.
Chúng ta có thể bắt gặp hiện tượng thờ thần
thổ địa - thần tài ở hầu hết các gia đình làm ăn
buôn bán với chiếc bàn thờ được đặt ở dưới
đất, ngay trước cửa đi vào. Tín ngưỡng thờ thần
tài bắt nguồn từ tín ngưỡng phồn thực trong
xã hội nông nghiệp xưa. Theo quan n