1. Mở đầu
Các đại lượng cơ học trong nhiều thí nghiệm cơ học đều thông qua mối quan
hệ giữa tọa độ của vật và thời gian. Để thực hiện các thí nghiệm này đòi hỏi phải có
thiết bị đánh dấu vị trí của vật theo thời gian. Hiện nay ở các trường phổ thông, có
những phương án đánh dấu vị trí của vật như: Cần rung điện nằm cố định; Thiết bị
đánh dấu tương tác từ gắn trên vật chuyển động; Thiết bị đánh tia lửa điện; Chụp
ảnh hoạt nghiệm; Cảm biến chuyển động.
Phương án sử dụng cần rung điện đặt nằm cố định có sai số đáng kể vì điện
áp dân dụng không ổn định ở 220V, vật liệu làm cần rung điện (lá thép), cuộn dây
nam châm từ đưa ra tần số rung không chính xác ở mức 50Hz. Hơn nữa, việc cần
rung điện đặt nguyên tại một vị trí và đánh dấu trên một băng giấy thực chất là
đánh dấu vị trí của vật trong chuyển động tương đối chứ không phải là ghi lại trực
tiếp vị trí của vật. Thiết bị đánh dấu tương tác từ gắn trên vật chuyển động khắc
phục được nhược điểm này, nhưng vẫn chỉ nghiên cứu được một số chuyển động của
vật trong mặt phẳng nằm ngang hoặc mặt phẳng nghiêng. Còn các chuyển động
như chuyển động rơi tự do, chuyển động ném ngang, hoặc những chuyển động phức
tạp của vật thể, tay, chân thì vẫn không khảo sát được.
Phương án sử dụng thiết bị đánh tia lửa điện có độ chính xác nhưng dễ gây
ra nguy hiểm cho người sử dụng trong thí nghiệm vật lí phổ thông.
Phương án chụp ảnh hoạt nghiệm tuy rất hiện đại và khảo sát được chuyển
động nhanh mà mắt thường không cảm nhận được, nhưng thiết bị đắt tiền, cồng
kềnh và cần đến kĩ thuật chụp ảnh cao, không phù hợp với thí nghiệm phổ thông.
Một trong những xu hướng dạy học hiện đại hiện nay là tăng cường việc giao
nhiệm vụ cho học sinh trong khảo sát những đối tượng, quá trình thực. Ví dụ trong
phần Động học, ngoài việc nghiên cứu chuyển động của những vật thể trong phòng
thí nghiệm, cần mở rộng thêm những đối tượng trong cuộc sống vào nội dung dạy
học, chẳng hạn như khảo sát quy luật chuyển động của bàn tay, bàn chân vận động
viên ở các môn thể thao như ném xa, bóng chuyền, bóng đá hoặc quy luật chuyển
động của người đi xe đạp, của người chạy bộ. Để xác định vị trí của các vật này,
người ta thường dùng cảm biến chuyển động có kết nối với máy vi tính. Những thiết
bị này đắt tiền và sử dụng khá phức tạp, chưa thực sự phù hợp với điều kiện dạy
học ở nước ta.
Từ những lí do trên, cần có một thiết bị đánh dấu vị trí vật để sử dụng không
chỉ trong phòng thí nghiệm mà cả những không gian rộng, có giá thành phù hợp với
điều kiện dạy học hiện nay.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 213 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thiết kế chế tạo thiết bị đánh dấu vị trí của vật chuyển động bằng đèn led để sử dụng trong dạy học phần Cơ học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Educational Sci. 2010, Vol. 55, No. 8, pp. 22-27
THIẾT KẾ CHẾ TẠO THIẾT BỊ ĐÁNH DẤU VỊ TRÍ
CỦA VẬT CHUYỂN ĐỘNG BẰNG ĐÈN LED
ĐỂ SỬ DỤNG TRONG DẠY HỌC PHẦN CƠ HỌC
Nguyễn Văn Biên
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
1. Mở đầu
Các đại lượng cơ học trong nhiều thí nghiệm cơ học đều thông qua mối quan
hệ giữa tọa độ của vật và thời gian. Để thực hiện các thí nghiệm này đòi hỏi phải có
thiết bị đánh dấu vị trí của vật theo thời gian. Hiện nay ở các trường phổ thông, có
những phương án đánh dấu vị trí của vật như: Cần rung điện nằm cố định; Thiết bị
đánh dấu tương tác từ gắn trên vật chuyển động; Thiết bị đánh tia lửa điện; Chụp
ảnh hoạt nghiệm; Cảm biến chuyển động.
Phương án sử dụng cần rung điện đặt nằm cố định có sai số đáng kể vì điện
áp dân dụng không ổn định ở 220V, vật liệu làm cần rung điện (lá thép), cuộn dây
nam châm từ đưa ra tần số rung không chính xác ở mức 50Hz. Hơn nữa, việc cần
rung điện đặt nguyên tại một vị trí và đánh dấu trên một băng giấy thực chất là
đánh dấu vị trí của vật trong chuyển động tương đối chứ không phải là ghi lại trực
tiếp vị trí của vật. Thiết bị đánh dấu tương tác từ gắn trên vật chuyển động khắc
phục được nhược điểm này, nhưng vẫn chỉ nghiên cứu được một số chuyển động của
vật trong mặt phẳng nằm ngang hoặc mặt phẳng nghiêng. Còn các chuyển động
như chuyển động rơi tự do, chuyển động ném ngang, hoặc những chuyển động phức
tạp của vật thể, tay, chân thì vẫn không khảo sát được.
Phương án sử dụng thiết bị đánh tia lửa điện có độ chính xác nhưng dễ gây
ra nguy hiểm cho người sử dụng trong thí nghiệm vật lí phổ thông.
Phương án chụp ảnh hoạt nghiệm tuy rất hiện đại và khảo sát được chuyển
động nhanh mà mắt thường không cảm nhận được, nhưng thiết bị đắt tiền, cồng
kềnh và cần đến kĩ thuật chụp ảnh cao, không phù hợp với thí nghiệm phổ thông.
Một trong những xu hướng dạy học hiện đại hiện nay là tăng cường việc giao
nhiệm vụ cho học sinh trong khảo sát những đối tượng, quá trình thực. Ví dụ trong
phần Động học, ngoài việc nghiên cứu chuyển động của những vật thể trong phòng
thí nghiệm, cần mở rộng thêm những đối tượng trong cuộc sống vào nội dung dạy
học, chẳng hạn như khảo sát quy luật chuyển động của bàn tay, bàn chân vận động
viên ở các môn thể thao như ném xa, bóng chuyền, bóng đá hoặc quy luật chuyển
22
Thiết kế chế tạo thiết bị đánh dấu vị trí của vật chuyển động...
động của người đi xe đạp, của người chạy bộ... Để xác định vị trí của các vật này,
người ta thường dùng cảm biến chuyển động có kết nối với máy vi tính. Những thiết
bị này đắt tiền và sử dụng khá phức tạp, chưa thực sự phù hợp với điều kiện dạy
học ở nước ta.
Từ những lí do trên, cần có một thiết bị đánh dấu vị trí vật để sử dụng không
chỉ trong phòng thí nghiệm mà cả những không gian rộng, có giá thành phù hợp với
điều kiện dạy học hiện nay.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu thiết kế, chế tạo thiết bị đánh dấu tọa độ của
vật theo thời gian hiển thị trên đèn LED điều khiển bằng
mạch sử dụng IC NE555
Từ những ưu, nhược điểm của những bộ thiết bị thí nghiệm đánh dấu vị trí
của vật chuyển động đã có như trên, chúng tôi đã xây dựng một thiết bị để đánh
dấu tọa độ của vật theo thời gian hiển thị trên đèn LED điều khiển bằng mạch sử
dụng IC NE555. Thiết bị này hoạt động theo nguyên tắc sau: Dùng IC NE555 điều
khiển một đèn LED cứ chiếu sáng 10 ms rồi lại dừng 10 ms liên tiếp nhau. Chụp
ảnh vật cần đánh dấu tọa độ có gắn đèn LED này bằng máy ảnh kĩ thuật số với
thời gian mở ống kính đủ lớn (khoảng 2 s) để ghi lại quá trình chuyển động của vật
trong thời gian đó.
Mạch tạo xung điều khiển đèn tắt, sáng liên tiếp trong thời gian 10 ms có
nguyên tắc hoạt động như Hình 1.
Hình 1. Mạch nguyên lí tạo
xung vuông dùng trong thiết bị
Trong mạch này, ta sử dụng IC NE555,
ở đó chân 2 được nối với chân 6 để cho chân
ngõ vào và chân giữ mức thềm (mức ngưỡng) có
chung điện áp phân cực. Chân 5 được nối với tụ
C2 xuống GND để lọc nhiễu tần số cao. Vì vậy,
tụ này thường có giá trị không lớn lắm, được
chọn vào khoảng từ 10 nF đến 1 µF. Chân 4 nối
nguồn Vcc vì không dùng chức năng Reset. Chân
7 là chân xả điện nên được nối giữa 2 điện trở
RA và RB làm đường nạp và xả điện cho tụ C1.
Khi được cấp nguồn Vcc, ở nửa chu kì đầu,
tụ C1 được nạp điện thông qua RA và RB. Thông
thường trong đoạn mạch dao động, ta có công
thức tính thời gian ngưng dẫn của Transistor là:
T = RC ln 2 = 0, 693RC.
Thời gian ngưng dẫn ở mức áp cao cũng là lúc tụ C1 được nạp dòng qua RA
23
Nguyễn Văn Biên
và RB. Hằng số thời gian nạp cũng chính là thời gian đèn LED không sáng:
Tn = 0, 693(RA +RB)C1.
Đồng thời RA và RB làm nhiệm vụ phân cực bên trong IC, lúc này mạch sẽ
tự dao động. Sau khi tụ C1 nạp đầy, ở nửa chu kì sau, tụ C1 phóng điện thông qua
RB vào chân 7. Thời gian ngưng dẫn ở mức áp thấp cũng là lúc tụ C2 xả dòng qua
RB. Hằng số thời gian xả cũng chính là thời gian đèn LED phát sáng:
Tx = 0, 693RBC1
Chân 7 nối với chân C của Transistor trong IC NE555, chân 1 nối với chân E
của Transistor, chân 3 nối với chân B của transistor trong IC NE555. Tụ C1 phóng
điện qua RB vào chân 7 DISCHARGE (chân C của Transistor trong IC NE555)
làm Transistor này kích mở tín hiệu ra chân 3 TRIGGER OUTPUT (chân B của
Transistor trong IC NE555) và Transistor phóng điện xuống chân 1 GND (chân E
của Transistor trong IC NE555). Như vậy, tín hiệu ở đầu ra chân 3 nối ra LED đã
được khuếch đại và điều khiển với chu kì là tổng thời gian nạp và thời gian xả (thời
gian nạp và thời gian xả không bằng nhau (Tn > Tx)):
T = Tn + Tx = 0, 693(RA + 2RB)C1.
Vậy, tần số ra của tín hiệu xung vuông là:
f =
1
T
=
1, 44
(RA + 2RB)C1
.
Như vậy, muốn thay đổi độ lớn của tần số dao động của mạch thì chỉ cần thay
đổi giá trị của RA, RB hoặc C1. Tuy nhiên, nếu chỉ thay đổi giá trị của RA hoặc RB
không thôi thì tần số f cũng như độ rộng xung (duty cycle) cũng bị thay đổi cùng
lúc. Muốn thay đổi tần số (giữ nguyên độ rộng xung) thì RA, RB phải được thay đổi
cùng lúc (cùng tăng hoặc cùng giảm một giá trị như nhau). Muốn thay đổi độ rộng
xung (giữ nguyên tần số) thì RA và RB phải được thay đổi cùng một lúc nhưng có
chiều ngược lại (khi RA tăng thì RB giảm cùng một giá trị như nhau).
Trong thực tế thiết kế mạch, để có dạng xung vuông đối xứng, có thể thực
hiện một trong hai phương pháp sau:
- Vì thời gian nạp và thời gian xả không bằng nhau (Tn > Tx) nên chọn giá
trị RA << RB. Lúc này sai số giữa thời gian nạp và thời gian xả xem như không
đáng kể.
- Chọn RA ≈ RB, sau đó mắc song song một điốt D phân cực thuận nạp cho
tụ không qua RB, còn khi xả điện thì điốt D bị phân cực ngược nên vẫn xả điện qua
RB.
24
Thiết kế chế tạo thiết bị đánh dấu vị trí của vật chuyển động...
Tuy nhiên, trong thực tế, điốt có nội trở, nên thời gian nạp qua RA và D vẫn
lớn hơn RB, nên để cho mạch thật đối xứng, người ta thường bổ sung thêm một điốt
D2 giống như điốt D1. Điốt D2 được mắc nối tiếp với RB để cho đường nạp và đường
xả điện hoàn toàn giống nhau. Giá trị RA và RB có thể có sai số, vì thế nên giảm trị
số của RA hoặc RB để cho độ rộng xung (duty cycle) đạt được 50%. Mạch trên dùng
thêm 2 điốt với D1 nối tiếp với RB và C1 (anot D1 nối C1, catot D1 nối RB), D2 nối
giữa chân 6 và chân 7 (nối song song RB và D1, anot D2 nối giữa RA và RB, catot D2
nối giữa C1 và D1) để Tn = Tx, đảm bảo có được xung vuông tại chân OUT 3 là đối
xứng. Sở dĩ có thêm 2 điốt tạo nên tác dụng như vậy là vì lúc nạp dòng chỉ qua RA
nhờ có điốt D2. Khi đó, thời gian nạp là Tn = t1 = 0, 693RAC1. Và khi tụ xả cũng
vậy, nhờ có D2 mà dòng xả chỉ qua RB và thời gian xả là Tx = t2 = 0, 693RBC1. Mà
do RA = RB chọn lúc thiết kế nên Tn = Tx.
Với các linh kiện có sẵn trên thị trường, chúng tôi đã lắp được mạch điều khiển
đèn LED với chu kì T = 20 ms (Hình 2A). Trong khoảng thời gian chu kì T ấy thì
đèn LED sáng 10 ms và tắt 10 ms. Tín hiệu được tạo ra từ mạch này có thể được
kiểm tra bằng dao động kí và được xác nhận với độ chính xác cao (Hình 2B).
Hình 2. (A) Đèn LED điều khiển bằng mạch sử dụng IC NE555
(B) Tín hiệu của mạch tạo xung vuông T = 20 ms trên dao động kí
2.2. Sử dụng thiết bị đánh dấu quỹ đạo chuyển động bằng đèn
LED trong một số thí nghiệm cơ học
Để sử dụng thiết bị này trong thí nghiệm, ta gắn thiết bị vào vật cần xác định
tọa độ vị trí theo thời gian. Đặt máy ảnh ở chế độ mở ống kính khoảng 2 s. Chụp
ảnh chuyển động của vật sao cho thời gian cần khảo sát nằm trong khoảng thời
gian mở ống kính. Với cách tiến hành như trên, chúng tôi đã tiến hành được các thí
nghiệm sau:
2.2.1. Thí nghiệm rơi tự do và đo gia tốc rơi tự do
Ta đặt cạnh vật rơi một thước 1 m, cho thiết bị đánh dấu quỹ đạo gắn trên
vật rơi, đặt máy ảnh với thời gian mở ống kính là 2 s. Kết quả chụp đưa ra hình
ảnh như trên Hình 3.
25
Nguyễn Văn Biên
Đầu mỗi vệt sáng này đến đầu
mỗi vệt sáng kia có chu kì T = 20
ms. Ảnh thu được có thể được in
ra phát cho học sinh tự đo quãng
đường vật đi được trong khoảng
thời gian liên tiếp bằng nhau 20 ms.
Từ đó, dựa vào dấu hiệu chứng tỏ
vật chuyển động nhanh dần đều:
Hiệu quãng đường vật đi được trong
thời gian bằng nhau là như nhau:
S1 − S2 = S3 − S2 = S4 − S3 = ∆s,
chứng tỏ rơi tự do là chuyển động
nhanh dần đều. Từ công thức
∆S = g.τ 2, ta tính được gia tốc
rơi tự do g.
Hình 3. Thí nghiệm
rơi tự do và đo g
2.2.2. Chuyển động nhanh dần đều trên máng nghiêng
Làm các bước khảo sát tương
tự như chuyển động rơi tự do.
Ta chứng minh được chuyển động
của một xe trên máng nghiêng là
chuyển động nhanh dần đều và
đo gia tốc a từ các công thức:
S1 − S2 = S3 − S2 = S4 − S3 = ∆s,
∆S = aτ 2,
Hình 4. Thí nghiệm chuyển động
nhanh dần đều trên máng nghiêng
2.2.3. Chuyển động của vật bị ném
Để khảo sát quy luật chuyển động của vật bị ném ta dùng chính thiết bị đã
chế tạo làm vật. Để tránh vật bị va chạm khi rơi, ta buộc vật với một sơi dây dài
nối với giá thí nghiệm sao cho khi vật chuyển động ném thì dây chùng, dây chỉ căng
ra để giữ vật không chạm đất.
Đặt vật trên mép bàn rồi đẩy vật chuyển động theo phương ngang sao cho
đèn LED luôn hướng về phía máy quay. Đèn LED được thiết kế nằm ở vị trí thích
hợp sao cho khi đèn quay trong mặt phẳng song song với bảng chứa linh kiện thì
đèn LED chỉ tự quay quanh trục của nó. Do đó, trong quá trình chuyển động ném
có thể coi quỹ đạo của đèn LED chính là quỹ đạo của trọng tâm của vật.
Đứng cách vật khoảng 3 m và hướng ống kính vuông góc với mặt phẳng quỹ
đạo chuyển động của vật bị ném rồi chụp chuyển động ném của vật với thời gian
mở ống kính là 2 s.
Nếu mặt bàn được đặt nằm trong mặt phẳng nằm ngang ta thu được quỹ đạo
của vật bị ném ngang (Hình 5A) còn nếu đèn được đặt nằm nghiêng thì ta sẽ thu
26
Thiết kế chế tạo thiết bị đánh dấu vị trí của vật chuyển động...
được quỹ đạo chuyển động của vật bị ném xiên (Hình 5B).
Hình 5. (A) Quỹ đạo của vật bị ném ngang;
(B) Quỹ đạo của vật bị ném xiên
3. Kết luận
Mạch dao động tự kích tạo xung vuông với chu kì 20 ms dùng IC NE555 hiển
thị trên đèn LED là một thiết bị đơn giản, giá thành thấp, được sử dụng với máy
ảnh kĩ thuật số rất phổ biến hiện nay, có thể đánh dấu mọi quỹ đạo chuyển động
của vật và cho phép đo chính xác thời gian và quãng đường mà vật đi được trên quỹ
đạo. Từ đó ta có thể khảo sát các tính chất chuyển động của vật.
Phát triển hướng nghiên cứu này, chúng ta có thể sử dụng thiết bị đã chế tạo
để khảo sát dao động, chuyển động tròn và một số loại chuyển động phức tạp khác
như của tay, chân người khi thực hiện các thao tác ném, đá bóng trong thể thao hay
các chuyển động trong đời sống. Việc khảo sát những chuyển động trong thể thao
cũng như trong đời sống hàng ngày có thể được dùng trong dạy học theo dự án và
dạy học định hướng bối cảnh cụ thể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Kanwal Singh, 2000. Flight of the bagel. Phys, Teach. 38, pp.432-433.
[2] Walter Connolly and John Olson, 1992. Apparatus for teaching physics: An
easier way to measure g with a spark timer. Phys, Teach. 30, pp.188-189.
ABSTRACT
Study using a flashing LED to build apparatus for teaching Physics:
Another way to determine positions of moving bodies
at their corresponding time
In Physics laboratories we often use spark timers to determine positions of
moving bodies at their corresponding time. In this paper we use a flashing LED to
build apparatus for measuring velocity and acceleration of moving objects. We can
use this apparatus to do some experiments, such as: measurement of the accelera-
tion of gravity, demonstration experiments appertaining to momentum conservation
principles. . .
27