TÓM TẮT
Thời gian nghệ thuật – không gian nghệ thuật trong Thánh Tông di thảo là một
phương tiện vừa thể hiện nội dung, vừa thể hiện bút pháp nghệ thuật độc đáo của tác giả.
Thời gian nghệ thuật được xây dựng ở hai kiểu: thời gian tự nhiên và thời gian siêu tự
nhiên. Không gian nghệ thuật được miêu tả gồm không gian thực và không gian huyền ảo.
Sự đa dạng và đan xen giữa thời gian và không gian trong tác phẩm tạo nên một thế giới
nghệ thuật sinh động, hấp dẫn.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 261 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thời gian – không gian nghệ thuật trong Thánh tông di thảo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 - Thaùng 6/2011
19
THỜI GIAN – KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
TRONG THÁNH TÔNG DI THẢO
ĐẶNG THỊ KHÁNH VÂN (*)
TÓM TẮT
Thời gian nghệ thuật – không gian nghệ thuật trong Thánh Tông di thảo là một
phương tiện vừa thể hiện nội dung, vừa thể hiện bút pháp nghệ thuật độc đáo của tác giả.
Thời gian nghệ thuật được xây dựng ở hai kiểu: thời gian tự nhiên và thời gian siêu tự
nhiên. Không gian nghệ thuật được miêu tả gồm không gian thực và không gian huyền ảo.
Sự đa dạng và đan xen giữa thời gian và không gian trong tác phẩm tạo nên một thế giới
nghệ thuật sinh động, hấp dẫn.
ABSTRACT
Time and space in Thanh Tong’s Works (Thanh Tong Di Thao) is an artistic means
showing the content and original style of writing of the writer.
In this masterpiece, time can be seen as both natural and supernatural and space as
both real and visionary. The diversity and interlacement of time and space in the writings
have created a lively and attractive world of art.
(*)
1. Lê Thánh Tông để lại một lượng
tác phẩm khá đồ sộ, được viết bằng cả chữ
Hán và chữ Nôm với nhiều thể loại khác
nhau. Tác phẩm văn xuôi tiêu biểu của ông
là tập Thánh Tông di thảo gồm 19 truyện (1)
(Căn cứ vào nội dung, bút pháp, và các địa
danh trong tập truyện, một số nhà nghiên
cứu cho rằng có truyện không phải do Lê
Thánh Tông viết (2)). Đây là tập truyện
truyền kì xuất sắc nhất trước Truyền kì mạn
lục của Nguyễn Dữ. Có thể thấy trong rất
nhiều phương diện thành công về thi pháp
tập truyện, không gian - thời gian là một
phương diện nổi bật. Không gian, thời gian
ở đây, “vừa là phương diện của đề tài, vừa là
một trong những nguyên tắc cơ bản để tổ
chức tác phẩm” (3). Thời gian – không gian
trong Thánh Tông di thảo được tác giả xây
(*) ThS, Trường THPT Thiên Hộ Dương, Cao Lãnh,
Đồng Tháp
dựng như một phương tiện để thể hiện ý đồ
nghệ thuật. Thời gian – không gian qua
cách thể hiện của tác giả vừa góp phần thể
hiện nội dung tác phẩm, vừa thể hiện bút
pháp nghệ thuật của tác giả.
2. Thời gian trong Thánh Tông di thảo
chủ yếu được xây dựng ở hai kiểu: thời
gian tự nhiên và thời gian siêu tự nhiên.
2.1. Thời gian tự nhiên là thời gian
luân chuyển của tạo hoá: xuân, hạ, thu,
đông; là thời gian sinh mệnh của mỗi cá
nhân, là thời gian của các sự kiện, có thể
đo đếm được: sáng, trưa, chiều, tối, ngày,
tháng, năm; là thời gian hưng vong của lịch
sử qua các triều đại; là thời gian mà con
người có thể nhìn thấy được, cảm nhận
được thông qua các tín hiệu tự nhiên.
Tác giả văn học trung đại thường thể
hiện thời gian theo trật tự xuôi chiều, thời
gian tuyến tính. Hầu hết ở các truyện trong
Thánh Tông di thảo, thời gian đều được thể
20
hiện theo trật tự tuyến tính. Điều này bị chi
phối bởi nguyên tắc cảm thụ thế giới và tư
duy nghệ thuật chưa phát triển cao của văn
học trung đại. Thời gian trong truyện
không có sự xáo trộn hay xen kẽ trật tự quá
khứ, hiện tại, tương lai. Các sự việc được
kể nối tiếp nhau theo dòng thời gian.
Chẳng hạn như ở Truyện chồng dê, sau khi
mẹ mất, người con gái hiếu thảo ở làng
Thanh - Khê đã lo ma chay và hương khói
cho mẹ rất chu đáo. Trong suốt ba năm, cô
không muốn kết duyên cùng ai. Khi hết
tang mẹ cô buồn rầu nghĩ phận gái rồi cũng
phải theo chồng, lúc đó ai sẽ là người thờ
phụng mẹ. Sau đó gặp chàng đánh xe hoá
dê, cô đồng ý kết duyên. Hai người trải qua
nhiều khó khăn trở ngại nhưng cuối cùng
được sống hạnh phúc bên nhau. Ở truyện
Hai Phật cãi nhau, câu chuyện được “ta”
thuật lại với trật tự trước sau rõ ràng:
“Ngày hai bảy tháng tám nước rút. Ta đi
thuyền xem xét nơi nào bị thiệt hại thì chẩn
cấp cho dân. Buổi chiều đến bến đò Vân
Giang Ta buộc thuyền rồi nằm ngủ. Đến
canh ba, bốn bên im lặng như tờ ta đẩy
cửa trông vào”
Trong Thánh Tông di thảo, thời
gian đêm tối là phổ biến nhất. Đêm tối là
gam màu nổi bật góp phần tạo nên tính kì
ảo cho thời gian tự nhiên trong truyện.
Đêm tối là thời gian tự nhiên, thời gian sự
kiện nhưng tự thân nó đã chứa đựng yếu tố
kì ảo. Dù không mê tín nhưng trong tâm
linh con người vẫn tin rằng có một thế giới
khác đang tồn tại cùng với bao điều bí ẩn.
Thế giới ấy đặc biệt sống động khi màn
đêm buông xuống. Trong đêm trăng, sáng
nữ yêu tinh biến hiện nhiều hình thù quái
gở khiến mọi người kinh sợ (Truyện yêu nữ
Châu Mai). Trong đêm thanh vắng, hai
Phật cãi nhau, Phật Thích Ca say lảo đảo
bước ra phân xử (Hai Phật cãi nhau). Thời
gian đêm tối gắn với giấc mộng của Chu
Sinh trong truyện Duyên lạ nước Hoa, hay
giấc mộng Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc, giấc
ngủ nửa đêm trên cầu Ninh Chức sông Hát
Giang, chàng học trò nghèo đến thuỷ phủ
gặp lại ông tổ Tam Đại. Cũng trong đêm
tối, Tử Khanh vào miếu ngủ tình cờ gặp lại
người anh, nhờ đó mà thi đậu. Có thể nói,
thời gian đêm tối trong các truyện của
Thánh Tông di thảo chính là một dụng ý
nghệ thuật của tác giả. Có những truyện,
nếu không phải là thời gian đêm tối thì các
tình huống truyện sẽ không thể diễn ra theo
đúng ý đồ nghệ thuật của tác giả. Chẳng
hạn, trong Hai Phật cãi nhau, chính thời
điểm “canh ba, lúc bốn bên im lặng như tờ,
mọi người đều say ngủ”, thì các Phật mới
xuất hiện và cãi nhau. Cũng trong đêm tối,
tinh chuột mới giả dạng người chồng làm
chuyện gian dâm (Truyện Tinh chuột).
Trong đêm trăng thanh gió mát, “ta” gặp
được tiên thổi địch (Gặp tiên ở hồ Lãng
Bạc), Sự xuất hiện của thời gian đêm tối
trong Thánh Tông di thảo là khá phổ biến,
nhất là trong những truyện có yếu tố kì ảo.
Bởi vì đêm tối là thời gian thích hợp cho
những sự lạ. Đêm tối cũng làm tăng thêm
tính li kì, hấp dẫn cho câu chuyện. Thời
gian đêm tối là đặc trưng của những truyện
truyền kì. Đó cũng là điều kiện để tạo nên
tính kì ảo của thời gian nghệ thuật.
Tuy nhiên trong Thánh Tông di thảo
không chỉ có thời gian đêm tối. Ở các
truyện khác tác giả cũng miêu tả thời gian
theo các mùa, hay thời gian sinh mệnh của
một đời người. Trong Truyện người hành
khất giàu, thời gian được kể là thời gian
của cả một đời người. Hoặc trong một số
21
truyện khác, thời gian thực thường được đo
bằng các đại lượng: ngày “ngày hai mươi
bảy tháng tám” trong Hai Phật cãi nhau;
tháng “cách hai tháng sau” trong Một dòng
chữ lấy được gái thần; năm “mười năm,
hai năm, một năm”... trong các truyện Yêu
nữ Châu Mai, Duyên lạ nước hoa, Thời
gian chủ yếu được cấu trúc theo trật tự
tuyến tính. Theo đó, câu chuyện được kể
theo một trật tự trước sau. Trong nhiều
truyện tác giả còn nêu thông tin về thời
gian rất cụ thể: “Hồi ấy là năm thứ tư, niên
hiệu Thuận Thiên” – Hai gái thần, “Cuối
niên hiệu Nguyên Phong đời nhà Trần” –
Truyện Yêu nữ Châu Mai, “năm quý Tị lụt
to” – Hai Phật cãi nhau, Điều này càng
làm tăng thêm tính xác thực cho câu
chuyện được kể. Thời gian tự nhiên của
Thánh Tông di thảo được miêu tả giống
như kiểu thời gian phổ biến của văn học
trung đại.
2.2. Thời gian siêu tự nhiên được thể
hiện là thời gian tiên cảnh, thời gian dưới
thuỷ phủ, là thời gian của một thế giới
khác. Thời gian siêu tự nhiên chủ yếu xuất
hiện cùng với không gian ảo tạo nên một
thế giới nghệ thuật chỉ có ở những truyện
có tính chất truyền kì. Thời gian siêu tự
nhiên không tính bằng đại lượng đo thời
gian thông thường (giây, phút, giờ, ngày,
tháng, năm) mà được tính bằng cái chớp
mắt (Chuyện lạ nhà thuyền chài), tính bằng
một giấc mộng (Duyên lạ nước hoa, Bài kí
giấc mộng), hoặc một năm tính bằng mười
năm (Truyện chồng dê), tính bằng giáp hoa
– một giáp hoa là 60 năm (Hai gái thần)...
Đây cũng là một kiểu phi thời gian.
Thời gian dưới thuỷ phủ, thời gian
ở cõi tiên là những hình tượng đậm chất kì
ảo, khác hẳn với thời gian của cõi trần thế.
Thời gian của thuỷ phủ hay của cõi tiên
gắn liền với cuộc sống giàu sang sung túc,
mà ở đó nhân vật thoả ước nguyện, sống
trong vinh hoa phú quý mà nếu ở cõi trần
họ không bao giờ có được. Thời gian cõi
tiên và cõi trần có một sự khác biệt khá
lớn. Đó cũng là sự khác biệt giữa mộng và
thực. Chàng Chu Sinh ngoài đời thực thì
nghèo xơ xác nhưng trong giấc mộng
chàng lại là con rể của Quốc mẫu, phò mã
Hoa quốc; chàng học trò nghèo ở Vũ Ninh
cũng vậy.
Thời gian siêu tự nhiên luôn tồn tại
cùng với không gian kì ảo để tạo nên một
thế giới huyền ảo mà ở đó nhân vật có thể
cùng tồn tại hai cuộc đời song song ở hai
kiểu thời gian hay hai thế giới khác nhau.
Trong một số truyện, thời gian tự nhiên và
thời gian siêu tự nhiên có sự khác biệt với
nhau nhưng phần lớn là chúng tiếp nối
nhau trong cuộc đời nhân vật. Chu Sinh
sống trong thế giới ở Hoa quốc khi nằm
mộng. Thời gian ở Hoa quốc được tiếp
diễn cùng với thời gian tự nhiên ngoài đời.
Đó là việc Chu Sinh gặp lại Đồng Nhân
theo lời dặn của Mộng Trang. Sau đó,
Đồng Nhân sinh con trai, Chu Sinh thấy
giống hệt đứa con của Mộng Trang khi ở
Hoa quốc. Chu sinh ngạc nhiên “bấm đốt
ngón tay, tính đúng ra cũng đã hai mươi
sáu tháng”. Trong các truyện khác như
Người trần ở thuỷ phủ, Một dòng chữ lấy
được gái thần, Gặp tiên ở hồ Lãng
Bạc,đều có sự đan xen thời gian như thế.
Thời gian trong Thánh Tông di thảo
không chỉ là một đại lượng vật lí mà cùng
với không gian nghệ thuật, nó góp phần tạo
nên một thế giới nghệ thuật kì ảo, nhất là
trong những truyện có tính chất truyền kì.
3. Tồn tại song song với thời gian nghệ
22
thuật là không gian nghệ thuật. Không gian
nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian,
nên mang tính chủ quan, ngoài không gian
vật thể, có không gian tâm tưởng. Do vậy,
không gian nghệ thuật có tính độc lập
tương đối, “không quy được vào không
gian địa lí” hay “không gian như một nhân
tố nghệ thuật của truyện” với các loại
“không gian bối cảnh, không gian sự kiện,
không gian tâm lí và không gian kể
chuyện”(4). Mở rộng hơn, Lại Nguyên Ân
trong 150 thuật ngữ văn học cho rằng:
“không gian nghệ thuật là “phẩm chất định
tính quan trọng của hình tượng nghệ thuật,
đảm bảo cho việc tiếp nhận toàn vẹn thực
tại nghệ thuật và tổ chức kết cấu của tác
phẩm”(5). Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh
vai trò của không gian trong chỉnh thể tác
phẩm. Nó mang tính chủ quan và dấu ấn
sáng tạo của nhà văn. Như vậy, không gian
trong tác phẩm là không gian mang tính
nghệ thuật, được cấu trúc một cách có hiệu
quả theo ý thức sáng tạo của tác giả. Cùng
với những yếu tố khác, không gian kiến tạo
nên một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh.
Trong những truyện có tính chất truyền kì,
không gian đóng một vai trò vô cùng quan
trọng, nó góp phần tạo ra khung cảnh, môi
trường hoạt động cho nhân vật.
Không gian trong Thánh Tông di thảo
mang những đặc trưng riêng rất độc đáo.
Không gian được miêu tả chủ yếu là không
gian thực và không gian huyền ảo.
3.1. Không gian thực là môi trường để
nhân vật hoạt động, là không gian bối cảnh
của câu chuyện. Mỗi câu chuyện đều xảy ra
trong một bối cảnh không gian cụ thể.
Không gian thực được xác định bằng không
gian sinh sống của nhân vật. Đó là nhà hát,
nơi yêu nữ hiện hình thành người con gái
đẹp, làm chốn nương thân để chờ chồng. Từ
không gian nhà hát tác giả đã tái hiện một
góc hiện thực của xã hội phong kiến. Ở đó,
thân phận người phụ nữ thật đáng thương
khi họ phải chiều chuộng, mua vui cho
“những phường ngoài mặt thì như ngọc
vàng mà trong lòng thì như bông nát”.
Trong một số truyện khác, đó là túp lều xiêu
vẹo của người đàn bà hành khất, là căn nhà
nát với “chiếc giường và nửa manh chiếu
rách” nơi Chu Sinh thường ngủ trước khi
“nhập mộng”.
Một không gian khác thường thấy
trong Thánh Tông di thảo đó là chốn miếu
mạo, đền chùa (Hai phật cãi nhau, Hai
thần hiếu đễ). Ở đây không phải là nơi sinh
sống của con người mà là nơi thờ cúng
Thần, Phật theo tín ngưỡng dân gian.
Trong một ngôi chùa đổ nát, Phật gỗ và
Phật đất cãi nhau tranh giành lợi lộc, Thần
Phật còn như thế huống nữa là người. Kì
thực, các Phật chẳng khác gì những kẻ
tham lam, khoác lác. Trong một ngôi miếu
giữa đồng, Tử Khanh thấy có năm vị thần
bày hoa quả, bánh trái ngồi quây quần
uống rượu làm thơ. Đằng sau cái bài vị trên
bàn thờ, các thần cũng tụ họp và say sưa
chẳng khác gì dân thường. Nếu trong các
truyện của Lĩnh nam chích quái và Việt
điện u linh, con người thường được “thần
thánh hoá” thì trong Thánh Tông di thảo,
Lê Thánh Tông lại “người hoá” các vị thần.
Như vậy, không gian thực thường thấy
xuất hiện trong Thánh Tông di thảo là
không gian “ngôi nhà”: nhà hát trong
truyện Yêu nữ Châu Mai; nhà - túp lều của
người đàn bà ăn mày trong truyện người
hành khất giàu; nhà - nơi Chu Sinh nằm
mộng trong Duyên lạ nước hoa, nhà -
chùa, miếu nơi thờ cúng trong Hai Phật
23
cãi nhau, Hai thần hiếu đễ. Trong mỗi
ngôi nhà ấy, tác giả đã gợi ra một không
gian riêng biệt nhưng chúng đều mang nét
chung của không gian trong tác phẩm:
ngôi nhà là nơi các nhân vật sinh sống, nơi
họ sống một cuộc đời thực. Ở mỗi không
gian “nhà” tác giả đã tạo ra những dấu ấn
riêng phù hợp với từng loại người. Nhà
hát, chốn vui chơi đầy lạc thú thì đông vui
nhộn nhịp, đủ mọi loại người lui tới; nhà
của anh học trò thì nghèo nàn, rách nát;
nhà của người ăn mày thì chỉ là một túp
lều tạm; nhà gắn với không gian thờ cúng
thì tuỳ theo đối tượng được thờ mà sự mô
tả sẽ khác nhau.
Trong Thánh Tông di thảo lại có kiểu
không gian thực cụ thể hơn “nhà”, đó là
căn buồng. Trong Truyện Tinh chuột, căn
buồng của hai vợ chồng anh học trò trở
thành không gian riêng tư. Đó là nơi ân ái
vợ chồng và cũng là nơi diễn ra trò gian
dâm của tinh chuột trong lốt người. Ở
Truyện chồng dê, căn buồng của cô gái lại
là nơi dê trắng trong một đêm hoá thành
một chàng trai “đẹp vô cùng”. Ở đó diễn ra
mối tình “người – dê”, một “mối tình đằm
thắm ví với người thường gấp đến mấy
lần”. Rải rác trong các truyện Duyên lạ nước
Hoa, Một dòng chữ lấy được gái thần, Người
trần ở thuỷ phủ, không gian chốn buồng
the cũng được nhắc đến tuy không ở mức độ
đậm nét như trong hai truyện đã nêu. Xây
dựng hình tượng không gian trong truyện là
căn buồng, Lê Thánh Tông muốn nói lên
khát vọng thành thực của con người về tình
yêu lứa đôi, về hạnh phúc ân ái vợ chồng.
Căn buồng trong nếp sinh hoạt của người
Việt Nam là không gian riêng tư của vợ
chồng. Chỉ ở đó người ta mới có thể bày tỏ
và thoả mãn những nhu cầu mang tính nhục
cảm trong quan hệ vợ chồng. Căn buồng trở
thành một tín hiệu nghệ thuật để tác giả giãi
bày khát vọng hạnh phúc của con người trần
thế. Xã hội phong kiến vốn khắt khe, nói lên
được khát vọng chính đáng của con người
trong một tác phẩm văn chương vào thời ấy
là không dễ dàng. Thông qua không gian
nghệ thuật trong tác phẩm, tác giả Lê Thánh
Tông đã phần nào bày tỏ được khát vọng
mang tính nhân văn sâu sắc. Không gian
thực trong Thánh Tông di thảo được thể
hiện tập trung ở ba dạng: không gian ngôi
nhà, không gian căn buồng, không gian thờ
cúng - chùa, miếu. Mỗi kiểu không gian
này mang một ý nghĩa nghệ thuật nhất
định, và điều quan trọng là chúng làm cho
câu chuyện trở nên sinh động, hấp dẫn.
3.2. Ngoài không gian thực tạo bối
cảnh cho câu chuyện, Lê Thánh Tông còn
dụng công vào một dạng không gian
khác: không gian huyền ảo. Huyền ảo,
theo Từ điển Tiếng Việt, “Có vẻ vừa như
thực, vừa như hư, như trong giấc mơ,
thường tạo nên vẻ đẹp kì lạ và bí ẩn”(6).
Trong Thánh Tông di thảo, không gian
huyền ảo chỉ xuất hiện trong những
truyện mang tính chất truyền kì. Tính
“không có thật” và “yếu tố hoang đường”
là đặc điểm nổi bật của không gian huyền
ảo. Không gian huyền ảo là không gian
không có thực. Nó có thể đẹp, mơ hồ, kì
bí và cả kì quái nữa. Không gian huyền ảo
trong những truyện này chủ yếu được xác
định bởi không gian tiên cảnh (Duyên lạ
nước hoa, Ngọc nữ về tay chân chủ,
Chuyện lạ nhà thuyền chài) và không gian
thuỷ phủ (Người trần ở thuỷ phủ, Truyện
hai gái thần).
Không gian thực là môi trường để nhân
vật “nhập mộng” - nhập vào không gian
24
huyền ảo, nhờ mộng mà nhân vật có thể “đi
mây về gió”, có thể sống nhiều cuộc đời ở
những không gian khác nhau. Không gian
mộng là nơi nhân vật sống cuộc đời mình
mơ ước. Chu Sinh trong Duyên lạ nước
Hoa, sau một đêm nằm mộng thấy mình
được đưa đến một nơi tuyệt đẹp. Nếu trong
thực tế, chàng là kẻ nghèo khó, lại hay bị
người thím nhiếc mắng, bỏ đói thì trong
giấc mộng đến Hoa quốc, chàng được đối
đãi như thượng khách, được Quốc mẫu
nhận làm con rể và cho làm lễ thành hôn
với công chúa Mộng Trang. Từ căn nhà
rách nát của cha mẹ chỉ có “chiếc ghế mọt,
một chiếc giường và nửa manh chiếu
rách”, Chu Sinh “nhập mộng” và sống một
cuộc đời thứ hai hoàn toàn khác hẳn với
cuộc đời thực. Cứ tới ngày hẹn là Chu Sinh
lại nằm mộng “ba mươi ngày thì mười
ngày nằm mộng”. Mỗi lần nằm mộng
chàng lại đến sống trong một không gian
đúng là chỉ có ở trong mơ. Nếu không có
những giấc mơ kì lạ ấy có lẽ suốt đời Chu
Sinh cũng chỉ là một anh học trò lười
biếng, nghèo khổ sống trong ngôi nhà nát
cho đến hết đời mà thôi.
Cũng nằm mộng như Chu Sinh nhưng
người học trò hay chữ trong truyện Người
trần ở thuỷ phủ không đến cõi tiên mà lại
đến thuỷ phủ. Ở nơi suối vàng chàng lại
gặp được ông tổ Tam Đại, nhờ lòng trung
nghĩa mà được làm quan nơi thuỷ phủ. Ở
trần thế, chàng học trò nghèo đến nỗi
không lấy nổi vợ. Thế mà từ khi xuống
thuỷ phủ chàng có cuộc sống sung túc.
Nhờ sự giúp đỡ của người ông, chàng lại
lấy được người con gái mình thương. Về
sau, chàng lại còn vinh hiển hơn trước khi
thi đậu và được ra làm quan. Bản thân
những giấc mộng đã mang tính kì ảo bởi
những điều trong mơ là những điều không
có thật. Thế mà ở đây, các nhân vật thậm
chí còn đi về giữa hai không gian thực -
cuộc sống và không gian ảo - giấc mơ.
Trong những giấc mơ của các nhân vật,
tác giả đã tạo dựng một không gian kì ảo.
Và cũng chính tác giả với trí tượng tượng
phong phú, đã giúp cho nhân vật từng
bước tiến vào thế giới huyền ảo mơ ước
của mình.
Trong Truyện lạ nhà thuyền chài,
không gian ảo được tác giả tạo dựng theo
một phương thức khác hẳn. Chàng Thúc
Ngư chán việc học hành bỏ nhà đi đâu cha
mẹ cũng không rõ, “trong khoảng hai ba
năm con đi về thế nào cũng mặc”. Trong
một chuyến đi đánh cá, hai vợ chồng nhà
thuyền chài lạc đến một Đảo ấp. Lúc ấy, họ
mới vỡ lẽ ra là mình đã lạc đến nơi ở của
Hải Tiên, nơi con trai mình đã hẹn ước với
một nàng học sĩ ở Long cung. Phải chăng ở
cuộc đời nơi trần thế, Thúc Ngư không thể
tìm được người tâm đầu ý hợp nên mới
phải đến nơi hải đảo xa xôi để kết duyên
cùng một Hải Tiên? Nhưng cũng chính nhờ
lấy được Ngoạ Vân mà gia đình của Thúc
Ngư mới trở nên giàu có, sống một cuộc
đời sung túc. Thậm chí khi gặp nạn hồng
thuỷ, nhờ Ngoạ Vân hoá phép mà họ được
bình an vô sự. Tác giả đã xây dựng không
gian thực - thế giới hiện thực, tồn tại song
song với không gian ảo - thế giới thần tiên.
Con người đi đến thế giới thần tiên bằng
những giấc mộng, như Chu Sinh, như chàng
học trò nghèo hoặc bằng thuật rút đường như
vợ chồng thuyền chài. Ở truyện Hai thần
hiếu đễ, tác giả lại đưa nhân vật đến cõi âm
bằng một hình thức khác, “cỡi xe mây đi
chừng nửa khắc thì tới nơi”. Chính sự đa
dạng trong cách xây dựng không gian khiến
25
cho không gian huyền ảo trong Thánh Tông
di thảo vì thế mà trở nên đặc biệt hấp dẫn.
Không gian huyền ảo có mối quan hệ
mật thiết với không gian thực trong đời
sống của nhân vật. Nhân vật sống trong hai
thế giới, hai cuộc đời, đi về giữa hai thế
giới như không hề có ranh giới cách biệt.
Không gian huyền ảo trong Thánh Tông di
thảo tạo nên thế giới nghệ thuật đẹp, sống
động, góp phần thể hiện nội dung tư tưởng
của tác phẩm phong phú hơn, sâu sắc hơn.
Tác giả miêu tả không gian huyền ảo rấ