Thư tịch Chăm cổ: Nguồn tư liệu quý chưa được khai thác

Tộc người Chăm có nền văn hóa đặc sắc, phong phú, đa dạng và là nền văn minh phát triển rực rỡ trong khu vực Đông Nam Á. Hiện nơi đây vẫn còn lưu lại các công trình kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, điệu múa và đặc biệt là văn tự ghi chép các giá trị lịch sử, văn hóa, văn minh của tộc người. Văn tự ấy có nguồn gốc Sanskrit, từ văn tự cổ xưa nhất cho đến văn tự hiện nay đang được sử dụng phổ biến trong mọi tầng lớp của người Chăm

pdf8 trang | Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thư tịch Chăm cổ: Nguồn tư liệu quý chưa được khai thác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thư tịch Chăm cổ: Nguồn tư liệu quý chưa được khai thác Tộc người Chăm có nền văn hóa đặc sắc, phong phú, đa dạng và là nền văn minh phát triển rực rỡ trong khu vực Đông Nam Á. Hiện nơi đây vẫn còn lưu lại các công trình kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, điệu múa và đặc biệt là văn tự ghi chép các giá trị lịch sử, văn hóa, văn minh của tộc người. Văn tự ấy có nguồn gốc Sanskrit, từ văn tự cổ xưa nhất cho đến văn tự hiện nay đang được sử dụng phổ biến trong mọi tầng lớp của người Chăm. Theo các nhà khoa học, văn tự Chăm được chia làm ba loại ứng với ba thời kỳ chính: văn tự thuộc thời kỳ cổ đại, trung đại và hiện đại. Văn tự thuộc thời kỳ cổ đại là loại chữ thường được khắc trên các bia đá như bia đá Võ Cạnh (Khánh Hòa). Văn tự thuộc thời kỳ trung đại là loại chữ chủ yếu viết trên lá buông hay trên giấy. Các loại chữ viết này hiện nay còn ít người biết đọc, chủ yếu các vị tăng lữ và các vị tu sĩ lớn tuổi mới có thể đọc được, viết được. Còn văn tự thuộc thời kỳ hiện đại là loại chữ thông dụng được người Chăm sử dụng phổ biến để ghi chép các loại văn bản, được gọi là Akhar Thrah. Bản thân của Akhar Thrah đã thoát khỏi vỏ bọc của chữ Phạn và được phổ biến từ thế kỷ thứ 17. Hiện nay, loại văn tự Akhar Thrah được xem như là loại thư tịch cổ được lưu truyền, sử dụng trong mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi của người Chăm, từ các giới tăng lữ, tu sĩ, chức sắc, bô lão cho đến các giới nhân sĩ trí thức cho đến tầng lớp nông dân. Thư tịch Chăm cổ ghi lại nhiều lĩnh vực: nghi lễ, bói toán, ma thuật, thiên văn, y học, lịch pháp học, lịch sử, truyện cổ, thần thoại, truyền thuyết, sự tích anh hùng, ca dao, tục ngữ, đạo đức, gia huấn ca, giáo dục truyền thống gia đình... Thư tịch Chăm cổ được sưu tầm và trưng bày trong điều kiện không bảo đảm tại phòng triển lãm của Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm Ninh Thuận. Đã từ lâu, nhiều học giả trong và ngoài nước chú tâm vào việc nghiên cứu văn hóa của người Chăm, nhưng đối với thư tịch cổ thì còn rất ít người quan tâm. Mãi đến năm 1960, Trung tâm Lịch sử và Văn minh Bán đảo Đông Dương thuộc bộ phận IV: Lịch sử học và văn bản học của Trường Cao đẳng Thực Hành (Đại học Xoóc- bon) mới thống kê và phân loại thành danh mục. Đến năm 1977, Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp xuất bản thành cuốn sách mang tựa đề: Danh mục những văn bản viết tay Chăm trong các thư viện ở Pháp. Cuốn danh mục này được soạn thảo bởi P.B. La-phông (Lafont), Pô Đa-ma (Po Dharma), Na-ra Vi-gia (Nara Vija), toàn bộ dày 262 trang. Sau đó, Pô Đa-ma có soạn thảo thêm danh mục mới để bổ sung và xuất bản tại Pa-ri, dày 29 trang. Những năm gần đây, để khai thác nguồn tư liệu đang lưu trữ trong các thư viện Pháp, Bảo tàng Quốc gia Pháp và Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp thiết lập chương trình hợp tác dịch thuật các văn bản cổ Chăm (vào năm 1987). Chương trình này đã khai thác và công bố: Akayet Inra Patra (Kua-la Lăm- pơ, 1997, 189 trang), Akayet Dowa Mano (Kua-la Lăm-pơ, 1998, 253 trang), Akayet Nai Mai Mang Makah (Kua-la Lăm-pơ, 2000, 162 trang). Gần đây nhất, công trình sưu tầm 'Danh mục thư tịch Chăm ở Việt Nam' do Tiến sĩ Thành Phần đã nhiều năm nghiên cứu và sưu tầm thư tịch Chăm ở Việt Nam đã được xuất bản vào năm 2007. Các công trình này đã đóng góp một phần tư liệu quý hiếm giúp vào việc bảo tồn thư tịch Chăm cổ ở Việt Nam. Thư tịch, bút tích của các triều vua Nguyễn ban tặng cho vua Pô Klông Mơ H'Nai có niên đại từ thế kỷ 17. Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Ninh Thuận) trong những năm qua cũng đã sưu tầm được một số thư tịch nhưng cũng với số lượng rất nhỏ: 53 cuốn bản gốc, trong đó có 26 cuốn sưu tầm ở tỉnh Bình Thuận, 27 cuốn sưu tầm ở Ninh Thuận (13 cuốn viết trên lá buông, 14 cuốn viết trên giấy dó) và 254 bản chụp. Tất cả số tư liệu này đang được lưu trữ ở dạng thô, chưa được đưa vào khai thác sử dụng, phục vụ công tác nghiên cứu cũng như bảo tồn do không có kinh phí để in (scan), biên dịch và xuất bản. Theo khảo sát sơ bộ của Trung tâm thì số lượng thư tịch cổ riêng ở địa bàn tỉnh Ninh Thuận có thể còn đến khoảng 2.500 cuốn, chủ yếu được lưu giữ trong nhân dân. Do bảo quản không đúng cách, nhiều văn bản quý đã và đang bị tàn phá bởi môi trường, khí hậu, côn trùng... Đồng thời, quá trình trao truyền qua nhiều thế hệ và đặc trưng văn hóa từng địa phương, việc thực hành các nghi lễ dân gian, tôn giáo có những khác biệt giữa các địa phương và có những biến đổi so với ghi chép của văn bản thư tịch. Vì vậy, việc bảo tồn những thư tịch cổ này có ý nghĩa trên cả hai phương diện: giá trị văn hóa vật thể (bản thân văn bản thư tịch là một loại văn bản cổ) và giá trị văn hóa phi vật thể (những nội dung được ghi chép trong văn bản thư tịch). Với những giá trị độc đáo như vậy, thư tịch Chăm cổ rất cần được quan tâm, xây dựng kế hoạch sưu tầm, bảo quản và khai thác một cách bài bản, góp phần lưu giữ và bảo tồn những nét đặc sắc của văn hóa tộc người Chăm.