Thực trạng dạy học toán cho học sinh khuyết tật trí tuệ lớp 1 tại một số trường tiểu học hòa nhập ở Hà Nội

Tóm tắt. Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục hỗ trợ mọi học sinh, trong đó có trẻ khuyết tật, có cơ hội bình đẳng tiếp nhận dịch vụ giáo dục với những hỗ trợ cần thiết trong lớp học, phù hợp tại trường phổ thông nơi trẻ sinh sống. Mặc dù vậy, thực trạng dạy học cho học sinh khuyết tật trí tuệ (HS KTTT) vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Bài báo này tập trung vào việc điều tra thực trạng dạy học môn Toán cho học sinh khuyết tật trí tuệ lớp 1 tại một số trường tiểu học hòa nhập ở Hà Nội. Kết quả điều tra cho thấy chất lượng dạy học môn Toán cho học sinh khuyết tật trí tuệ lớp 1 ở một số trường tiểu học hòa nhập tại Hà Nội còn thấp. Mức độ hiểu biết của giáo viên về các vấn đề trong dạy học Toán cho HS KTTT có nhiều chênh lệch; mức độ điều chỉnh nội dung, phương pháp, và hình thức tổ chức dạy học chưa nhiều, dẫn đến khả năng tiếp thu môn Toán và hiểu quả học môn học này của HS KTTT không cao. Dựa trên các kết quả nghiên cứu, chúng tôi chỉ ra một số nguyên nhân của thực trạng, và đưa ra một số định hướng trong việc điều chỉnh hoạt động dạy học và điều chỉnh sự phối hợp với gia đình để giúp các trường tiểu học hòa nhập trong đó có giáo viên, phụ huynh và ban giám hiệu nhà trường nhằm hạn chế các thiếu sót trong việc dạy học môn Toán lớp 1 cho HS KTTT ở môi trường hòa nhập nói riêng và trong giáo dục hòa nhập nói chung. Có như vậy, trẻ khuyết tật trí tuệ mới có nhiều cơ hội để thành công trong cuộc sống.

pdf11 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 289 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng dạy học toán cho học sinh khuyết tật trí tuệ lớp 1 tại một số trường tiểu học hòa nhập ở Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0131 Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 6BC, pp. 224-234 This paper is available online at THỰC TRẠNG DẠY HỌC TOÁN CHO HỌC SINH KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ LỚP 1 TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG TIỂU HỌC HÒA NHẬP Ở HÀ NỘI Nguyễn Hà My Khoa Giáo dục Đặc biệt, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục hỗ trợ mọi học sinh, trong đó có trẻ khuyết tật, có cơ hội bình đẳng tiếp nhận dịch vụ giáo dục với những hỗ trợ cần thiết trong lớp học, phù hợp tại trường phổ thông nơi trẻ sinh sống. Mặc dù vậy, thực trạng dạy học cho học sinh khuyết tật trí tuệ (HS KTTT) vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Bài báo này tập trung vào việc điều tra thực trạng dạy học môn Toán cho học sinh khuyết tật trí tuệ lớp 1 tại một số trường tiểu học hòa nhập ở Hà Nội. Kết quả điều tra cho thấy chất lượng dạy học môn Toán cho học sinh khuyết tật trí tuệ lớp 1 ở một số trường tiểu học hòa nhập tại Hà Nội còn thấp. Mức độ hiểu biết của giáo viên về các vấn đề trong dạy học Toán cho HS KTTT có nhiều chênh lệch; mức độ điều chỉnh nội dung, phương pháp, và hình thức tổ chức dạy học chưa nhiều, dẫn đến khả năng tiếp thu môn Toán và hiểu quả học môn học này của HS KTTT không cao. Dựa trên các kết quả nghiên cứu, chúng tôi chỉ ra một số nguyên nhân của thực trạng, và đưa ra một số định hướng trong việc điều chỉnh hoạt động dạy học và điều chỉnh sự phối hợp với gia đình để giúp các trường tiểu học hòa nhập trong đó có giáo viên, phụ huynh và ban giám hiệu nhà trường nhằm hạn chế các thiếu sót trong việc dạy học môn Toán lớp 1 cho HS KTTT ở môi trường hòa nhập nói riêng và trong giáo dục hòa nhập nói chung. Có như vậy, trẻ khuyết tật trí tuệ mới có nhiều cơ hội để thành công trong cuộc sống. Từ khóa: Giáo dục hòa nhập, học sinh khuyết tật trí tuệ, thực trạng dạy học môn Toán. 1. Mở đầu Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục trong đó trẻ khuyết tật cùng học với trẻ em bình thường trong trường phổ thông ngay tại nơi trẻ sinh sống [1]. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển giáo dục nói chung, giáo dục trẻ khuyết tật đã đạt được những thành quả quan trọng về nhiều mặt. Phương thức giáo dục hòa nhập phù hợp hoàn cảnh nước ta đang ngày càng được áp dụng rộng rãi. Số trẻ khuyết tật đi học ngày càng tăng. Giáo dục hòa nhập cũng đứng trước những thời cơ lớn [2]. Giáo dục Tiểu học là cấp học cơ bản và cũng là nền tảng trong toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Môn Toán lớp 1 là một trong những môn học cơ bản trong nội dung chương trình dạy học ở tiểu học; giúp học sinh có những tri thức cơ bản về số học, đại lượng, một số yếu tố ban Ngày nhận bài: 18/5 /2015. Ngày nhận đăng: 16/8/2015. Tác giả liên lạc: Nguyễn Hà My, địa chỉ e-mail: nguyenhamy88@yahoo.com 224 Thực trạng dạy học toán cho học sinh khuyết tật trí tuệ lớp 1 tại một số trường tiểu học hòa nhập ở Hà Nội đầu về đại số, hình học, hình thành kĩ năng thực hành tính toán, góp phần phát triển năng lực cá nhân, phục vụ trong đời sống sau này của các em [3, 4]. Tuy nhiên, học sinh khuyết tật trí tuệ (HS KTTT) có nhiều hạn chế trong phát triển tư duy, đặc biệt là tư duy logic, nên trẻ gặp rất nhiều khó khăn trong học tập, đặc biệt là môn Toán [5]. Hiện nay, thực trạng dạy học Toán cho HS KTTT tại các trường tiểu hoc hòa nhập ở Việt Nam còn tồn tại một số hạn chế. Cụ thể là một số giáo viên (GV) còn lúng túng trong việc thực hiện mục tiêu và nội dung bài học Toán cho các đối tượng học sinh khác nhau, trong đó có học sinh KTTT; giáo viên chưa có sự điều chỉnh kế hoạch, mục tiêu, nội dung dạy học Toán cho phù hợp với học sinh KTTT [6] Điều này dẫn đến hiệu quả học tập Toán của học sinh KTTT còn thấp, số lượng học sinh chưa biết tính toán còn nhiều,. . . Để khắc phục những hạn chế này, chúng ta cần phải tìm hiểu được thực trạng dạy và học Toán của học sinh KTTT ở các lớp 1 hòa nhập. Từ đó có thể đưa ra những đánh giá phù hợp và đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Toán cho học sinh KTTT ở các trường tiểu học hòa nhập hiện nay, làm cho các em thêm yêu thích môn học này. 2. Nội dung nghiên cứu Để đảm bảo cho việc giáo dục trẻ khuyết tật một cách tốt hơn, nhà nước ta đã đưa ra phương thức giáo dục mà trong đó trẻ khuyết tật học cùng với trẻ em bình thường trong trường phổ thông, ngay tại nơi các em sinh sống, gọi là giáo dục hòa nhập. Giáo dục hòa nhập là "hỗ trợ mọi học sinh, trong đó có trẻ khuyết tật, có cơ hội bình đẳng tiếp nhận dịch vụ giáo dục với những hỗ trợ cần thiết trong lớp học phù hợp tại trường phổ thông nơi trẻ sinh sống nhằm chuẩn bị trở thành những thành viên đầy đủ của xã hội" [1]. Trong dạy học hòa nhập, nhiệm vụ được đặt ra là trẻ khuyết tật có thể học được cùng với các học sinh bình thường mà không làm ảnh hưởng tới lớp học. Học sinh khuyết tật được học chung bài học theo kế hoạch, chương trình dạy học chuẩn. Bên cạnh đó, học sinh khuyết tật cũng cần được học theo chương trình riêng với những mục tiêu và kế hoạch cụ thể cho các em. Khi xây dựng kế hoạch bài giảng ở lớp hòa nhập, giáo viên cần có kĩ năng thiết kế bài giảng chung cho cả lớp cùng với sự điều chỉnh các hoạt động cho phù hợp với mỗi cá nhân trẻ khuyết tật trong lớp mình [7]. Mỗi học sinh là một cá nhân có những đặc điểm khác nhau về cách học, tốc độ học, thời gian lĩnh hội kiến thức, kĩ năng, điều kiện học tập, kinh nghiệm sống. Đối với học sinh KTTT, “sự khác nhau còn ở thời gian, mức độ và dạng khó khăn, được can thiệp sớm hay không được can thiệp sớm, mức độ quan tâm của gia đình, giáo viên, và điều kiện chăm sóc” [8]. Do vậy, giáo viên cần điều chỉnh nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học để không chỉ lôi cuốn học sinh KTTT tích cực tham gia vào hoạt động học tập mà còn nâng cao tính tương hợp giữa cách học của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên. Nội dung điều chỉnh bao gồm: thời gian, môi trường trong lớp học, những vấn đề cần điều chỉnh trong các môn học, các biện pháp tự quản, kiểm tra bằng nhiều hình thức, tài liệu và học liệu, giao bài tập, những biện pháp kích thích, động viên HS học tập. . . [8]. Phương pháp điều chỉnh bao gồm: Phương pháp đồng loạt, phương pháp trùng lặp giáo án, phương pháp đa trình độ, phương pháp thay thế [8]. Hình thức điều chỉnh bao gồm: Thay đổi hình thức hoạt động của HS, hình thức giảng dạy của GV, phong cách giảng dạy của GV, nội dung và yêu cầu, hình thức đánh giá, các yếu tố của 225 Nguyễn Hà My môi trường học, cách giao nhiệm vụ và bài tập, cách trợ giúp. . . [8]. Các phương pháp dạy học (PPDH) được sử dụng trong môn Toán lớp 1 gồm: Phương pháp trực quan; Phương pháp vấn đáp gợi mở; Phương pháp dùng lời nói; Phương pháp thực hành luyện tập; Phương pháp sử dụng phiếu giao việc; Nhóm các phương pháp dạy học tích cực: Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề, Phương pháp dạy học kiến tạo, Phương pháp dạy học khám phá [9]. Các hình thức dạy học môn Toán trong lớp học hòa nhập học sinh KTTT gồm: Hình thức dạy học theo lớp; Hình thức dạy học hợp tác nhóm; Hình thức dạy học cá nhân [9]. 2.1. Thực trạng việc dạy học Toán cho học sinh KTTT lớp 1 học hòa nhập tại một số trường tiểu học ở Hà Nội Dựa trên những nghiên cứu lí luận về trẻ KTTT và mục tiêu, nội dung cũng như phương pháp và hình thức tổ chức dạy học Toán ở lớp 1, chúng tôi đã tiến hành điều tra 17 giáo viên, 24 học sinh KTTT khối 1 và 7 phụ huynh trẻ KTTT ở ba trường tiểu học trên địa bàn Hà Nội là trường tiểu học Mĩ Đình, trường tiểu học Phú Đô, và trường tiểu học Cổ Nhuế B. Tất cả các giáo viên khối 1 đều thực hiện các tiết Toán theo tiến trình quy định của Phòng Giáo dục - Đào tạo của địa phương. * Thực trạng nhận thức của giáo viên về dạy học môn Toán cho học sinh KTTT lớp 1 học hòa nhập Về nhận thức, chúng tôi đã khảo sát mức độ hiểu biết của giáo viên về các vấn đề trong dạy học toán cho HS KTTT lớp 1 học hòa nhập như sau: Bảng 1. Mức độ hiểu biết của giáo viên về các vấn đề trong dạy học môn Toán cho HS KTTT lớp 1 học hòa nhập Không hiểu Hiểu ít Hiểu rõ Vai trò của môn Toán trong việc hình thành và phát triển tư duy, năng lực của học sinh KTTT 0% 29,42% 70,58% Ưu và nhược điểm của các PPDH và hình thức dạy học Toán được sử dụng trong dạy học cho trẻ KTTT lớp 1 hòa nhập 17,64% 47,05% 35,31% Nắm được nội dung, phương pháp, và hình thức điều chỉnh các hoạt động dạy học môn Toán cho trẻ KTTT lớp 1 hòa nhập 58,82% 23,52% 17,66% Dựa vào bảng phân tích số liệu trên, đa số GV (70,58%) có hiểu biết về vai trò của môn Toán trong việc hình thành và phát triển tư duy, năng lực của HS KTTT. Tuy nhiên, vẫn còn một số GV có nhận thức chưa tốt, chưa hiểu rõ về giáo dục hòa nhập cũng như việc dạy Toán cho HS KTTT có tầm quan trọng như thế nào. Khi điều tra về các ưu và nhược điểm của các PPDH và hình thức dạy học Toán được sử dụng trong dạy học cho trẻ KTTT lớp 1 hòa nhập, 17,64% GV không biết và 47,05% GV hiểu biết 226 Thực trạng dạy học toán cho học sinh khuyết tật trí tuệ lớp 1 tại một số trường tiểu học hòa nhập ở Hà Nội rất ít về các PPDH và hình thức dạy học nào sẽ kích thích được tính tích cực, thu hút được sự thích thú của HS KTTT tham gia vào bài học, cũng như phương pháp hoặc hình thức dạy học nào không thực sự phù hợp với HS KTTT lớp 1. Bên cạnh đó, 58,82% số GV được hỏi không nắm vững sự điều chỉnh các nội dung, phương pháp, và hình thức tổ chức hoạt động dạy học môn Toán cho trẻ KTTT lớp 1 hòa nhập. Điều này xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản như GV chỉ tập trung vào số đông HS trong lớp mà không chú ý tới việc điều chỉnh nội dung, phương pháp và hình thức dạy học cho phù hợp với đối tượng trẻ KTTT học hòa nhập. . . Để tìm hiểu về vấn đề này kĩ hơn, chúng tôi tiếp tục tiến hành tìm hiểu thực trạng điều chỉnh trong dạy học Toán cho học sinh KTTT tại các lớp học hòa nhập lớp 1. * Thực trạng điều chỉnh trong dạy học Toán cho học sinh KTTT tại các lớp học hòa nhập lớp 1 Điều chỉnh hoạt động dạy học môn Toán Bảng 2. Mức độ điều chỉnh của giáo viên trong dạy học môn Toán đối với học sinh KTTT lớp 1 tại trường tiểu học hòa nhập Stt Nội dung điều chỉnh Mức độ điều chỉnh (%) Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ 1 Mục tiêu bài học 5,9 23,52 70,58 2 Nội dung bài học 17,64 29,41 52,95 3 Phương pháp dạy học 35,29 23,52 41,19 4 Hình thức dạy học 11,75 35,3 52,95 5 Phương tiện dạy học 29,41 41,18 29,41 6 Kiểm tra, đánh giá 17,64 58,84 23,52 Qua tìm hiểu giáo án của GV dạy lớp 1 hòa nhập ở ba trường tiểu học được điều tra, 70,58% giáo án chưa thể hiện việc điều chỉnh mục tiêu bài học. Điều này được thể hiện giáo viên chỉ mới đưa ra những mục tiêu chung dành cho tất cả các học sinh trong lớp mà chưa có mục tiêu riêng dành cho học sinh KTTT. 23,52% số giáo viên còn lại đã có sự điều chỉnh về mục tiêu bài học dành cho học sinh KTTT nhưng chỉ ở mức độ thỉnh thoảng. Một giáo viên chưa có sự điều chỉnh về mục tiêu bài học. Nhận thức được tầm quan trọng của việc điều chỉnh nội dung dạy học trong dạy học cho học sinh KTTT nên 17,64% số giáo viên thường xuyên điều chỉnh nội dung bài học, 29,41% số giáo viên có sự điều chỉnh về nội dung nhưng chưa nhiều nên chất lượng điều chỉnh nội dung dạy học còn hạn chế. Vẫn còn nhiều giáo viên không có sự điều chỉnh về nội dung. 35,29% số giáo viên được hỏi thường xuyên điều chỉnh phương pháp (PP), giáo viên sử dụng các phương pháp thay thế phù hợp với khả năng, nhận thức của học sinh. 41,19% số giáo viên còn lại không sử dụng phương pháp điều chỉnh mà sử dụng các phương pháp như đối với học sinh bình thường. Bên cạnh đó, việc điều chỉnh phương tiện dạy học môn Toán cho HS KTTT đã được một số giáo viên tiểu học lớp 1 hòa nhập chú trọng và có sự thay đổi phương tiện dạy học một cách thường xuyên (chiếm 29,41% GV được điều tra). Các phương tiện dạy học được sử dụng và điều chỉnh thường xuyên bao gồm: vật mẫu/vật thật, tranh ảnh. . . , nhằm giúp HS KTTT hiểu bài tốt 227 Nguyễn Hà My hơn. Tuy nhiên, các phương tiện dạy học được sử dụng chưa phong phú và chưa có những phương tiện dạy học hỗ trợ riêng cho HS KTTT. 41,18% số GV còn lại chỉ thỉnh thoảng điều chỉnh và thay đổi phương tiện dạy học cho phù hợp với HS KTTT và có đến 29,41% số GV không thay đổi phương tiện dạy học mà chỉ sử dụng các phương tiện dạy học chung cho cả lớp. Về hình thức dạy học, thực tế quan sát và dự giờ cho thấy 6/17 giáo viên đã có sự thay đổi hình thức dạy học cho phù hợp với học sinh KTTT, tuy nhiên, chỉ ở mức độ thỉnh thoảng, chưa có sự thường xuyên điều chỉnh hình thức dạy học để học sinh KTTT theo kịp bài học và đạt được mục tiêu bài học riêng cho học sinh đã đề ra. Giáo viên thường xuyên sử dụng hình thức dạy học cả lớp cho học sinh KTTT như học sinh bình thường, hình thức dạy học cá nhân cho học sinh KTTT là rất ít do giáo viên chỉ chú trọng đến việc đảm bảo chất lượng đại trà cho tất cả các học sinh trong lớp. Kiểm tra đánh giá là một khâu rất quan trọng trong dạy học hòa nhập cho học sinh KTTT, đặc biệt là hiên nay quy trình kiểm tra đánh giá đã có rất nhiều thay đổi (theo thông tư 30). Tuy nhiên, chỉ có một số lượng rất nhỏ giáo viên (17,64%) quan tâm đến vấn đề mức độ nhận thức của học sinh KTTT. Do vậy, giáo viên cần phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá mức độ nhận thức của học sinh để kịp thời nắm bắt được sự tiến bộ của các em qua mỗi hoạt động, mỗi bài học, từng giai đoạn cụ thể. . . để có sự điều chỉnh phù hợp với năng lực và nhu cầu của học sinh. Sử dụng các phương pháp dạy học môn Toán cho HS KTTT lớp 1 hòa nhập Việc sử dụng các phương pháp dạy học một cách phù hợp và nhuần nhuyễn đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng dạy học nói chung và chất lượng dạy học môn Toán nói riêng. Đối với HS KTTT, phương pháp dạy học môn Toán mà giáo viên có ảnh hưởng rất lớn tới việc tiếp thu môn học này của HS. Chúng tôi đã tiến hành đánh giá mức độ vận dụng các phương pháp dạy học môn Toán cho HS KTTT và cách thức tiến hành các phương pháp dạy học này trong các tiết học Toán cho HS KTTT. Bảng 3. Mức độ vận dụng các phương pháp dạy học môn Toán Stt Các phương pháp dạy học môn Toán Mức độ vận dụng (%) Luôn luôn Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ 1 Phương pháp trực quan 100 0 0 0 2 Phương pháp vấn đáp gợi mở 0 82,35 11,76 5,89 3 Phương pháp dùng lời nói 100 0 0 0 4 Phương pháp thực hành luyện tập 0 88,24 11,76 0 5 Phương pháp sử dụng phiếu giao việc 0 0 58,82 41,18 6 Nhóm các phương pháp dạy học tích cực: PP phát hiện và giải quyết vấn đề, PP dạy học kiến tạo. . . 0 0 0 100 Có thể nói, tất cả các giáo viên được hỏi đều sử dụng PP trực quan và PP dùng lời nói khi dạy cho HS KTTT. Điều này được lí giải bởi đây là những phương pháp được sử dụng phổ biến trong tiến trình bài dạy môn Toán: GV có thể sử dụng PP dùng lời nói trong hầu hết các hoạt động của bài học như kiểm tra bài cũ, dạy bài mới (giới thiệu bài, nêu khái niệm, nêu ví dụ. . . ), hoặc đối với PP trực quan, GV sử dụng các phương tiện trực quan như vật thật, các đồ dùng dạy học 228 Thực trạng dạy học toán cho học sinh khuyết tật trí tuệ lớp 1 tại một số trường tiểu học hòa nhập ở Hà Nội trong môn Toán như que tính, thẻ số, các biểu tượng toán học. . . để giúp học sinh tiếp cận với nội dung bài học. Hai phương pháp này được GV sử dụng trong hầu hết các tiết dạy học Toán cho tất cả các đối tượng học sinh, trong đó có HS KTTT; tuy nhiên, hiệu quả sử dụng của PP dùng lời nói là chưa cao vì HS ít có cơ hội được tham gia tích cực vào các hoạt động trong giờ học Toán trong khi PP trực quan lại giúp HS nắm bắt kiến thức và kĩ năng Toán một cách tốt hơn vì các em được hoạt động trực tiếp trên các phương tiện trực quan, tạo hứng thú cho người học. PP vấn đáp gợi mở, và PP thực hành luyện tập được các GV ở 3 trường điều tra sử dụng thường xuyên trong các tiết học Toán. Các GV trong khu vực điều tra cho biết, họ sử dụng PP vấn đáp gợi mở (82,35%) nhiều đối với đối tượng HS KTTT, tuy nhiên, việc sử dụng PP chưa thực sự hiệu quả vì HS KTTT thường không trả lời được các câu hỏi mà GV đưa ra, ngay cả khi GV đã đưa nhiều gợi ý hay chia nhỏ câu hỏi thành nhiều ý để giúp HS có thể trả lời được. Một số GV cho hay, nếu như tập trung quá nhiều vào các câu hỏi cho HS KTTT thì tiến trình bài học sẽ bị ảnh hưởng; cho nên, khi một HS KTTT không trả lời được câu hỏi GV đề ra, HS khác sẽ được GV gọi để hỗ trợ bạn trả lời câu hỏi và HS KTTT đó sẽ được yêu cầu nhắc lại câu trả lời. . . Bên cạnh đó, PP thực hành luyện tập được 88,24% số GV sử dụng nhiều trong các bài học để giúp HS KTTT hiểu rõ nội dung bài và luyện tập nhiều sẽ giúp các em hình thành kĩ năng toán học. Bên cạnh đó, PP sử dụng phiếu giao việc ít được GV sử dụng cho HS KTTT bởi thông thường HS KTTT không thực hiện được các yêu cầu trong phiếu giao việc. 58,82% số GV được hỏi thỉnh thoảng sử dụng PP này cho HS dưới hình thức nhóm, HS KTTT được thực hiện nhiệm vụ trong phiếu giao việc dưới sự dẫn dắt của các bạn trong nhóm và của giáo viên. 41,18% số GV còn lại không bao giờ sử dụng PP này cho HS KTTT. Nhóm các PP dạy học tích cực không bao giờ được GV sử dụng cho HS KTTT bởi các GV cho rằng HS KTTT có nhiều hạn chế về mặt tư duy cũng như kĩ năng, việc sử dụng các PP dạy học tích cực vào bài học sẽ khiến các em thêm khó hiểu và không tham gia vào các hoạt động học trên lớp. Tuy nhiên, điều này chưa hẳn là đúng bởi việc vận dụng khéo léo các PP dạy học tích cực phù hợp vào các nội dung của môn Toán sẽ giúp cho không chỉ HS bình thường mà cả HS KTTT có sự hứng thú và yêu thích môn Toán hơn. Việc sử dụng các PP dạy học trong môn Toán cho HS KTTT hiện nay chưa được các trường tiểu học trong địa bàn khảo sát quan tâm sát sao và việc lựa chọn các PPDH cho HS KTTT của các GV lớp 1 chỉ dựa trên kinh nghiệm và đặc điểm cụ thể của các HS KTTT lớp mình chủ nhiệm. Một số giáo viên chưa có những định hướng đúng đắn trong việc điều chỉnh vận dụng các PPDH trong môn Toán, khiến cho hiệu quả việc học Toán của HS KTTT học lớp 1 hòa nhập là chưa được cao. Sử dụng các hình thức dạy học môn Toán cho HS KTTT lớp 1 hòa nhập Bảng 4. Mức độ vận dụng các hình thức dạy học môn Toán Stt Các hình thức dạy học môn Toán Mức độ vận dụng (%) Luôn luôn Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ 1 Hình thức dạy học theo lớp 0 100 0 0 2 Hình thức dạy học hợp tác nhóm 0 11,76 70,58 17,66 3 Hình thức dạy học cá nhân 0 0 76,48 23,52 229 Nguyễn Hà My Cùng với việc sử dụng hợp lí các PPDH Toán, việc tổ chức tốt và đa dạng hóa các hình thức dạy học khác nhau trong tiết dạy Toán cũng góp phần không nhỏ vào việc hình thành kiến thức và kĩ năng học Toán cho HS KTTT. Kết quả điều tra về việc sử dụng các hình thức dạy học môn Toán cho HS KTTT lớp 1 hòa nhập cho thấy tất cả GV được hỏi đều tổ chức hình thức dạy học theo lớp. Qua dự giờ và quan sát cho thấy, việc tổ chức hình thức dạy học theo lớp hiện nay được GV sử dụng rất thường xuyên nhằm cung cấp một nội dung kiến thức mới hay hướng dẫn kĩ năng, hướng dẫn bài tập cho cả lớp. Đây là hình thức chủ yếu mà GV lựa chọn để tiến hành các PPDH. Ở hình thức này, chủ yếu là các hoạt động của GV, HS ít có cơ hội được tham gia trực tiếp vào các hoạt động, đặc biệt là các HS KTTT. Ở hình thức dạy học hợp tác nhóm, 70,58% GV thỉnh thoảng sử dụng hình thức này trong các hoạt động dạy học trên lớp. Chỉ có 11,76% GV được hỏi sử dụng hình thức này một cách thường xuyên. GV lí giải lí do chỉ thỉnh thoảng sử dụng hình thức này bởi HS lớp 1 vẫn chưa quen với việc hoạt động nhóm. Vì vậy, để đảm bảo tiến trình dạy học, GV chỉ sử dụng hình thức làm việc nhóm đôi trong một số hoạt động như đối chiếu kết quả bài tập. . . Đối với hình thức dạy học cá nhân, 76,48% GV thỉnh thoảng thực hiện hình thức dạy học này đối với HS KTTT (chủ yếu trong các giờ hướng dẫn học), thậm chí 23,52% GV không bao giờ sử dụng hình thức này đối với HS KTTT lớp mình. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến HS KTTT bởi các vốn có những hạn chế về hoạt động trí tuệ và hành vi thích ứng thể hiện ở các kĩ năng nhận thức, xã hội và kĩ năng thích ứng thực tế cho nên, việc sử dụng hình thức dạy học cá nhân s