TÓM TẮT
Nâng cao chất lượng giảng dạy môn Giáo dục học ở trường Đại học Hồng Đức
hiện nay đang là vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý, giảng viên dạy môn giáo dục học:
làm thế nào để tri thức khoa học giáo dục trở nên sinh động, hấp dẫn, có sức thuyết
phục đối với sinh viên và sinh viên sau khi ra trường có thể đáp ứng ngay được yêu cầu
công tác giảng dạy và giáo dục ở trường phổ thông. Bài viết đi sâu tìm hiểu nhận thức,
mức độ tích cực, kết quả học tập . của sinh viên trong các giờ học, từ đó góp phần xây
dựng các cách thức vận dụng quan điểm sư phạm tương tác trong dạy học môn giáo dục
học, nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 274 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng học tập môn Giáo dục học của sinh viên trường Đại học Hồng Đức theo quan điểm sư phạm tương tác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
 30
THỰC TRẠNG HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC HỌC CỦA SINH VIÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC THEO QUAN ĐIỂM SƯ PHẠM 
TƯƠNG TÁC 
Đỗ Thị Hồng Hạnh1 
TÓM TẮT 
Nâng cao chất lượng giảng dạy môn Giáo dục học ở trường Đại học Hồng Đức 
hiện nay đang là vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý, giảng viên dạy môn giáo dục học: 
làm thế nào để tri thức khoa học giáo dục trở nên sinh động, hấp dẫn, có sức thuyết 
phục đối với sinh viên và sinh viên sau khi ra trường có thể đáp ứng ngay được yêu cầu 
công tác giảng dạy và giáo dục ở trường phổ thông. Bài viết đi sâu tìm hiểu nhận thức, 
mức độ tích cực, kết quả học tập ... của sinh viên trong các giờ học, từ đó góp phần xây 
dựng các cách thức vận dụng quan điểm sư phạm tương tác trong dạy học môn giáo dục 
học, nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. 
Từ khóa: Quan điểm sư phạm tương tác, môn giáo dục học 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Quan điểm sư phạm tương tác (SPTT) là một hướng tiếp cận dạy học tổng hợp, 
tập trung vào người học, xác định rõ vai trò của từng yếu tố dạy học, thúc đẩy mối quan 
hệ tương tác giữa các yếu tố người dạy, người học và môi trường. Tương tác tạo nên 
động lực của quá trình dạy học, làm tăng các giá trị tương tác giữa các yếu tố, khắc phục 
tính thụ động, đơn điệu, xuôi chiều của quan hệ dạy và học. Với vai trò chủ đạo, người 
dạy có thể kiểm soát được quá trình dạy học, những tác động đồng bộ tới người học và 
môi trường sẽ mang lại hiệu quả cao cho quá trình dạy học, đồng thời với vai trò chủ 
động người học thể hiện sự năng động, sáng tạo trong tương tác với thầy và bạn, tận 
dụng môi trường thuận lợi để nắm vững tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo. 
 Thực hiện nhiệm vụ đào tạo của trường ĐH Hồng Đức, giáo dục học (GDH) là 
môn khoa học ứng dụng có tính nghề nghiệp cao với nhiệm vụ trang bị cho sinh viên sư 
phạm (SVSP) hệ thống những tri thức, hiểu biết về nghề nghiệp, nguyên lý cơ bản của 
giáo dục học Mác xít; đường lối quan điểm giáo dục của Đảng và Nhà nước; hệ thống 
kiến thức về lý luận dạy học và giáo dục; hình thành ở người học hệ thống kỹ năng sư 
phạm và hệ thống thái độ, phẩm chất nghề nghiệp nhằm tổ chức hiệu quả hoạt động dạy 
học và giáo dục ở nhà trường phổ thông sau này. 
1 ThS. Bộ môn Tâm lí - Giáo dục, Trường Đại học Hồng Đức 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
31
Nâng cao chất lượng giảng dạy môn GDH ở trường ĐH Hồng Đức hiện nay đang 
là vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý, giảng viên dạy GDH: làm thế nào để tri thức về 
khoa học giáo dục trở nên sinh động, hấp dẫn, có sức thuyết phục đối với SVSP và 
SVSP sau khi ra trường có thể đáp ứng ngay được yêu cầu công tác giảng dạy và giáo 
dục ở trường phổ thông. Với hướng tiếp cận quan điểm SPTT, hy vọng sẽ tìm ra những 
cách thức tổ chức dạy học môn GDH đem lại hiệu quả, nâng cao chất lượng dạy học 
môn học. 
2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
 Để tìm hiểu thực trạng tổ chức dạy học môn GDH ở trên lớp, chúng tôi đã tiến 
hành bằng nhiều phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng như: quan sát, nghiên 
cứu sản phẩm, điều tra bằng phiếu câu hỏi, phỏng vấn và trao đổi với sinh viên (SV), 
giảng viên (GV) đang giảng dạy môn GDH ở trường ĐH Hồng Đức. Nhưng do thời gian 
và điều kiện có hạn, trong bài viết này chúng tôi chỉ đi sâu vào vấn đề: Thực trạng học 
tập môn GDH của SV trường ĐH Hồng Đức theo quan điểm SPTT. 
2.1. Nhận thức của SV về mục đích học tập môn GDH 
 Mục đích học tập là động lực thúc đẩy hoạt động học tập của SV trên cơ sở đó 
chi phối sự tham gia của SV vào các tương tác dạy học quy định hiệu quả hoạt động học 
tập của SV. Tìm hiểu SVSP về mục đích học tập môn GDH, chúng tôi thu được kết quả 
ở bảng 1. 
Bảng 1. Nhận thức của SV về mục đích học tập môn GDH 
Mục đích học tập 
Mức độ ( n = 232 ) 
Rất nhiều Nhiều Tương đối 
nhiều 
Ít Không 
SL % SL % SL % SL % SL % 
1. Hoàn thành 
chương trình học 
81 34.9 69 29.7 55 23.7 24 10.3 3 1.3 
2. Vận dụng vào 
rèn luyện nhân 
cách của bản thân. 
55 23.7 85 36.6 55 23.7 33 14.2 4 1.7 
3. Giải thích các 
hiện tượng GD 
trong cuộc sống 
30 12.9 55 23.7 83 35.8 55 23.7 9 3.9 
4. Phục vụ dạy học 
và giáo dục học 
sinh sau này 
79 34.1 67 28.9 49 21.1 23 9.9 14 6.0 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
 32
5. Phục vụ các 
nhiệm vụ khi đi thực 
tế, thực tập sư phạm 
45 19.4 79 34.1 54 23.2 37 15.9 17 7.3 
6. Làm đề tài 
nghiên cứu khoa 
học 
14 6.0 30 12.9 32 13.8 61 26.3 95 40.9 
7. Học môn 
phương pháp giảng 
dạy bộ môn tốt hơn 
45 19.4 64 27.6 62 26.7 42 18.1 19 8.2 
Số liệu ở bảng 1 cho thấy: Đa số SV đã xác định đúng đắn mục đích học tập môn 
GDH là hoàn thành chương trình môn học (xếp thứ 1), phục vụ nghề nghiệp sau này 
(xếp thứ 2), rèn luyện nhân cách bản thân ... Tuy nhiên một số mục đích khác thì chưa 
được SV coi trọng như: giúp SV học tốt môn phương pháp giảng dạy (xếp thứ 5), hay 
giúp SV đi thực tế, thực tập sư phạm (xếp thứ 4) đặc biệt là để giúp SV làm đề tài khoa 
học (xếp thứ 7) ... 
 Như vậy: Nhìn chung SV đã xác định đúng đắn mục đích học tập môn GDH ở 
trường ĐH. Tuy nhiên SV tham gia vào học tập môn GDH với động lực chưa thật sự sâu 
sắc, mạnh mẽ nên tính tích cực, chủ động học tập môn học chưa cao, ảnh hưởng không 
tốt tới sự tham gia của SV vào các mối quan hệ tương tác trong dạy họ, ảnh hưởng tới 
kết quả học tập môn GDH. 
2.2. Mức độ tích cực của SV trong học tập môn GDH 
 Tính tích cực tham gia học tập của SV vào giờ học GDH quy định hiệu quả hoạt 
động học tập môn GDH của SV. Tìm hiểu về kết quả này thông qua sự tự đánh giá của 
SV, chúng tôi thu được kết quả ở bảng 2 như sau: 
Bảng 2. SV tự đánh giá về mức độ tích cực tham gia học tập trong các giờ học 
môn GDH 
STT Mức độ tham gia học tập của SV SL ( n= 232) % 
1 Rất tích cực 2 0.8 
2 Tích cực 26 11.2 
3 Bình thường 158 68.1 
4 Không tích cực 41 17.7 
5 Không ý kiến 5 2.2 
Số liệu ở bảng 2 cho thấy: Sự chủ động tích cực tham gia của SV vào môi trường 
học tập chưa cao, chủ yếu là ở mức độ bình thường chiếm 68.1%, mức độ rất tích cực và 
tích cực chiếm tỷ lệ rất ít (0.8 và 11.2%) và ở mức độ không tích cực chiếm tỷ lệ đáng kể 
là 17.7%. Qua thực tế dự giờ, quan sát một số giờ GDH ở trường ĐH Hồng Đức, chúng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
33
tôi thấy có sự phù hợp với kết quả nghiên cứu trên, biểu hiện ở chỗ: khi GV đặt ra câu 
hỏi thì rất ít SV giơ tay phát biểu, khi GV gọi SV phát biểu, các ý kiến của SV nêu ra 
cũng rất mơ hồ, kém sự đầu tư suy nghĩ. Trong các giờ học môn GDH, GV rất ít nhận 
được các câu hỏi từ phía SV  Điều này cho thấy sự thụ động, chưa tích cực nỗ lực 
tham gia vào giờ học của SV có thể làm hạn chế sự tương tác giữa GV và SV, do đó ảnh 
hưởng đến hiệu quả nhận thức của SV. 
2.3. Kết quả học tập của SV trong các giờ học GDH 
 Tìm hiểu về vấn đề này chúng tôi thu được kết quả ở bảng 3. 
Bảng 3. SV tự đánh giá mức độ nhận thức đạt được trong các giờ học trên lớp môn GDH 
TT 
Mức độ nhận thức 
Mức độ ( n= 232 ) 
Thường xuyên Đôi khi Không bao giờ 
SL % SL % SL % 
1 Nhớ 25 10.7 189 81.5 18 7.8 
2 Hiểu 103 44.4 125 53.9 4 1.7 
3 Vận dụng 35 15.0 155 66.8 42 18.1 
4 Mơ hồ khó hiểu 38 16.4 153 65.9 41 17.7 
5 Không hiểu 21 9.0 122 52.6 89 38.4 
Số liệu ở bảng 3 cho thấy: đa số SV đã nhận thức được ở mức độ tương đối tốt 
các vấn đề của bài học, mức độ hiểu là phổ biến chiếm đa số (xếp thứ 1); mức độ nhớ 
(xếp thứ 2); mức độ vận dụng (xếp thứ 3). Tuy nhiên vẫn còn không nhỏ SV đôi khi rơi 
vào trạng thái mơ hồ, khó hiểu (153 SV – 65.9%) hoặc không hiểu (122 SV – 52.6%) 
trong các giờ học môn GDH. Số SV đạt đến mức độ cao của nhận thức là vận dụng kiến 
thức vào giải quyết các tình huống, các vấn đề giáo dục, dạy học còn chưa nhiều (35 SV 
– 15%). Để làm rõ lý do tại sao SV lại không hiểu bài hay mơ hồ khi lĩnh hội kiến thức 
chúng tôi đã nêu một số câu hỏi: Em có khi nào thấy mình khó hiểu hay mơ hồ khi GV 
giảng bài không? Theo em thì tại sao lại có điều đó? Do kiến thức môn học trừu tượng, khó 
hiểu? Do cách giảng của GV hay do không theo dõi kịp, không tích cực học tập môn này 
? Kết quả chúng tôi thu được nhiều ý kiến giải thích của SV, trong đó các ý kiến chủ yếu 
là: do bản thân SV chưa thực sự hứng thú, tự giác, tích cực tham gia vào các giờ học môn 
GDH; do lớp học đông SV, GV ít có điều kiện cá biệt hoá dạy học, GV ít chú ý kiểm tra, 
đánh giá sự nỗ lực học tập của SV trong quá trình học, do đó SV chỉ học khi ôn thi. 
 Qua kết quả tự đánh giá của SV về thái độ và mức độ nhận thức đạt được của SV 
trong các giờ học môn GDH cho thấy: kết quả học tập của SV đối với môn GDH là chưa cao. 
Tìm hiểu những nội dung cụ thể mà SV thu lượm được trong các giờ GDH như 
thế nào? Chúng tôi thu được kết quả ở bảng 4: 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
 34
Bảng 4. SV tự đánh giá kết quả thu lượm được trong các giờ học môn GDH 
TT 
Nội dung 
Mức độ ( n = 232 ) 
Rất nhiều Nhiều 
Tương đối 
nhiều 
Ít Không 
SL % SL % SL % SL % SL % 
1 
Tri thức môn 
GDH 
22 9.5 43 18.5 112 48.3 54 23.3 1 0.4 
2 
Cách thức tiếp 
cận tri thức môn 
học 
12 5.1 32 13.7 47 20.2 102 43.9 39 16.8 
3 
Cách thức tổ 
chức DH 
11 4.7 47 20.2 82 35.3 79 34.0 13 5.6 
4 
Kỹ thuật sử dụng 
các PP, PTDH 
9 3.8 29 12.5 48 20.6 107 46.1 39 16.8 
5 
Phương thức 
giao tiếp, ứng xử 
của giáo viên. 
42 18.1 57 24.5 83 35.7 45 19.3 5 2.1 
 Kết quả nghiên cứu ở bảng 4 cho thấy: SV tự đánh giá kết quả mà họ đã thu nhận 
được nhiều nhất trong các giờ học môn GDH là phương thức giao tiếp ứng xử của GV 
(xếp thứ 1). Điều này cho thấy: Sự ảnh hưởng của phương thức giao tiếp ứng xử của GV 
trong dạy học đối với SVSP là rất lớn bởi trong dạy học SV vừa là đối tượng vừa là chủ 
thể tham gia vào mối quan hệ tương tác thầy – trò. Mặt khác với ý thức trau dồi nghề 
nghiệp, SVSP luôn quan tâm tới việc hình thành kỹ năng giao tiếp ứng xử của người 
giáo viên tương lai. Tuy nhiên, SV mới chỉ chú ý đến nội dung môn học (xếp thứ 2) và ít 
chú ý tới phương pháp tiếp cận tri thức, cách thức tổ chức dạy học (xếp thứ 4) đặc biệt là 
kỹ thuật sử dụng các PPDH, phương tiện dạy học (xếp thứ 5), còn có nhiều SV không 
thu hoạch được gì từ yếu tố này. Qua đó cho thấy: SV chưa thực sự có được phương 
pháp học tập ở đại học và ý thức tiếp cận các phương pháp thông qua cách thức tổ chức 
dạy học của GV. Do đó dẫn tới kết quả học tập môn GDH của SV chưa cao. 
Tóm lại: Đa số SV học tập môn GDH với ý thức động cơ chưa thật sâu sắc, mạnh 
mẽ và chưa có phương pháp học tập ở đại học do đó SV chưa tích cực tham gia vào giờ 
học, kết quả học tập các giờ học môn GDH chưa cao. Kết quả này do nhiều nguyên 
nhân: trách nhiệm của SV đối với việc học tập môn GDH chưa cao và có thể SV chưa có 
được môi trường học tập thuận lợi dưới sự tổ chức hướng dẫn hoạt động học hiệu quả 
của GV ... 
3. MỘT VÀI NHẬN XÉT 
Quan điểm SPTT là một hướng tiếp cận dạy học tổng hợp, khoa học, cơ bản và 
năng động: tập trung vào người học và cơ bản dựa trên tác động qua lại: người dạy – 
người học – môi trường làm gia tăng giá trị các mối quan hệ tương tác dạy học; yếu tố 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
35
môi trường thực sự được quan tâm mang lại cho người học sự thành công nhiều nhất 
trong việc học thực hiện mục tiêu dạy học. Trong quan điểm SPTT, vai trò của người 
học có tính chất quyết định. Người học là người kiến tạo kiến thức cho bản thân bằng sự 
huy động tiềm năng của chính mình (bộ máy học, vốn kinh nghiệm, trí tuệ ) dưới sự 
tác động của người dạy và môi trường. Để làm tròn trách nhiệm của mình đòi hỏi người 
học phải có sự hứng thú, tham gia tích cực và có trách nhiệm vào quá trình học. Người 
dạy với vai trò hướng dẫn, giúp đỡ tạo điều kiện người học thực hiện hoạt động học theo 
những mục tiêu xác định trong chương trình học thông qua các phương pháp sư phạm 
của mình. Môi trường dạy học có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới người dạy, 
người học mà chính họ cũng góp phần tạo dựng để rồi cùng chịu ảnh hưởng, cùng biến 
đổi và cùng thích nghi. 
 Thực tế dạy học môn GDH ở trường ĐH Hồng Đức hiện nay đã có nhiều đổi mới 
song kết quả nghiên cứu cho thấy: tính chất xuôi chiều trong dạy học vẫn còn phổ biến, 
tính tích cực, hiệu quả học tập của SV trong các giờ GDH chưa cao, đa số SV chưa có 
phương pháp học tập ở đại học. Điều này ảnh hưởng tới chất lượng dạy học môn GDH. 
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên: do ý thức, động cơ học tập môn GDH 
của SV chưa thật sâu sắc, mạnh mẽ; SV chưa chuẩn bị chu đáo về mọi mặt khi tham gia 
vào quá trình học; môi trường học tập môn GDH chưa kích thích được sự hứng thú, tính 
tích cực hoạt động học của SV; khả năng kiểm soát quá trình học của SV còn nhiều hạn 
chế  Vì vậy cần có các cách thức tổ chức dạy học môn GDH mang tính đồng bộ, hiệu 
quả và khả thi tác động đến GV, SV và môi trường học tập của SV nhằm nâng cao ý 
thức học tập, tính chủ động tích cực, sự hứng thú của SV khi tham gia vào quá trình học 
góp phần nâng cao kết quả học tập của SV, hiệu quả dạy học môn GDH. 
Với cách tiếp cận dạy học của quan điểm SPTT, đặc điểm hoạt động dạy học 
môn GDH và thực tiễn dạy học môn GDH ở trường ĐH Hồng Đức hiện nay cho thấy: 
khả năng ứng dụng quan điểm SPTT là cần thiết và hoàn toàn có thể, nhằm nâng cao 
chất lượng dạy học GDH. Để làm được điều đó ở trường ĐH Hồng Đức hiện nay đòi 
hỏi một sự tác động đồng bộ tới các yếu tố dạy học, trong mọi khâu của quá trình dạy 
học nhằm nâng cao ý thức và chuẩn bị tốt cho các chủ thể tham gia vào dạy học, tạo môi 
trường tích cực đa tương tác, trên cơ sở đó thực hiện tốt mục tiêu dạy học. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Nguyễn Như An (1996), Phương pháp dạy học Giáo dục học, NXB.ĐHQGHN. 
[2] Nguyễn Ngọc Bảo và Hà Thị Đức (1998), Hoạt động dạy học ở trường THCS, 
NXB. GDHN. 
[3] Đặng Thành Hưng (2005), Tương tác thầy – trò trên lớp học, NXB.GD Hà nội. 
[4] Jean – Marc Denommé và Madeleine Roy (2000), Tiến tới một phương pháp sư 
phạm tương tác, NXB. Thanh Niên, Hà Nội. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 10. 2012 
 36
[5] Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 9 của BCHTWĐ, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[6] Nguyễn Thành Vinh (2006), Tổ chức dạy học theo quan điểm sư phạm tương tác 
trong các trường (khoa) cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo hiện nay, Luận án 
TS. Hà Nội. 
VIEWING THE REALITY OF PEDAGOGICAL LEARNING 
ACTIVITIES AMONG THE STUDENTS OF HONG DUC 
UNIVERSITY FROM THE CONCEPT OF INTERACTIVE 
TEACHING 
ABSTRACT 
How to improving the quality of teaching Pedagogics at Hong Duc University is 
a challenging issue for the administrators and lecturers of Pedagogics. In order to make 
the pedagogical science more interesting and appealing to the students and to equip 
them with the required knowledge to meet the teaching requirements in schools, this 
article studies deeper into the awareness, activeness and study results of the students 
during their classes so that it can help to form the ways of applying the concept of 
intereaction in pedagogical teaching to enhance the teaching quality of this subject.