Theo đó, hiện nay, chất lượng môi trường nước
tại các lưu vực sông đang diễn biến phức tạp, bị
suy thoái ở nhiều nơi, đặc biệt ở các đoạn sông
chảy qua các khu vực đô thị, khu công nghiệp,
làng nghề. Các dòng sông là nguồn cung cấp nước
sinh hoạt chính cho người dân phía hạ lưu, đặc
biệt là người dân ở vùng nông thôn thường sử
dụng trực tiếp nước sông, hồ bị ô nhiễm, đây là
nguyên nhân gây ra nhiều bệnh tật, tác động trực
tiếp đến điều kiện sống, sức khoẻ, và phát triển
kinh tế - xã hội.
Tình trạng này dẫn đến yêu cầu cấp bách phải
có các giải pháp quản lý, các chính sách đồng bộ
kiểm soát tình trạng ô nhiễm tài nguyên nước đang
ngày càng gia tăng và gây tác động không nhỏ đến
sức khỏe dân cư, gây thiệt hại kinh tế và ảnh hưởng
đến tăng trưởng của đất nước.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 563 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng, nguyên nhân, thách thức về ô nhiễm các nguồn nước ở Việt Nam và đề xuất giải pháp quản lý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
13NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 143 - tháng 9/2019
THÖÏC TRAÏNG, NGUYEÂN NHAÂN, THAÙCH THÖÙC
VEÀ OÂ NHIEÃM CAÙC NGUOÀN NÖÔÙC ÔÛ VIEÄT NAM
VAØ ÑEÀ XUAÁT GIAÛI PHAÙP QUAÛN LYÙ
ThS. NGUYỄN THị VIỆT HồNG*
ThS. NGUYỄN THU PHƯơNG*
*Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường
Theo đó, hiện nay, chất lượng môi trường nước
tại các lưu vực sông đang diễn biến phức tạp, bị
suy thoái ở nhiều nơi, đặc biệt ở các đoạn sông
chảy qua các khu vực đô thị, khu công nghiệp,
làng nghề. Các dòng sông là nguồn cung cấp nước
sinh hoạt chính cho người dân phía hạ lưu, đặc
biệt là người dân ở vùng nông thôn thường sử
dụng trực tiếp nước sông, hồ bị ô nhiễm, đây là
nguyên nhân gây ra nhiều bệnh tật, tác động trực
tiếp đến điều kiện sống, sức khoẻ, và phát triển
kinh tế - xã hội.
Tình trạng này dẫn đến yêu cầu cấp bách phải
có các giải pháp quản lý, các chính sách đồng bộ
kiểm soát tình trạng ô nhiễm tài nguyên nước đang
ngày càng gia tăng và gây tác động không nhỏ đến
sức khỏe dân cư, gây thiệt hại kinh tế và ảnh hưởng
đến tăng trưởng của đất nước.
Thực trạng ô nhiễm và các nguyên nhân chính
gây ô nhiễm các dòng sông tại Việt Nam
Nước ta có 108 lưu vực sông với khoảng 3.450
sông, suối với chiều dài từ 10 km trở lên. Tổng
lượng nước mặt trung bình khoảng từ 830 tỷ m3
đến 840 tỷ m3, trong đó, có hơn 60% lượng nước
được bắt nguồn từ nước ngoài, chỉ có khoảng từ
310 tỷ m3 đến 320 tỷ m3 được sản sinh trên lãnh
thổ Việt Nam. Tài nguyên nước của Việt Nam lại
chỉ được xếp vào mức trung bình trên thế giới và
ẩn chứa nhiều yếu tố không bền vững. Nước ta
hiện có khoảng 7.000 hồ chứa, đập dâng lớn, nhỏ
với tổng dung tích trên 70 tỷ m3, chiếm khoảng
8% tổng lượng nước trên các lưu vực sông (Hình
1). Tuy nhiên, cũng như một số nước đang phát
triển trên thế giới, Việt Nam hiện đang phải đối
mặt với thách thức hết sức gay cấn về tình trạng ô
nhiễm, cạn kiệt các nguồn nước, đặc biệt là tại các
khu công nghiệp và đô thị, nơi hầu hết hệ thống
sông ngòi, hồ ao đều bị ô nhiễm. Đây là một trong
những vấn đề nóng gây tác động lớn đến đời sống,
kinh tế, xã hội, phát triển và bảo vệ môi trường.
1Báo cáo Việt Nam hướng tới một hệ thống nước có tính thích ứng, sạch và an toàn, Ngân hàng Thế giới, 2019
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ khá cao những năm qua, tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam cũng đang diễn ra với tốc độ tương đối nhanh, góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế, nâng cao chất lượng và đời sống của người dân. Điều này tạo nên áp lực lớn đến tài nguyên nước. Dưới những áp lực về phát triển kinh tế - xã hội, đô thị hóa, dân số gia tăng,
với tốc độ khá cao những năm qua đã làm cho nguồn tài nguyên nước càng bị ô nhiễm trong những năm
gần đây. Ngân hàng Thế giới đã nhận định ô nhiễm tài nguyên nước đang là mối đe dọa ảnh hưởng đến
kinh tế tài nguyên nước lớn nhất của Việt Nam, có khả năng gây thiệt hại gần 4% GDP vào năm 20351.
Từ khóa: Ô nhiễm nguồn nước.
Current situation, causes and challenges on pollution of water sources in Vietnam and management
solutions proposal
Along with the relatively high speed of socio-economic development in recent years, the speed of
urbanization in Vietnam is also happening at a relatively fast pace, which contributes to the growth of the
economy, improves the quality and life of the people. This has put great pressure on water resources. Under
pressures of socio-economic development, urbanization, and population growth at a relatively high rate
over the years, water resources have been polluted in recent years. The World Bank has identified water
pollution as the biggest threat to Vietnam’s water resources economy, potentially causing a loss of nearly 4%
of GDP by 2035.
key words: Water pollution.
14
QUAÛN LYÙ RAÙC THAÛI, NÖÔÙC THAÛI VÌ SÖÏ PHAÙT TRIEÅN BEÀN VÖÕNG VAØ VAI TROØ CUÛA KIEÅM TOAÙN NHAØ NÖÔÙC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 143 - tháng 9/2019
Nguồn nước mặt và nước dưới đất có thể khai thác, nước trong hồ chứa trong hồ chứa thủy lợi vào mùa khô
Theo lưu vực sông, hiện nay chất lượng nguồn
nước ở các khu vực đầu nguồn còn tương đối tốt,
một số ít khu vực có dấu hiệu ô nhiễm cục bộ tại một
số thời điểm. Vấn đề ô nhiễm nguồn nước vẫn tập
trung chủ yếu ở vùng trung lưu và hạ lưu (đặc biệt là
các đoạn chảy qua khu vực đô thị, khu công nghiệp,
làng nghề), nhiều nơi ô nhiễm ở mức nghiêm trọng
hơn như ở lưu vực sông Nhuệ - Đáy, lưu vực sông
Cầu, lưu vực sông Đồng Nai. Trên các lưu vực sông,
mức độ ô nhiễm phụ thuộc vào chế độ thủy văn
dòng chảy (mức độ ô nhiễm thường tăng cao hơn
vào mùa khô) và vào việc kiểm soát các nguồn thải
đổ vào nguồn nước. Nguồn nước tại các khu vực bị ô
nhiễm hầu hết do các chất hữu cơ và vi sinh vật vượt
ngưỡng cho phép, tình trạng ô nhiễm hữu cơ diễn ra
khá phổ biến tại nhiều lưu vực sông.
Trong thời gian qua, chất lượng nguồn nước các
lưu vực sông chính đã và đang dần được kiểm soát
về mức độ gia tăng ô nhiễm, đặc biệt là các đoạn
sông ô nhiễm nghiêm trọng mức độ ô nhiễm đang
dần được cải thiện như sông Thị Vải tại tỉnh Đồng
Nai, sông Đồng Nai tại các tỉnh Đồng Nai, Bình
Dương. Tuy nhiên, một số chỉ tiêu về chất lượng
nước mặt trên các lưu vực sông này vẫn chưa đạt
yêu cầu. Theo kết quả nghiên cứu của Ngân hàng
Thế giới, không một lưu vực sông nào có chất lượng
nước mặt đáp ứng tiêu chuẩn ô nhiễm hữu cơ đối
với nước uống của Tổ chức Y tế Thế giới. Hình 2
trình bày chất lượng nước của sông Mê Kông từ
2012-2014 so với tiêu chuẩn hướng dẫn của Ủy hội
sông Mê Kông, Tổ chức Y tế Thế giới và Cơ quan
bảo vệ môi trường Hoa Kỳ.
Mức độ ô nhiễm trên lưu vực sông Mê Kông theo hướng dẫn của Ủy hội sông Mê Kông, Tổ chức Y tế Thế giới
và Cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ
15NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 143 - tháng 9/2019
Thực tế tình trạng ô nhiễm các dòng sông, nhất
là các dòng sông chảy qua các đô thị, khu công
nghiệp, làng nghề... và các sông nhỏ ở khu vực
đồng bằng khá nghiêm trọng. Nguồn gây ô nhiễm
các dòng sông bao gồm: Nước thải sinh hoạt, công
nghiệp, nông nghiệp, làng nghề, y tế và một lượng
không nhỏ chất thải rắn không được kiểm soát, đổ
bừa bãi không đúng quy định. Lượng nước thải
sinh hoạt và công nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất
trong cơ cấu các loại hình nước thải phát sinh, xả
ra các dòng sông.
Tỷ lệ nước thải sinh hoạt trên tổng lượng nước
thải trực tiếp ra các sông hồ, hay kênh rạch dẫn
ra sông khá cao, chiếm đến trên 30%. Lượng nước
thải phát sinh trên một đơn vị diện tích đất ở khu
vực đô thị lớn hơn nhiều so với khu vực nông
thôn. Điều này dẫn đến tình trạng quá tải của các
hệ thống thoát nước và tiếp nhận nước thải tại
các thành phố, ảnh hưởng lớn đến chất lượng các
nguồn tiếp nhận. Hiện nay, hệ thống thoát nước
đô thị Việt Nam chủ yếu dùng chung cho cả thoát
nước thải và nước mưa, đây là nguyên nhân khó
khăn cho việc thu gom, xử lý nước thải tập trung
tại các khu đô thị. Trong các năm gần đây số lượng
công trình xử lý nước thải đô thị tập trung có tăng
qua các năm, tuy nhiên con số này còn rất nhỏ so
với yêu cầu thực tế cần xử lý. Ở các đô thị lớn, tỷ
lệ lượng nước thải được xử lý cao hơn các đô thị
vừa và nhỏ nhưng vẫn ở mức thấp, chưa đáp ứng
được với tốc độ đô thị hóa hiện nay. Theo thống
kê sơ bộ của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nếu
chỉ tính riêng các đô thị loại III trở lên, hiện nay
mới có 43 nhà máy xử lý nước thải tập trung (39%)
đang hoạt động nhưng cũng mới chỉ thu gom, xử
lý được khoảng 926 nghìn m3/ngày (khoảng 13%
lượng nước thải phát sinh). Nếu tính cả khoảng 40
nhà máy xử lý nước thải đô thị tập trung đang được
xây dựng, thì khi hoàn thành cũng chỉ thu gom, xử
lý được khoảng 2,4 triệu m3/ngày, tương đương với
gần 40% lượng nước thải đô thị cần xử lý. Nhiều
nhà máy đã xây dựng xong hệ thống xử lý nhưng
chưa hoàn thành hệ thống cấp thoát nước đồng bộ,
dẫn đến các nhà máy chưa hoạt động hết công suất
thiết kế.
Đối với nước thải công nghiệp, trong mấy năm
gần đây, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tập trung
nguồn lực quản lý, kiểm soát chặt chẽ loại hình
nước thải công nghiệp, đặc biệt là nước thải phát
sinh từ các Khu công nghiệp. Hiện nay, cả nước có
251 Khu công nghiệp đã đi vào hoạt động có phát
sinh chất thải (không tăng so với năm 2017). Hoạt
động kiểm soát, giảm thiểu ô nhiễm môi trường
tại các Khu công nghiệp đã có chuyển biến tích
cực. Đến nay, trên phạm vi cả nước, đã có 221/251
Khu công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý
nước thải tập trung đạt quy chuẩn kỹ thuật về môi
trường, đạt 88,05% (tăng 8,05% so với năm 2017),
trong đó các địa phương có số lượng Khu công
nghiệp lớn như TP. Hồ Chí Minh, TP. Hà Nội, các
tỉnh: Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai,
Long An, Quảng Ninh, Bắc Ninh... tỷ lệ này đều
đạt 100%. Đã có 121/251 Khu công nghiệp lắp đặt
thiết bị quan trắc nước thải tự động, liên tục đạt tỷ
lệ trên 48%. Nhìn chung, nhiều địa phương đã chú
trọng lựa chọn, thu hút các dự án công nghệ cao,
dự án có tỷ lệ đầu tư về môi trường lớn, một số địa
phương đã bước đầu thực hiện việc phòng ngừa,
kiểm soát ô nhiễm môi trường trong quá trình thu
hút đầu tư thông qua việc lựa chọn những ngành
nghề, dự án đầu tư có hàm lượng công nghệ cao,
công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch.
Riêng đối với các Cụm công nghiệp, chỉ có
109/689 Cụm công nghiệp đang hoạt động có hệ
thống xử lý nước thải tập trung. Đối với hơn 4.000
làng nghề hầu hết đều chưa có hệ thống thu gom,
xử lý nước thải.
Bên cạnh các nguồn nước thải kể trên, một
lượng không nhỏ chất thải rắn không được kiểm
soát, đổ bừa bãi cùng với các khu vực xử lý chất thải
rắn không đảm bảo quy định cũng là nguyên nhân
gây ô nhiễm nguồn nước.
16
QUAÛN LYÙ RAÙC THAÛI, NÖÔÙC THAÛI VÌ SÖÏ PHAÙT TRIEÅN BEÀN VÖÕNG VAØ VAI TROØ CUÛA KIEÅM TOAÙN NHAØ NÖÔÙC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 143 - tháng 9/2019
Các thách thức trong công tác bảo vệ nguồn
nước
- Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước làm gia tăng nhu cầu khai thác,
sử dụng nước cũng như nguy cơ tác động xấu đến
nguồn nước. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, tốc độ
tăng trưởng kinh tế của nước bị chững lại trong
giai đoạn 2011 đến nay dẫn đến đầu tư từ doanh
nghiệp và xã hội cho công tác bảo vệ môi trường
bị giảm sút.
- Một số cấp ủy, chính quyền chưa nhận thức
đầy đủ tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi
trường và phát triển bền vững; trong chỉ đạo, điều
hành, tư tưởng ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế,
xem nhẹ yêu cầu bảo vệ môi trường còn phổ biến ở
nhiều cấp ủy đảng và chính quyền.
- Ý thức về bảo vệ nguồn nước vẫn chưa trở
thành thói quen, nếp sống của một bộ phận dân
cư, các thói quen xấu gây ô nhiễm nguồn nước
như: Vứt rác, chất thải, xác súc vật bừa bãi vào các
nguồn nước kênh, rạch, sông, suối, hồ, ao... vẫn
còn phổ biến. Ý thức chấp hành pháp luật về môi
trường, tài nguyên nước của các hộ sản xuất kinh
doanh, nhất là các hộ sản xuất kinh doanh thuộc
các làng nghề; của một số nhà máy, xí nghiệp, cơ sở
sản xuất, kinh doanh còn rất thấp.
- Công tác xã hội hóa hoạt động bảo vệ nguồn
nước và quản lý tài nguyên chưa thực sự hiệu quả,
chưa huy động của sức mạnh toàn dân. Chưa có sự
phân công cụ thể và đầu tư nguồn lực cho một tổ
chức có chức năng quản lý nhà nước theo dõi toàn
diện về xã hội hóa.
- Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến
pháp luật về bảo vệ nguồn nước tới cộng đồng dân
cư còn hạn chế; việc thực thi chính sách, pháp luật
về bảo vệ nguồn nước còn chưa nghiêm, hiệu lực,
hiệu quả chưa cao.
Giải pháp bảo vệ nguồn nước
- Để giảm thiểu tác động của các hồ chứa thủy
lợi, thủy điện đến nguồn nước trên lưu vực sông,
trong quá trình thẩm định các hồ sơ cấp phép, Bộ
Tài nguyên và Môi trường đã yêu cầu các chủ hồ
phải đảm bảo duy trì xả lưu lượng thường xuyên,
liên tục phía hạ du để đảm bảo việc vận hành các
hồ không gây ra các đoạn sông chết, không làm suy
thoái, cạn kiệt nguồn nước các sông. Trước thực tế
17NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 143 - tháng 9/2019
khai thác, sử dụng nước trên các lưu vực sông hiện
nay và yêu cầu trong công tác quản lý, ngày 22 tháng
12 năm 2017, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban
hành Thông tư số 64/2017/TT-BTNMT quy định
về xác định dòng chảy tối thiểu trên sông, suối và
hạ lưu các hồ chứa, đập dâng. Dòng chảy tối thiểu
trên sông, suối và hạ lưu hồ chứa sau khi được xác
định, công bố là một trong các căn cứ để xem xét
trong quá trình xây dựng, thẩm định, phê duyệt các
nhiệm vụ như: Quy hoạch tài nguyên nước, quy
hoạch ngành có khai thác, sử dụng tài nguyên nước
trên các sông, suối; xây dựng quy trình vận hành
hồ chứa, quy trình vận hành liên hồ chứa trên các
lưu vực sông; xây dựng kế hoạch, phương án điều
hòa, phân phối nguồn nước trên lưu vực sông; cấp
giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước và
thẩm định, phê duyệt các dự án có liên quan trực
tiếp đến việc duy trì, bảo đảm dòng chảy tối thiểu
trên sông, suối.
- Xây dựng và khẩn trương thực hiện quy hoạch
tài nguyên nước lưu vực sông để làm căn cứ, cơ
sở phục vụ công tác quản lý khai thác, sử dụng tài
nguyên nước và bảo vệ tài nguyên nước.
- Để khắc phục, chủ động phòng ngừa, ngăn
chặn và giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước cho các
dòng sông, Bộ đã đưa ra các giải pháp cấp bách
trong công tác quản lý, trong đó tập trung vào một
số nhiệm vụ trọng tâm như:
+ Thực hiện Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày
31/8/2016 của Chính phủ về một số nhiệm vụ,
giải pháp cấp bách về bảo vệ môi trường, trong
năm 2017, Bộ đã tập trung triển khai xây dựng
trình Chính phủ phê duyệt Đề án kiểm soát
đặc biệt đối với các cơ sở tiềm ẩn nguy cơ gây ô
nhiễm môi trường cao; xây dựng hệ thống tiêu
chí về môi trường làm cơ sở lựa chọn, sàng lọc
loại hình sản xuất và công nghệ sản xuất trong
thu hút đầu tư, xem xét, phê duyệt các dự án đầu
tư, đảm bảo không thu hút công nghệ sản xuất lạc
hậu vào Việt Nam.
+ Tập trung thanh tra, kiểm tra các đối tượng có
lưu lượng nước thải có quy mô lớn (từ 200m3/ngày
đêm trở lên) trên phạm vi cả nước; rà soát đánh giá
tác động môi trường, công trình, biện pháp bảo vệ
môi trường của các dự án lớn, nguy cơ cao gây ô
nhiễm môi trường; tổng điều tra, đánh giá, phân
loại các nguồn thải trên phạm vi cả nước; xây dựng
hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về nguồn thải; lập
danh mục các nguồn nước có nguy cơ ô nhiễm, cạn
kiệt để có giải pháp cải thiện, phục hồi.
+ Tập trung đầu tư hệ thống giám sát các hoạt
động xả nước thải vào nguồn nước theo hướng xã
hội hóa việc quan trắc lưu lượng, chất lượng nước
thải. Qua đó các cơ sở xả nước thải, các cơ sở khai
thác nước sẽ phải tự đầu tư lắp đặt các thiết bị quan
trắc tự động, phân tích chất lượng nước thải... và
kết nối vào hệ thống giám sát chung do Nhà nước
đầu tư tạo thành một hệ thống thống nhất giữa
Trung ương, địa phương và trên từng lưu vực sông.
+ Xử lý nghiêm đối với các cơ sở gây ô nhiễm
nghiêm trọng, gây ô nhiễm nguồn nước. Công bố
công khai các cơ sở xả nước thải gây ô nhiễm trên
các phương tiện thông tin, truyền thông để tạo áp
lực xã hội đối với hình ảnh của các doanh nghiệp.
+ Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao
nhận thức của cộng đồng để thu hút cộng đồng, các
tổ chức, các doanh nghiệp tham gia vào việc bảo vệ
nguồn nước. Đặc biệt, đề cao vai trò giám sát của
người dân trong việc phát hiện, xử lý kịp thời các
hành vi, sự cố gây ô nhiễm nguồn nước ngay từ khi
mới xuất hiện.
- Ngoài ra, về mặt tổng thể, Bộ cũng đang tập
trung rà soát lại toàn bộ các quy định pháp luật về
quản lý tài nguyên và môi trường để đề xuất sửa
đổi các quy định về bảo vệ môi trường, nguồn nước
trong các luật về môi trường, tài nguyên, thuế, ngân
sách, đầu tư, xây dựng, khoa học và công nghệ,
năng lượng... bảo đảm thống nhất, đồng bộ, đáp
ứng yêu cầu bảo vệ môi trường hiện nay.