Tóm tắt. Trẻ em nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn thành phố Hà Nội đều đã được đảm bảo
quyền đi học và có các mô hình lớp học khác nhau dành cho trẻ có HIV sống tại cộng đồng
và tại các trung tâm bảo trợ tuỳ vào việc đã công khai tình trạng bệnh. Mức độ hoà nhập
của trẻ có HIV vào trường học còn hạn chế so với nhóm trẻ không có HIV cũng như có sự
khác biệt giữa nhóm trẻ có HIV sống tại cộng đồng và nhóm trẻ có HIV sống tại các trung
tâm bảo trợ xã hội do sự kì thị, phân biệt đối xử của nhà trường, bạn bè, cộng đồng.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 165 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng tiếp cận và hòa nhập học đường của trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0031
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 2A, pp. 52-61
This paper is available online at
THỰC TRẠNG TIẾP CẬN VÀ HÒA NHẬP HỌC ĐƯỜNG
CỦA TRẺ EM NHIỄM HIV/AIDS TẠI HÀ NỘI
Nguyễn Lê Hoài Anh
Khoa Công tác Xã hội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Trẻ em nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn thành phố Hà Nội đều đã được đảm bảo
quyền đi học và có các mô hình lớp học khác nhau dành cho trẻ có HIV sống tại cộng đồng
và tại các trung tâm bảo trợ tuỳ vào việc đã công khai tình trạng bệnh. Mức độ hoà nhập
của trẻ có HIV vào trường học còn hạn chế so với nhóm trẻ không có HIV cũng như có sự
khác biệt giữa nhóm trẻ có HIV sống tại cộng đồng và nhóm trẻ có HIV sống tại các trung
tâm bảo trợ xã hội do sự kì thị, phân biệt đối xử của nhà trường, bạn bè, cộng đồng.
Từ khóa: Trẻ em nhiễm HIV/AIDS, tiếp cận giáo dục, hoà nhập học đường, kì thị, phân
biệt đối xử.
1. Mở đầu
HIV/AIDS là một đại dịch nguy hiểm nhất trong lịch sử loài người. Theo ước tính của Liên
hợp quốc, trung bình mỗi ngày thế giới có thêm khoảng 7000 người nhiễm HIV. Tổng số người
nhiễm mới HIV/AIDS trên thế giới khoảng trên 2,3 triệu người. Ở Việt Nam, tình hình lây nhiễm
HIV có nhiều diễn biến phức tạp, cả nước hiện có 206.000 người nhiễm HIV còn sống, trong đó
có trên 52.700 bệnh nhân chuyển sang giai đoạn AIDS, đã có hơn 53000 người tử vong do AIDS.
Số người được phát hiện nhiễm HIV mỗi năm là hơn 10.000 người. Sự lây nhiễm HIV cho phụ nữ
và trẻ em đang ngày một gia tăng (Cục Phòng chống HIV/AIDS, Bộ Y tế, 2014). Việt Nam chưa
có một con số thống kê chính xác về số lượng trẻ em bị nhiễm HIV. Theo Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội (2010) số trẻ em Việt Nam bị nhiễm HIV được phát hiện hàng năm vào khoảng
400-700 trẻ có độ tuổi từ 0-10 tuổi. Ước tính thực tế số lượng trẻ em nhiễm HIV ở Việt Nam vào
khoảng trên 4.405 trẻ, trong đó có 2.553 em đang được điều trị ARV.
Trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS sống với gia đình của mình trong cộng đồng hoặc trong các
trung tâm bảo trợ xã hội do bệnh viện hoặc các gia đình không có khả năng chăm sóc các em gửi
đến. Nhìn chung, trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS có nguy cơ bị mất gia đình, mất lai lịch và sự thừa
kế (Trần Thị Minh Đức, 2006). Nguồn đảm bảo cuộc sống của các em bị hạn chế do sự thiếu thốn
về chế độ dinh dưỡng, an toàn trong chăm sóc, hỗ trợ y tế, giáo dục và chăm sóc tinh thần cho trẻ.
Phần lớn trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS đều đã được đến trường học, tuy nhiên các em bị hạn chế
trong các hoạt động và giao tiếp xã hội. Đặc biệt với các em ở trung tâm giáo dục lao động xã hội
phải sống cách li và đón nhận sự kì thị, phân biệt đối xử của xã hội.
Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn công ước về
Quyền trẻ em. Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc đưa tinh thần và nội dung của Công
Ngày nhận bài: 3/1/2016. Ngày nhận đăng: 3/5/2016.
Liên hệ: Nguyễn Lê Hoài Anh, e-mail: nguyenlehoaianh@gmail.com
52
Thực trạng tiếp cận và hòa nhập học đường của trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Hà Nội
ước vào chiến lược phát triển kinh tế- xã hội và luật pháp quốc gia. Hầu hết các văn bản luật ban
hành hay sửa đổi đều quan tâm thích đáng đến quyền lợi của trẻ em (UNICEF, 2010). Trong công
ước cũng như các văn bản luật đều nêu rõ: "Trẻ em có quyền được học tập và có bổn phận học hết
chương trình giáo dục phổ cập". Trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS cần được coi bình đẳng như những
trẻ em bình thường khác. Mọi hành động và việc làm như: trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS không được
đi học hoặc bị kì thị và phân biệt đối xử... đều khiến các em bị loại trừ ra khỏi xã hội, điều này vi
phạm Công ước Quyền trẻ em, hệ thống luật pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trẻ
em bị nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam cần được trợ giúp để hòa nhập xã hội trong đó hòa nhập học
đường là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên chúng ta phải thực hiện.
Nội dung nghiên cứu về đối tượng trẻ em nhiễm HIV/AIDS nói riêng cũng như trẻ bị ảnh
hưởng bởi HIV/AIDS nói chung mới được đề cập rải rác trong những đề tài có liên quan đến người
lớn nhiễm HIV mà ít được nghiên cứu độc lập, nhất là tại Việt Nam. Theo “Hướng dẫn tra cứu
nhanh cho chương trình nghiên cứu quốc gia tập hợp danh sách những ấn phẩm về HIV/AIDS xuất
bản trong giai đoạn 2005 – 2011”, trong tổng số 530 nghiên cứu chỉ có 01 công trình nghiên cứu
độc lập về trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS (Bộ Y tế, 2012).
Trước sự tác động to lớn của đại dịch HIV/AIDS đến trẻ em, những nghiên cứu chung về
trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS nhiều hơn những nghiên cứu tập trung riêng vào nhóm trẻ nhiễm
HIV/AIDS và trong phần lớn những nghiên cứu đó, những vấn đề liên quan đến y tế, chăm sóc,
điều trị được chú ý nhiều hơn cả. Trong bối cảnh hiện nay, trẻ em nhiễm HIV/AIDS ngày càng
sống lâu hơn nhờ những tiến bộ trong y học và sự hỗ trợ của thuốc ARV, các em có đầy đủ quyền
và nhu cầu được sống, học tập, vui chơi giải trí như tất cả các trẻ em khác và giáo dục là một nhu
cầu tất yếu để các em phát triển và hòa nhập xã hội. Như bao trẻ em khác, trẻ em nhiễm HIV đã
bị thiệt thòi hơn khi mang trong mình bệnh tật nhưng các em lại bị kì thị và phân biệt đối xử tại
trường học, mất đi cơ hội học tập hòa nhập, ảnh hưởng tới sự phát triển về thể chất và trí tuệ, làm
các em bị tổn thương về tinh thần rất lớn cho dù thực tế này vi phạm Công ước Quyền trẻ em, Luật
Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em cũng như Luật Phòng Chống HIV/AIDS. Và thực trạng này đang là
một vấn đề đáng báo động trong xã hội. Tuy nhiên những nghiên cứu về mảng giáo dục đối với
trẻ nhiễm HIV/AIDS vẫn còn khiêm tốn, chưa được quan tâm thích đáng, chưa cân đối với những
nội dung nghiên cứu chung về HIV/AIDS hiện nay. Đặc biệt hiện nay vẫn chưa có một nghiên cứu
riêng nào đề cập đến vấn đề hoà nhập học đường của trẻ nhiễm HIV/AIDS.
Nghiên cứu “Thực trạng tiếp cận và hòa nhập học đường của trẻ em nhiễm HIV/AIDS”
được tiến hành từ tháng 3 năm 2012 đến tháng 10 năm 2015, đối tượng điều tra bao gồm hai nhóm
đối tượng: trẻ nhiễm HIV (trẻ em nhiễm HIV đang sinh sống và học tập ở Trung tâm GDCBLĐXH
số 2, trẻ có HIV ở cộng đồng); trẻ em không bị nhiễm HIV đang sinh sống và học tập ngoài cộng
đồng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Mẫu điều tra được thực hiện theo phương pháp chọn mẫu
ngẫu nhiên hệ thống. Tổng số phiếu điều tra là: 600 phiếu, số phiếu được thu về hợp lệ, đã xử lí là
530 phiếu đạt 90%.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Đặc điểm của khách thể nghiên cứu
Kết quả cho thấy: khách thể nghiên cứu có đặc điểm tuổi, giới tính, trình độ học vấn, tình
trạng nhiễm HIV như sau:
- Theo nhóm tuổi: trẻ dưới 6 tuổi (10%); từ 6 đến 12 tuổi: 38%; từ 12 đến 15 tuổi: 46%; trẻ
trên 16 tuổi: 6%.
- Theo giới tính: trẻ có giới tính nam là 48%; trẻ có giới tính nữ là: 52%.
53
Nguyễn Lê Hoài Anh
- Theo trình độ học vấn: trẻ có trình độ học vấn dưới tiểu học là 11%; trẻ có trình độ học
vấn tiểu học là:38%; trẻ có trình độ THCS 46%; trẻ có trình độ phổ thông trung học là 5%.
- Theo tình trạng HIV: trẻ có HIV là 50%; trẻ không có HIV là 50%.
2.2. Thực trạng tiếp cận với trường học của trẻ nhiễm HIV/AIDS
- Thực trạng tiếp cận với trường học và độ tuổi đi học
Kết quả khảo sát bảng cho thấy, đại đa số trẻ em bị nhiễm HIV đều đã được đi học, chỉ có
rất ít khoảng 2% trẻ em nhiễm HIV không được đi học. Tuy nhiên, tuyệt đại đa số (99%) trẻ em bị
nhiễm HIV được hỏi đều đi học không đúng độ tuổi.
Khi so sánh tương quan giữa trẻ em bị nhiễm HIV và trẻ em bình thường, kết quả cho thấy:
có sự khác biệt lớn giữa việc đúng hay không độ tuổi đi học giữa trẻ bị nhiễm HIV và trẻ em bình
thường không bị nhiễm HIV. 100% trẻ em bình thường đều đi học đúng độ tuổi, trong khi đó 99%
trẻ em nhiễm HIV đều đi học không đúng độ tuổi. "Hầu hết các cháu bị nhiễm HIV ở Trung tâm
đều được đi học nhưng các cháu từ rất nhiều nơi chuyển đến, lại có những độ tuổi khác nhau cho
nên khi các cháu được chuyển đến trung tâm mới có cơ hội để đi học, có cháu 9-10 tuổi chuyển
đến trung tâm phải học lại từ lớp 1" (PVS, Nữ cán bộ trung tâm số 02).
Tại trung tâm Giáo dục chữa bệnh lao động xã hội (GDCBLĐXH) số 02 trẻ em bị nhiễm
HIV chỉ được đi học từ năm 2010 cho nên đây cũng là nguyên nhân khiến các lớp học của trẻ em
bị nhiễm HIV không đồng đều về độ tuổi. Trẻ cấp 1 chỉ được đến trường vào giờ chào cờ; đến lớp
5 thì được ra học 1 buổi/tuần, cấp 2 mới được ra học lớp riêng, cấp 3 mới được đi học chung cùng
các bạn.
- Đặc điểm lớp học của trẻ nhiễm HIV
Theo kết quả khảo sát, có 3 loại hình lớp học mà trẻ có HIV tham gia vào. Thứ nhất, đó
là các lớp học chung cho tất cả các học sinh ở cùng độ tuổi đi học tại trường học của xã/ phường
với những trường hợp trẻ ở cộng đồng nhưng nhà trường không biết tình trạng có HIV của trẻ với
chiếm 51% số học sinh có HIV. Thứ hai, tại các lớp học riêng dành cho học sinh có HIV tại Trung
tâm GDCBLĐXH 02 giành cho trẻ khối tiểu học. Thứ ba, mô hình lớp học dành riêng cho học
sinh có HIV tại trường học THCS Yên Bài B.
- Cơ sở vật chất của lớp học
Kết quả cho thấy: đại đa số trẻ em bị nhiễm HIV (78%) được hỏi đều cho rằng các trường
học hiện nay đều thiếu thốn về cơ sở vật chất và không đáp ứng được nhu cầu học tập của trẻ em;
chỉ có 22% số trẻ em cho rằng các trường học đầy đủ cơ sở vật chất (22%). Đại đa số (98%) trẻ em
bị nhiễm HIV được hỏi đều cho rằng ở lớp học không được trang bị tủ thuốc y tế và tình trạng này
là tương tự với trẻ không có HIV. Bởi lẽ phần lớn các trường có phòng y tế nên không có tủ thuốc
y tế riêng trong lớp. Tuy nhiên, đối với trẻ có HIV, việc có tủ thuốc y tế ngay tại lớp học là rất cần
thiết đối với các em. trong khi đó đối với 89% lớp học của trẻ em bình thường đều có tủ thuốc y tế.
"Các trường học còn nghèo lắm, thiếu thốn đủ đường đặc biệt các lớp học ở trung tâm thì không
đáp ứng được nhu cầu học tập của các em" PVS. Nữ cán bộ, trung tâm số 02. Như vậy, cơ sở vật
chất ở trường học dành cho trẻ em bị nhiễm HIV thường rất thiếu thốn, nghèo nàn không đáp ứng
được nhu cầu học tập của các em.
2.3. Thực trạng hoà nhập học đường của trẻ em nhiễm HIV/AIDS
2.3.1. Tâm trạng, thái độ khi đi học của trẻ em bị nhiễm HIV
Tâm trạng của trẻ em bị nhiễm HIV khi đi học thường lo lắng, sợ sệt, không vui vẻ. Kết
quả cho thấy đa số trẻ em nhiễm HIV có các tâm trạng lo lắng, sợ sệt và buồn chán, chỉ một số ít
54
Thực trạng tiếp cận và hòa nhập học đường của trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Hà Nội
khoảng 20% trẻ em bị nhiễm HIV có tâm trạng vui vẻ, 14% số trẻ em bị nhiễm HIV cảm thấy bình
thường khi đi học.
Có sự khác biệt lớn giữa trẻ em bị nhiễm HIV và trẻ em bình thường ngoài cộng đồng về
tâm trạng vui vẻ khi đi học. Trẻ em bình thường thấy vui vẻ khi đi học hơn là trẻ em bị nhiễm HIV.
Bảng 1. So sánh tương quan giữa trẻ em nhiễm HIV
và trẻ em bình thường với tâm trạng, thái độ khi đi học
Tâm trạng Trẻ có HIV Trẻ em không có HIV
1. Vui vẻ 20% 44%
2. Bình thường 14% 21%
3. Lo lắng 35% 11%
4. Sợ sệt 21% 10%
5. Buồn, chán 5% 10%
6. Khó trả lời 5% 4%
So sánh tương quan theo trình độ học vấn với tâm trạng vui vẻ khi đi học của trẻ em bị
nhiễm HIV cho thấy: trẻ em bị nhiễm HIV đang học phổ thông trung học có tỉ lệ ít vui vẻ nhất khi
đi học, trẻ em bị nhiễm HIV học dưới tiểu học và tiểu học có tỉ lệ vui vẻ khi đi học cao hơn so
với những nhóm còn lại. "Các con ở đây nhỏ thì chưa biết về tình trạng bệnh của mình thì thích
đi học lắm nhưng dần dần các con biết được mình có bệnh nên chán nản không muốn đi học, đặc
biệt các con khi đến tuổi dậy thì, tâm sinh lí diễn biến phức tạp lại cảm thấy lo âu, buồn chán hơn
nữa" (PVS.Nữ cán bộ trung tâm số 02). "Con biết mình bị bệnh nên không vui vẻ đi học, học cũng
không cứu được con, con cảm giác sợ lắm, con không thích đi học" (PVS. Trẻ bị nhiễm HIV, 16
tuổi). "Con thấy đi học vui có nhiều trò chơi hơn ở nhà lại nhiều người nữa con thích được đi học,
chứ ở nhà buồn lắm, đi học vui được chơi nhiều trò chơi hơn" (PVS trẻ bị nhiễm HIV, 10 tuổi).
2.3.2. Mức độ tham gia các hoạt động tập thể ở trường học
Kết quả khảo sát cho thấy: trẻ em bị nhiễm HIV phần lớn không tham gia vào các hoạt động
tập thể. 89% các em không tham gia vào các cuộc thi; 82% các em không đi dã ngoại; 67% các
em không tham gia chơi thể thao; 52% các em không tham gia các hoạt động văn nghệ; 43% các
em không tham gia chơi các trò chơi tập thể. Chào cờ là hoạt động được nhiều trẻ bị nhiễm HIV
tham gia nhiều nhất.
So sánh tương quan giữa trẻ em bị nhiễm HIV và trẻ em bình thường với mức độ thường
xuyên tham gia các hoạt động tập thể cho thấy: có sự khác biệt rất lớn giữa trẻ em bị nhiễm HIV và
trẻ em bình thường với mức độ thường xuyên tham gia các hoạt động tập thể ở trường học. Tỉ lệ %
thường xuyên tham gia các hoạt động tập thể ở trường học cao hơn đáng kể ở trẻ em bình thường.
- So sánh tương quan theo nhóm tuổi với mức độ thường xuyên tham gia các hoạt động tập
thể ở trường học cho thấy: trẻ em bị nhiễm HIV ở nhóm tuổi 6 đến 12 tuổi thường xuyên tham gia
các hoạt động “Chào cờ”; “trò chơi tập thể”; “văn nghệ”; “thể thao” cao hơn so với các nhóm tuổi
còn lại.
Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy: “Trẻ em bị nhiễm HIV thường ít khi tham gia các hoạt
động tập thể ở trường, các em thường ngại hoặc do các bạn không chơi cùng nên ít, duy có hoạt
động chào cờ là các em tham gia nhiều hơn cả” (PVS. Nữ, cán bộ, Trung tâm số 02). “Chúng em
thường rất ngại khi tham gia các hoạt động tập thể cùng các bạn, vì các bạn xa lánh, các bạn sợ lây
nhiễm HIV cho nên chúng em ít tham gia lắm” (PVS. Trẻ em bị nhiễm HIV).
55
Nguyễn Lê Hoài Anh
Bảng 2. So sánh tương quan giữa trẻ em bị nhiễm HIV
và trẻ em bình thường với mức độ thường xuyên
tham gia các hoạt động tập thể ở trường học
Hoạt động Trẻ em bị nhiễm HIV Trẻ em bình thường
1. Chào cờ 44% 56%
2. Trò chơi tập thể 32% 67%
3. Văn nghệ 24% 68%
4. Thể thao 21% 72%
5. Đi dã ngoại 5% 70%
6. Các cuộc thi 5% 67%
2.3.3. Mối quan hệ của trẻ em bị nhiễm HIV với bạn bè ở trường học
Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ của trẻ em bị nhiễm HIV với bạn bè ở trường học
là 61% tốt; 20% là bình thường và 19% là không tốt.
Khi hỏi giữa bạn có HIV và không có HIV nhớm bạn nào nhiều hơn, kết quả cho thấy: đại
đa số (71%) trẻ em bị nhiễm HIV trả lời “Bạn có HIV nhiều hơn”; 20% “Bạn không có HIV nhiều
hơn”; 9% “Hai nhóm bạn có và không có HIV là như nhau”
Khi hỏi các em có bạn thân không? Đại đa số các trẻ bị nhiễm HIV đều tra lời là có. Tuy
nhiên, số lượng bạn thân chủ yếu là 2 bạn và có sự khác nhau trong nhóm học sinh có HIV tại
Trung tâm và trẻ có HIV sống trong cộng đồng, theo đó với trẻ có HIV sống tại trung tâm thì bạn
thân đều là những trẻ có HIV ở cùng trung tâm còn đối với trẻ có HIV sống tại cộng đồng thì có
bạn thân là trẻ không có HIV khi trẻ không biết tình trạng bệnh của mình vì gia đình dấu không
cho trẻ và nhà trường biết. Kết quả phỏng vấn sâu cho thấy: “Tôi thấy các con ở đây đều có bạn
và có mối quan hệ tốt với các bạn, các con thường hay chơi và tâm sự với nhau, mặc dù không
phải là ruột thịt nhưng nhiều con yêu quý nhau lắm. Tuy nhiên, phần lớn bạn của các con đều là
những con bị nhiễm HIV, các con không có điều kiện chơi với các bạn bình thường khác bởi sự
ngăn cấm của cha, mẹ các bạn” PVS, Nữ cán bộ trung tâm số 02. “Bạn của con chủ yếu là các
bạn ở trung tâm thôi, con không có bạn ở bên ngoài, con cũng có mấy người bạn thân, chúng con
thường hay chơi với nhau” (PVS trẻ em bị nhiễm HIV tại Trung tâm số 02). “Khi học ở trung tâm
thì em không thấy có sự phân biệt đối xử với các bạn vì các bạn đều là những trẻ bị nhiễm HIV.
Tuy nhiên, khi học lớp riêng thì em cảm thấy rõ bị phân biệt đối xử từ các bạn trong lớp. Em rất
buồn vì điều này” (PVS trẻ em bị nhiễm HIV).
Tuy nhiên, theo phỏng vấn sâu với trẻ có HIV đang học tại trường THCS Yên Bài B, có 02
em đã chơi và có bạn thân là trẻ không có HIV học cùng khối lớp ở trường. Đây là tín hiệu đáng
mừng cho thấy các em bắt đầu hoà nhập và có sự chia sẻ của bạn bè tại trường học. “Các con khối
cấp 2 đã bắt đầu có bạn bè là những bạn không có H; khi quan sát thấy nhiều con đã cùng chơi với
nhau; nhiều bạn còn sang lớp riêng của trẻ có H chơi; Các con có những khả năng, năng khiếu tốt
như hát, múa, vẽ thì có cơ hội tham gia các cuộc thi của trường nên các con cũng dễ hoà nhập hơn
với các bạn khác” (PVS nữ cán bộ tại trung tâm số 02).
Khi đi học, những vấn đề hay gặp phải trong mối quan hệ bạn bè của trẻ em bị nhiễm HIV
xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp là: Rất muốn tham gia với bạn bè nhưng lo sợ không được bạn
bè tiếp nhận (84%); Mặc cảm bản thân với bạn bè (78%); Không được bạn bè tôn trọng (40%); Bị
xa lánh, hắt hủi (39%); Hay bị bạn bè chế nhạo (38%). Các trẻ bị nhiễm HIV ở trung tâm thường
gặp phải những vấn đề trong quan hệ bạn bè nhiều hơn so với các bạn cùng tình trạng bệnh sống
ở cộng đồng như tự mặc cảm với bản thân vì bệnh tình nên các con ít chơi với các bạn, nhiều con
56
Thực trạng tiếp cận và hòa nhập học đường của trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Hà Nội
tự chơi một mình hoặc chơi với một nhóm ít trẻ. “Con thường hay mặc cảm vì bản thân nên ít chơi
với các bạn lắm, chủ yếu con chỉ chơi với 1-2 người bạn thôi, chơi với các bạn không bị bệnh chỉ
sợ các bạn xa lánh, không thích con” (PVS trẻ em bị nhiễm HIV tại Trung tâm số 02). “Trẻ em bị
nhiễm HIV ở Trung tâm có sự tự kì thị cao hơn so với trẻ em bị nhiễm HIV ở ngoài cộng đồng do
các con sống tập trung trong một môi trường tách biệt hoàn toàn với bên ngoài và có ý thức về tình
trạng bệnh của mình” (PVS. Nữ cán bộ trung tâm số 02).
2.3.4. Mối quan hệ của trẻ em bị nhiễm HIV với giáo viên trong trường học
25% trẻ em bị nhiễm HIV được hỏi cho rằng mình được các thầy, cô giáo quan tâm đặc biệt;
56% trẻ em bị nhiễm HIV được hỏi cho rằng mình được các thầy, cô giáo quan tâm bình thường;
9% trẻ em bị nhiễm HIV được hỏi cho rằng mình bị thầy, cô giáo xa lánh phân biệt đối xử; 10%
trẻ em được hỏi cảm thấy khó trả lời.
Khi so sánh về mức độ quan tâm đặc biệt của thầy, cô giáo dạy trẻ bị nhiễm HIV và thầy,
cô giáo dạy trẻ em bình thường kết quả cho thấy: mức độ thầy, cô giáo quan tâm đặc biệt với trẻ
em bình thường cao hơn so với trẻ em bị nhiễm HIV.
So sánh tương quan theo trình độ học vấn cho thấy trình độ học vấn càng cao thì mức độ
quan tâm đặc biệt của thầy, cô giáo với trẻ em bị nhiễm HIV càng giảm.
Khi hỏi trong quá trình học, nếu có bài tập khó, chưa hiểu các em làm thế nào? Kết quả số
liệu cho thấy: chỉ có 5% trẻ em bị nhiễm HIV gặp trực tiếp thầy, cô giáo nhờ giảng lại.
Khi hỏi ai là người mà trẻ em bị nhiễm HIV thường hay tâm sự khi gặp những vấn đề khó
khăn trong cuộc sống, kết quả cho thấy: 5% là ông, bà, cha, mẹ; 6% là Anh, chị, em ruột; 2% là họ
hàng; 34% là người chăm sóc; 36% là bạn bè; 9% là thầy, cô giáo; 8% là không có ai để tâm sự.
Khi trẻ đi học, các cô giáo cũng đã quan tâm đến trẻ em bị nhiễm HIV, cô thường xuyên
kiểm tra bài tập, gọi lên bảng, giảng giải rất kĩ khi các em không hiểu. Đối với các cô giáo dạy cho
trẻ tại trung tâm cũng có sự khác biệt trong thái độ và ứng xử của các cô đối với học sinh “Các
cô giáo ở trung tâm thì không phân biệt đối xử với chúng em đâu, nhưng khi chúng em học ở lớp
chung thì các cô giáo thường phân biệt đối xử với chúng em, chúng em phải ngồi bàn riêng, nhìn
chung là các thầy, cô giáo ít quan tâm lắm” (PVS trẻ em bị nhiễm HIV). Còn đối với trẻ tại cộng
đồng, khi cô giáo không biết tình trạng bệnh của trẻ thì đối xử bình thường như những trẻ khác,
chủ yếu nhắc nhở và quan tâm vì trẻ hay thường phải nghỉ học do các con phải đi đến bệnh viện
lấy thuốc, xét nghiệm định kì hàng tháng. Một điều đáng buồn là nhiều thầy cô chưa chia sẻ và
thông cảm với tình trạng của các học sinh có HIV “Về việc bị thầy cô xa lánh, kì thị thì nhiều lắm
chị à. Bọn em lên chỗ thầy cô hỏi bài thì thầy cô ậm ừ trả lời cho qua, các bạn thì nhiều người chỉ
trỏ, rồi nói này nói kia, không chơi với bọn em, đẩy ngã bọn em, nhiều lắm. Bây giờ còn đỡ, chứ
ngày trước, còn hơn thế cơ” (PVS, trẻ em bị nhiễm HIV).
2.3.5. Kết quả học tập và hạnh kiểm của trẻ em bị nhiễm HIV
- Kết quả học tập:
Kết quả số