Thực trạng tự quản lí đào tạo của giảng viên đại học sư phạm

Tóm tắt. Phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ làm phong phú thêm nội dung hoạt động của giảng viên Đại học Sư phạm trong khi quỹ thời gian của họ không thay đổi. Để hoàn thành nhiệm vụ năm học cũng như nhiệm vụ phát triển cá nhân, giảng viên cần quan tâm phát triển nhiều năng lực khác nhau, trong đó có năng lực tự quản lí đào tạo của bản thân. Kết quả nghiên cứu thực tiễn tại một số trường Đại học Sư phạm cho thấy những điểm mạnh, điểm yếu ở giảng viên, là gợi ý để đề xuất biện pháp nâng cao năng lực này cho họ. Đây là một trong những nội dung nghiên cứu thuộc Chương trình Khoa học Giáo dục cấp Bộ “Đổi mới đào tạo giáo viên trong trường Đại học Sư phạm đáp ứng yêu cầu giáo dục phổ thông thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.

pdf11 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 54 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng tự quản lí đào tạo của giảng viên đại học sư phạm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Educational Sci., 2014, Vol. 59, No. 6A, pp. 184-194 This paper is available online at THỰC TRẠNG TỰ QUẢN LÍ ĐÀO TẠO CỦA GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM Đào Thị Oanh Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ làm phong phú thêm nội dung hoạt động của giảng viên Đại học Sư phạm trong khi quỹ thời gian của họ không thay đổi. Để hoàn thành nhiệm vụ năm học cũng như nhiệm vụ phát triển cá nhân, giảng viên cần quan tâm phát triển nhiều năng lực khác nhau, trong đó có năng lực tự quản lí đào tạo của bản thân. Kết quả nghiên cứu thực tiễn tại một số trường Đại học Sư phạm cho thấy những điểm mạnh, điểm yếu ở giảng viên, là gợi ý để đề xuất biện pháp nâng cao năng lực này cho họ. Đây là một trong những nội dung nghiên cứu thuộc Chương trình Khoa học Giáo dục cấp Bộ “Đổi mới đào tạo giáo viên trong trường Đại học Sư phạm đáp ứng yêu cầu giáo dục phổ thông thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Từ khóa: Năng lực tự quản lí, Năng lực tự quản lí đào tạo của giảng viên đại học sư phạm. 1. Mở đầu Những nghiên cứu ở nước ngoài đã khẳng định rằng, đào tạo lực lượng lao động trong tương lai phải bao gồm đào tạo về tự quản lí. Nghiên cứu tiến hành trong lĩnh vực nghề nghiệp đã tìm thấy mối quan hệ giữa việc đào tạo tự quản lí với sự gia tăng hiệu suất công việc và sự giảm thiểu các hành vi tiêu cực, như hành vi vắng mặt chẳng hạn (Frayne & Geringer, 2000; Frayne & Latham, 1987) [1]. Trong lĩnh vực giáo dục cũng cho thấy, năng lực tự quản lí (NLTQL) có liên quan đến thành tích dạy và học. Tự quản lí tốt thường dẫn đến sự cải thiện về năng suất và thành tích học tập; các chương trình về tự quản lí được thiết kế nhằm tăng thời lượng tự học của sinh viên (SV) cũng đã cho những kết quả tích cực. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, hơn 70% số người tham gia vào các chương trình đào tạo về tự quản lí thường đạt được mục tiêu mong muốn sau khi hoàn thành đầy đủ khóa học [4]. Vì vậy, ở nước ngoài, vấn đề này đã được đưa vào chương trình đào tạo của nhiều trường đại học hoặc với tư cách là một nội dung quan trọng để dạy SV, hoặc với tư cách là một nội dung bồi dưỡng kĩ năng cho cán bộ giảng dạy. Việc giáo viên được đào tạo về “tổ chức lao động sư phạm một cách khoa học” ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường Liên hệ: Đào Thị Oanh, e-mail: phanh1001@yahoo.com. 184 Thực trạng tự quản lí đào tạo của giảng viên Đại học Sư phạm sư phạm là một tiền đề tốt để giáo viên biết tự quản lí hoạt động nghề nghiệp một cách hợp lí, làm tăng chất lượng và hiệu quả công việc [7]. Trường học thế kỉ 21 yêu cầu học sinh “thực hiện những nhiệm vụ phức hợp, đầy thử thách, đòi hỏi suy nghĩ. . . và tự quản lí tiến độ học tập của mình” [1]. Xa hơn, để thành công trong cuộc sống và nghề nghiệp sau này, học sinh phải biết tự quản lí công việc của mình bởi đó là năng lực cần thiết với tất cả mọi người trong xã hội hiện đại. Trường học phải đào tạo cho học sinh năng lực tự quản lí, muốn vậy trước hết giáo viên phải có năng lực đó để có thể hướng dẫn giúp hình thành ở học sinh [2]. Những vấn đề này đặt ra cho giảng viên (GV) đại học sư phạm (ĐHSP) những yêu cầu mới, cấp thiết. Thực tiễn đào tạo hiện nay ở trường ĐHSP cho thấy, có một bộ phận GV (trong đó phần lớn là GV trẻ) thường bị quá tải với các công việc liên quan đến quá trình đào tạo của mình khiến họ thường xuyên cảm thấy bị động trong công việc, thiếu thời gian và tâm sức để sáng tạo. Đó là những công việc được quy định trong các văn bản pháp quy của Nhà Nước, của Bộ/Ngành, những yêu cầu của Nhà trường, của tổ nhóm chuyên môn, của bản thân GV đặt ra trong mục tiêu phát triển cá nhân. Bên cạnh đó vẫn có những GV với cùng khối lượng công việc như nhau, thậm chí còn kiêm nhiệm các công việc khác, song vẫn chủ động hoàn thành tốt các nhiệm vụ của mình. Bởi họ biết sắp xếp công việc, biết lên kế hoạch thực hiện các công việc một cách khoa học, hợp lí dựa theo tính cấp thiết của từng loại hoạt động; họ bình tĩnh và chủ động đón nhận những thay đổi đột xuất để điều chỉnh kế hoạch, cách thức thực hiện để hoàn thành công việc đúng hạn, hiệu quả mà không bị mệt mỏi hay căng thẳng quá mức. Đó là những GV biết “tự quản lí quá trình đào tạo” của chính mình. Lao động của GV sư phạm là lao động nghề nghiệp đặc thù, có yêu cầu cao về trình độ chuyên môn và tính chuyên nghiệp. Những vấn đề lí luận cơ bản trong năng lực GV từ lâu đã được nghiên cứu xuất phát từ việc phân tích cấu trúc hoạt động nghề dạy học ở ĐHSP. Hiện nay, khi giáo dục Việt Nam đòi hỏi phải có những đổi mới căn bản, toàn diện, thì các trường ĐHSP trong cả nước cần phải đổi mới về nhiều mặt nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục phổ thông trong bối cảnh mới. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Phương pháp, mẫu khách thể nghiên cứu Để làm rõ thực trạng tự quản lí đào tạo của GV, các phương pháp được sử dụng gồm: Điều tra viết; Quan sát dự giờ; Phỏng vấn sâu; Tọa đàm nhóm; Thống kê toán học. Trong đó phương pháp chính là điều tra viết với công cụ là Phiếu trưng cầu ý kiến dành cho SV và Thang đo năng lực tự quản lí đào tạo (NLTQLĐT) dành cho GV. Thang đo dành cho GV được thiết kế dựa trên kết quả nghiên cứu lí luận về cấu trúc của NLTQLĐT ở GV ĐHSP. Về mặt định lượng, các biểu hiện của NLTQLĐT được đánh giá ở 5 mức độ, từ mức “Thấp” nhất (“Chưa làm được”) đến mức “Cao” nhất (“Làm tốt/thành thạo”), với điểm quy ước tương ứng là 1 điểm và 5 điểm. Các mức khác nằm ở khoảng giữa các mức này có điểm tương ứng là 2, 3, 4. Kết quả phân tích thống kê mô tả và thống kê suy luận dựa trên phần mềm SPSS 16.0 gồm giá trị trung bình cộng đạt được ở mỗi biểu hiện trên 185 Đào Thị Oanh toàn bộ mẫu khách thể, độ lệch chuẩn, hệ số khác biệt và hệ số tương quan giữa các các kết quả thu được bằng các phương pháp khác nhau nêu trên có thể cung cấp bức tranh sơ bộ về một số khía cạnh trong NLTQLĐT của GV ĐHSP hiện nay. Mẫu khách thể nghiên cứu gồm 87 cán bộ quản lí cấp Trường, cấp Khoa và Bộ môn; 299 GV với 144 nam và 155 nữ trong độ tuổi chủ yếu từ 30-50 (244 người, chiếm 81%); 443 sinh viên (71 nam và 332 nữ) của các khoa: Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí (Sử - Địa), Toán, Vật lí, Hóa học, Sinh học (Sinh - Hóa), Tâm lí giáo dục thuộc các trường: ĐHSP Hà Nội, ĐHSP Thái Nguyên, ĐHSP Tây Bắc, ĐHSP - ĐH Đà Nẵng, ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa sư phạm - ĐH Cần Thơ. 2.2. Kết quả nghiên cứu 2.2.1. Cơ sở lí luận về năng lực tự quản lí đào tạo của giảng viên Đại học Sư phạm Nghiên cứu tổng quan các tài liệu trong nước [2,5,6] và nước ngoài [1,3,4,7] cho phép rút ra cách hiểu về NLTQLĐT của GV ĐHSP rằng, đó là khả năng tự chủ, tự chịu trách nhiệm của GV nhằm hoàn thành mục tiêu đào tạo của bản thân, thể hiện ở khả năng lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch, đánh giá kết quả, quản lí các nguồn lực và quản lí bản thân trong quá trình đào tạo. Đây là một “định nghĩa để làm việc” do đề tài đề xuất, vì có thể giúp thao tác hóa khái niệm NLTQLĐT của GV ĐHSP và cụ thể hóa nó để đo đạc, đánh giá. Từ cách hiểu như trên, có thể xác định các mặt nội dung của NLTQLĐT của GV ĐHSP chủ yếu gồm: a - Tổ chức, quản lí khóa học/môn học; b - Tổ chức, quản lí hoạt động học tập của SV; c - Tổ chức, quản lí các nguồn lực phục vụ đào tạo; d - Tổ chức bồi dưỡng/tự bồi dưỡng phát triển bản thân. Kết quả nghiên cứu lí luận trên đây đã giúp định hướng cho việc triển khai nghiên cứu thực tiễn về NLTQLĐT ở GV trên hai phương diện: - Thứ nhất, là phương diện nhận thức của GV, cán bộ quản lí về vai trò của việc tự quản lí đào tạo đối với chất lượng đào tạo và sự phát triển bản thân ở GV; - Thứ hai, là phương diện biểu hiện thái độ và biểu hiện hành động trong NLTQLĐT của GV. 2.2.2. Thực trạng năng lực tự quản lí đào tạo của giảng viên Đại học Sư phạm 2.2.3. Tự đánh giá của giảng viên * Kết quả biểu hiện ở mặt nhận thức của GV về vai trò của NLTQLĐT đối với hiệu quả công việc và phát triển bản thân Để tìm hiểu mặt nhận thức, phương pháp được sử dụng là tọa đàm nhóm đối với GV và phỏng vấn sâu đối với cán bộ quản lí cấp Trường, Khoa, Bộ môn. Kết quả phỏng vấn sâu và tọa đàm nhóm cho thấy, khi đề cập tới vai trò của tự quản lí đối với hoạt động nghề nghiệp ở người GV ĐHSP, hầu hết GV và cán bộ quản lí các cấp đều chỉ ra những lợi ích khác nhau mà năng lực này mang lại. Dưới đây là thứ tự quan trọng của các lợi ích được kể ra (với “1” là quan trọng nhất, được nhiều người đề cập đến nhất): 186 Thực trạng tự quản lí đào tạo của giảng viên Đại học Sư phạm 1. Giảng viên chủ động trong công việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học; trong học tập bồi dưỡng và tự bồi dưỡng nhằm phát triển bản thân; 2. Giảng viên kiểm soát được quá trình đào tạo của bản thân; quản lí được, đảm bảo được yêu cầu công việc, đạt được mục tiêu đặt ra; 3. Giảng viên làm chủ thời gian; tiết kiệm được thời gian, không lãng phí thời gian; 4. Giảng viên làm chủ kiến thức, làm cho bài giảng có chất lượng; 5. Giảng viên tự tin trong nghề nghiệp, định hướng được hoạt động nghề nghiệp ở hiện tại và trong tương lai; 6. Giảng viên rèn luyện được tác phong công nghiệp, nâng cao ý thức trách nhiệm nghề nghiệp; 7. Giảng viên thuận lợi trong việc giúp SV rèn luyện nhân cách nghề nghiệp bằng tấm gương của chính mình ; 8. Giảng viên nâng cao được tay nghề giúp tăng thêm thu nhập cho bản thân và góp phần nâng cao uy tín cho nhà trường. Có thể nói, kết quả nhận thức trên đây là dấu hiệu tốt để các GV có thái độ tích cực đối với việc rèn luyện nâng cao NLTQLĐT nếu họ được hỗ trợ các điều kiện cần thiết từ phía đồng nghiệp và nhà trường. * Kết quả biểu hiện NLTQLĐT ở mặt thái độ và hành động của GV ĐHSP Nếu đội ngũ GV của trường ĐHSP chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học thì chưa đủ để có được sản phẩm giáo viên chất lượng cao. Giảng viên còn phải là những nhà tổ chức, quản lí tốt quá trình đào tạo của mình với tư cách là giá đỡ không thể thiếu để các nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả mong muốn, đồng thời, còn là cơ sở để rèn luyện cho SV về năng lực tự quản lí quá trình học tập của bản thân họ. Dưới đây là kết quả tự đánh giá của GV ĐHSP về NLTQLĐT thể hiện ở những nội dung khác nhau. - Biểu hiện ở “Tổ chức quản lí khóa học/môn học” Bảng 1. Kết quả tự đánh giá của GV ĐHSP về “Tổ chức quản lí khóa học” (N = 299) TT Các nội dung công việc Điểm TBcộng Độ lệch chuẩn Lập kế hoạch đào tạo 2,48 1,05 1 Lập kế hoạch năm học 2,58 1,35 2 Lập kế hoạch học kì 2,59 1,31 3 Lập kế hoạch tháng 2,47 1,38 4 Lập kế hoạch tuần 2,49 1,42 5 Sắp xếp thời gian hợp lí cho các hoạt động đào tạo 2,61 1,24 6 Phân phối hợp lí các nguồn lực phục vụ đào tạo 2,28 1,33 7 Có cập nhật thông tin mới nhất về học phần/môn học trong kế hoạch dạy học 2,70 1,19 8 Công khai kế hoạch đào tạo trên trang web của trường 1,69 1,52 187 Đào Thị Oanh 9 Công khai kế hoạch kiểm tra, thi, cách thức đánh giá kết quả 2,64 1,31 10 Công khai kết quả đánh giá 2,86 1,31 Thực hiện nền nếp chuyên môn (quản lí thời gian trên lớp; quản lí giờ lên lớp về lí thuyết, thực hành...) 3,02 0,91 11 Dạy học đúng giờ theo quy chế chuyên môn 3,38 1,02 12 Theo dõi sĩ số lớp học, theo dõi sự chuyên cần của SV 2,78 1,18 13 Lắng nghe phản hồi từ SV 2,80 1,21 14 Thực hiện nguyên tắc dân chủ, tự quản trong SV 2,78 1,18 15 Sử dụng thời gian trên lớp đúng quy định 3,21 0,99 16 Tổ chức kiểm tra đánh giá theo kế hoạch bài dạy/ kế hoạch môn học 3,19 1,00 Quản lí bản thân giảng viên 3,10 0,88 17 Nhiệt tình trong hướng dẫn, giảng dạy 3,22 1,02 18 Giữ đúng hẹn với SV, với đồng nghiệp 3,31 0,97 19 Ngôn ngữ, cử chỉ trên lớp đúng mực, mô phạm 3,40 0,99 20 Suy ngẫm, tự đánh giá việc làm của bản thân 3,09 1,04 21 Sắp xếp, bố trí chỗ làm việc ngăn nắp, hợp lí 2,86 1,06 22 Sắp xếp giờ giấc làm việc, nghỉ ngơi khoa học (có Chế độ ngày phù hợp) 2,62 1,11 23 Trang phục lịch sự, đầu tóc gọn gàng 3,20 1,05 (Chú thích: Điểm TB quy ước cao nhất là 5, thấp nhất là 1) Kết quả ở Bảng 1 cho thấy, trong 3 nhóm công việc thuộc nội dung này, nhómQuản lí bản thân được GV tự đánh giá cao nhất (song cũng chỉ nằm ở mức Trung bình đến Khá), trong khi thấp nhất là nhóm Lập kế hoạch đào tạo (vừa thấp nhất vừa có độ phân tán lớn nhất). Đáng lưu ý là sự phân hóa rõ thể hiện ở cả 3 nhóm công việc và ở hầu hết các biểu hiện, ví dụ, biểu hiện 4, 6, 8 (nhóm lập kế hoạch đào tạo); biểu hiện 12,13,14 (nhóm thực hiện nền nếp chuyên môn); biểu hiện 21,22 (nhóm quản lí bản thân). - Biểu hiện ở “Tổ chức, quản lí việc học tập của sinh viên” Bảng 2. Kết quả tự đánh giá của GV ĐHSP về “Tổ chức quản lí việc học tập của SV” (N = 299) TT Các nội dung công việc Điểm TBcộng Độ lệch chuẩn Thu thập thông tin, hiểu biết về đối tượng giảng dạy 2,41 0,91 1 Tổ chức thu thập thông tin để hiểu biết rõ hơn về SV ở những lớp mình dạy 2,54 1,11 2 Nhớ tên và đặc điểm chính của một số SV trong lớp 2,74 1,01 3 Xây dựng, quản lí hồ sơ học tập của SV ở lớp mình dạy 1,96 1,26 Quản lí việc học tập và rèn luyện của SV 2,27 0,95 4 Có sổ ghi chép, theo dõi chuyên cần của SV 2,53 1,29 188 Thực trạng tự quản lí đào tạo của giảng viên Đại học Sư phạm 5 Có sổ ghi chép, theo dõi việc thực hiện nhiệm vụ học tập của SV 2,33 1,40 6 Chấm bài, trả kết quả đúng hạn, phản hồi kịp thời cho SV 2,92 1,11 7 Tổ chức phụ đạo cho những SV có kết quả yếu 1,77 1,33 8 Tư vấn/hướng dẫn SV lập kế hoạch học tập cá nhân 2,24 1,14 9 Theo dõi hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của SV 2,15 1,30 10 Theo dõi kết quả hoạt động ngoại khóa của SV 1,98 1,35 Quản lí hoạt động NCKH của SV 2,36 1,18 11 Quản lí tiến độ triển khai một đề tài NCKH của SV do mình hướng dẫn 2,62 1,38 12 Quản lí kết quả NCKH của sinh viên ở lớp mình dạy (số lượng SV tham gia, số lượng đề tài, mức độ hoàn thành, số báo cáo khoa học..) 2,07 1,41 13 Thu hút SV tham gia vào đề tài nghiên cứu khoa học của GV 2,41 1,21 So với nội dung ở Bảng 1, kết quả tự đánh giá của GV ở nội dung này thấp hơn hẳn, chủ yếu đạt ở dưới mức điểm trung bình và độ phân tán rất lớn. Đáng lưu ý nhất là các biểu hiện số 3,7,10,12 vì vừa có điểm trung bình thấp, lại vừa có độ lệch chuẩn cao. - Biểu hiện ở “Tổ chức, quản lí các nguồn lực phục vụ đào tạo” Bảng 3. Kết quả tự đánh giá của GV ĐHSP về “Tổ chức quản lí các nguồn lực phục vụ đào tạo” (N = 299) TT Các nội dung công việc Điểm TBcộng Độ lệch chuẩn Tổ chức tìm kiếm, lựa chọn, khai thác, lưu giữ thông tin phục vụ đào tạo 2,67 1,01 1 Tìm kiếm, kết nối các nguồn tư liệu hỗ trợ SV học tập, làm bài tập, làm khóa luận... 2,63 1,16 2 Hướng dẫn, giới thiệu cho SV khai thác các nguồn học liệu đáng tin cậy phục vụ học tập (thư viện, trang web...) 2,70 1,14 3 Cập nhật kết quả các nghiên cứu đương thời vào lĩnh vực chuyên môn của bản thân 2,71 1,07 Quản lí cơ sở vật chất phục vụ đào tạo 2,65 0,96 4 Khai thác sử dụng đồ dùng, trang thiết bị phục vụ đào tạophù hợp nội dung môn học/bài học 2,70 1,06 5 Khai thác sử dụng nguồn lực thông tin phong phú, đa dạng phục vụ quá trình đào tạo (mạng internet, thư viện, tủ sách cá nhân...) 2,78 1,02 6 Lựa chọn, ứng dụng các phần mềm phục vụ việc xây dựng đề kiểm tra, đề thi để đánh giá kết quả đào tạo 2,57 1,11 7 Quan tâm tới hiệu quả của các phương tiện, thiết bị dạy học được sử dụng khi dạy học trên lớp 2,58 1,11 189 Đào Thị Oanh Theo kết quả thu được ở Bảng 3, GV tự đánh giá mức độ đạt được là mức trung bình trong nội dung tổ chức quản lí nguồn lực phục vụ đào tạo. Bên cạnh đó, có thể thấy rõ khuynh hướng chung về sự phân hóa khá rõ trong tự đánh giá của GV với giá trị độ lệch chuẩn khá lớn. - Biểu hiện ở nội dung “Tổ chức học tập, bồi dưỡng phát triển bản thân” Bảng 4. Tự đánh giá của GV ĐHSP về “Lập kế hoạch học tập, bồi dưỡng phát triển bản thân” (N = 299) TT Các nội dung công việc Điểm TBcộng Độ lệch chuẩn 1 Lập kế hoạch tham gia các khóa học ở ngoài trường (về chuyên môn, nghiệp vụ, phát triển cá nhân, tổ chức quản lí) 2,42 1,17 2 Có kế hoạch tham gia các lớp bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ GV do nhà trường tổ chức (về chuyên môn; nghiệp vụ; nghiên cứu khoa học; tổ chức quản lí) 2,40 1,26 3 Có kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng (chuyên môn, nghiệp vụ, nghiên cứu khoa học, phát triển cá nhân) 2,54 1,19 4 Tham gia các lớp học hoặc tự học về ngoại ngữ 2,87 1,05 5 Tham gia các lớp bồi dưỡng hoặc tự học về tin học, sử dụng máy tính 2,71 1,19 6 Có kế hoạch phát triển bản thân về chuyên môn, nghiệp vụ trong 5 - 10 năm tới 2,66 1,13 7 Tham gia các hoạt động nâng cao sức khỏe tinh thần phù hợp điều kiện bản thân (ngoại khóa, công đoàn, hội nghề nghiệp. . . ) 2,53 1,17 8 Tham gia các hoạt động tăng cường sức khỏe thể chất phù hợp điều kiện bản thân (thể dục, thể thao) 2,57 1,22 9 Thực hiện kiểm tra sức khỏe định kì 2,56 1,27 Kết quả ở Bảng 4 cho thấy, nhìn chung GV tự đánh giá về tổ chức học tập, bồi dưỡng phát triển bản thân chưa cao. Trong đó việc sẵn sàng, chủ động tham gia vào các khóa bồi dưỡng mang tính chính thức dường như chưa được quan tâm thích đáng (biểu hiện 1 và 2). So sánh khác biệt giữa các trường trong mẫu nghiên cứu thấy có sự khác biệt ở tất cả các nội dung nghiên cứu, song khác biệt có ý nghĩa thống kê thì chỉ có ở nội dung về Tổ chức quản lí nguồn lực phục vụ đào tạo của GV với mức ý nghĩa P = 0,000. Tương tự, trong từng nội dung cũng có khác biệt giữa các nhóm công việc và các biểu hiện cụ thể. Ví dụ, ở nội dung Tổ chức, quản lí môn học, khác biệt rõ rệt thể hiện ở nhóm công việc Lập kế hoạch đào tạo; ở nội dung Tổ chức, quản lí việc học tập của sinh viên, khác biệt có ý nghĩa thống kê thể hiện ở nhóm công việc thu thập thông tin về sinh viên, với P = 0,01. Những kết quả tự đánh giá của GV là căn cứ quan trọng để đề tài xem xét trong việc đề xuất các biện pháp nâng cao NLTQLĐT ở GV ĐHSP. 190 Thực trạng tự quản lí đào tạo của giảng viên Đại học Sư phạm 2.2.4. Đánh giá của sinh viên Để việc đánh giá đảm bảo độ tin cậy và khách quan, đề tài đã hỏi SV thông qua Phiếu Trưng cầu ý kiến về vấn đề này. Kết quả thu được cho thấy: * Có 2 việc làm của GV được SV đánh giá ở mức độ trung bình khá và khá tập trung, là: - Chuẩn bị, giới thiệu cho SV về nguồn tài liệu học tập của môn dạy (giáo trình, bài giảng, tài liệu đọc thêm. . . ) với ĐTB là 3,70 và độ lệch chuẩn (SD) là 0,46; - Tổ chức, quản lí việc nghiên cứu khoa học của SV (ĐTB = 3,60 và SD = 0,53). * Một số việc làm được SV đánh giá dưới mức điểm trung bình gồm: - Quan tâm tổ chức cho sinh viên được rèn luyện sức khỏe thể chất (ĐTB = 2,21 và SD = 1,10); - Lấy thông tin phản hồi từ SV về việc tổ chức thực hiện và quản lí khóa học của GV (ĐTB = 2,07 và SD = 0,64); - Tìm hiểu nguyện vọng, nhu cầu của SV (ĐTB = 2,20 và SD = 0,97); - Hướng dẫn SV cách lập kế hoạch hoạt động của bản thân (học tập, nghiên cứu, rèn luyện,...) với ĐTB = 2,48 và SD = 1,01; - Hướng dẫn SV cách tổ chức thời gian học tập, nghỉ ngơi sao cho hợp lí, khoa học (ĐTB = 2,69 và SD = 0,46); Có thể nói, số liệu thu được trên SV là khá tập trung, đồng thời cũng thể hiện mong muốn, yêu cầu khá cao của SV đối với GV trong việc quản lí quá trình đào tạo. Những kết quả này góp phần khẳng định các kết quả thu được từ tự đánh giá của GV, đồng thời còn là một trong những cơ sở quan trọng trong việc đề xuất các biện pháp và nội dung bồi dưỡng nâng cao NLTQLĐT ở GV ĐHSP. 2.3. Nguyên nhân của thực trạng năng lực tự quản lí đào tạo ở giảng viên Đại học sư phạm Việc tìm hiểu nguyên nhân được thực hiện thông qua tọa đàm với GV, cán bộ quản lí các trường ĐHSP thuộc mẫu nghiên cứu. Về nguyên nhân tự quản lí chưa tốt, các nguyên nhân chủ yếu được đưa ra gồm: - Sự chuyển đổi phương thức đào tạo. So với trước đây, từ khi chuyển sang phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ, GV phải làm nhiều việc cụ thể hơn. Mặc dù thời gian lên lớp có giảm đi nhưng “thời gian dành cho việc chuẩn bị lên lớp và cho các hoạt động khác lại tăng lên khá nhiều”. Trong khi đó GV còn phải làm cả những công việc mang tính hành chính nếu như họ kiêm nh
Tài liệu liên quan