Tóm tắt. Tiếp cận năng lực được nghiên cứu trong suốt một quá trình lâu dài từ tiếp cận
hành vi tới tiếp cận tổng thể về năng lực. Theo tiếp cận mới, các tiêu chí đánh giá giáo sinh
trong giảng dạy (thực tập giảng dạy) cần phải đặt mức độ đòi hỏi cao về nhận thức và năng
lực hành vi, chia thành nhiều cấp độ năng lực, gắn bó chặt chẽ với chức năng, nhiệm vụ của
người giáo viên và tính tới điều kiện, hoàn cảnh mà giáo sinh thực hiện hoạt động giảng
dạy. Đây là cơ sở khoa học cho những nghiên cứu tiếp theo về tiếp cận năng lực trong đánh
giáo viên và giáo sinh sư phạm ở Việt Nam hiện nay.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 174 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếp cận năng lực trong đánh giá giáo viên, giáo sinh sư phạm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
2014, Vol. 59, No. 6BC, pp. 192-196
This paper is available online at
TIẾP CẬN NĂNG LỰC TRONG ĐÁNH GIÁ GIÁO VIÊN, GIÁO SINH SƯ PHẠM
Nguyễn Vũ Bích Hiền
Khoa Quản lí giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Tiếp cận năng lực được nghiên cứu trong suốt một quá trình lâu dài từ tiếp cận
hành vi tới tiếp cận tổng thể về năng lực. Theo tiếp cận mới, các tiêu chí đánh giá giáo sinh
trong giảng dạy (thực tập giảng dạy) cần phải đặt mức độ đòi hỏi cao về nhận thức và năng
lực hành vi, chia thành nhiều cấp độ năng lực, gắn bó chặt chẽ với chức năng, nhiệm vụ của
người giáo viên và tính tới điều kiện, hoàn cảnh mà giáo sinh thực hiện hoạt động giảng
dạy. Đây là cơ sở khoa học cho những nghiên cứu tiếp theo về tiếp cận năng lực trong đánh
giáo viên và giáo sinh sư phạm ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Tiếp cận năng lực, đánh giá giáo viên, đánh giá giáo sinh sư phạm.
1. Mở đầu
Tiếp cận năng lực trong giáo dục xuất hiện tại Hoa Kỳ trong những năm 1970 gắn với một
trào lưu giáo dục chủ trương xác định mục tiêu giáo dục bằng cách mô tả cụ thể để có thể đo lường
được những kiến thức, kĩ năng và thái độ mà học sinh cần phải đạt được sau khi kết thúc khóa
học [2]. Tiếp cận năng lực trong giáo dục cũng có thể được định nghĩa là một chiến lược giảng dạy,
trong đó quá trình học tập dựa trên năng lực thực hiện (performance-based learning) [8]. Người
học chứng minh mức độ nắm kiến thức của mình thông qua khả năng thực hiện những hành động
cụ thể.
Đối với việc đánh giá giáo viên và giáo sinh sư phạm, tiếp cận năng lực cũng được nghiên
cứu suốt một quá trình lâu dài từ tiếp cận hành vi tới tiếp cận tổng thể về năng lực. Bài viết này
muốn trình bày những vấn đề tổng thuật mang tính lí luận của những nghiên cứu nước ngoài về
tiếp cận năng lực trong đánh giá giáo viên, làm cơ sở khoa học cho những nghiên cứu về tiếp cận
năng lực trong đánh giáo viên và giáo sinh sư phạm ở Việt Nam hiện nay.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Tiếp cận hành vi
Xuất hiện vào những năm 1950 và thịnh hành vào những năm 1970 là việc ứng dụng thuyết
hành vi trong đánh giá giáo viên (và cả giáo sinh thực tập) - còn được gọi là nghiên cứu quá trình -
sản phẩm (process - product research). Năng lực giảng dạy của giáo viên được đánh đồng với một
loạt hành vi rời rạc, có thể quan sát được. Dựa trên giả thuyết rằng một hành vi cụ thể nào đó có
mối quan hệ chặt chẽ với một kết quả học tập nhất định của người học. Tập hợp những hành vi đó
Liên hệ: Nguyễn Vũ Bích Hiền, e-mail: hiennvb@hnue.edu.vn
192
Tiếp cận năng lực trong đánh giá giáo viên, giáo sinh sư phạm
tạo thành năng lực giảng dạy của giáo viên. Để đánh giá giáo viên chúng ta cần nghiên cứu chúng
trong mối tương quan với kết quả học tập của người học. Nghiên cứu của Medley [11] đã chỉ ra
289 biểu hiện hành vi được chắt lọc ra từ một danh sách ban đầu gồm 732 hành vi. Những hành vi
này đều được nghiên cứu theo mối quan hệ giữa hành vi của giáo viên và kết quả học tập của học
sinh còn được gọi là các mối quan hệ quá trình - sản phẩm. Một nghiên cứu khác của Hoko [9] lại
cho biết có hơn 600 hành vi giảng dạy hiệu quả được thống kê cho đến thời điểm của ông.
Cũng từ quan điểm hành vi dẫn tới quan điểm đào tạo giáo viên theo tiếp cận năng lực
(competency-based teacher education) ở Mỹ và nhiều nước khác vào những năm 1970. Từ đây,
mọi đánh giá về hoạt động giảng dạy của giáo viên (hoặc giáo sinh sư phạm) để cấp chứng chỉ
nghề nghiệp hay thăng tiến đều dựa trên năng lực thực hiện (demonstrated competency). Tiếp cận
năng lực thực hiện cho rằng dựa trên nhiệm vụ của người giáo viên, chúng ta có thể xác định những
hành vi cụ thể, có thể quan sát được và trong quá trình kiến tập, giáo sinh có thể quan sát và học
theo những hành vi này để hình thành năng lực giảng dạy của mình. Các mức độ thực hiện hành
vi sẽ được đưa vào thước đo và việc đánh giá giáo viên cũng căn cứ trên những biểu hiện hành vi
được định trước này.
Quan điểm hành vi tồn tại trong một khoảng thời gian dài, nhưng càng ngày càng có nhiều
nhà nghiên cứu hoài nghi tính toàn diện, đầy đủ của tiếp cận này và họ cố gắng tìm ra một quan
điểm thay thế. Nghiên cứu quá trình - sản phẩm bị chỉ trích là bẻ vụn tính liên tục, hệ thống của
hoạt động thực hành nghề nghiệp và bỏ qua tác động của bối cảnh tới kết quả thực hành của một
cá nhân [3]. Thêm vào đó, nhiều người cũng cho rằng nghiên cứu quá trình - sản phẩm chỉ đưa
ra được một danh sách biểu hiện hành vi rời rạc, không gắn với bối cảnh thực hành nghề nghiệp
và không tính đến những tác động bên ngoài lớp học, ảnh hưởng tới năng lực học tập của người
học [7]. Nói cách khác, tiếp cận hành vi không thể hiện đầy đủ thực tế hoạt động giảng dạy của
giáo viên và chẻ nhỏ năng lực vốn tồn tại như một chỉnh thể toàn vẹn [5,13,14,17]. Ngoài ra, với
600 hành vi giảng dạy hiệu quả mà giáo sinh cần thực hiện được (mà con số này chưa chắc đã là
con số cuối cùng) sẽ làm cho việc đánh giá giáo viên trở nên rất phức tạp và tốn thời gian. Nghiên
cứu tổng thuật 60 năm nghiên cứu quá trình - sản phẩm của Adelman [1] chỉ ra rằng độ giá trị và
độ thống nhất nội tại của công cụ đánh giá năng lực giảng dạy của giáo viên cũng là vấn đề đáng
bàn.
2.2. Tiếp cận tổng thể
Nhận thức được những bất cập của thuyết hành vi trong tiếp cận năng lực thực hiện, một
hướng tiếp cận mới ra đời được gọi là tiếp cận tổng thể (holistic approach). Tiếp cận tổng thể nhìn
nhận năng lực với phạm vi rộng hơn, bao gồm những thuộc tính cá nhân (ví dụ như kiến thức) và
được gắn với bối cảnh thực tế. Điều này khác biệt với thuyết hành vi chỉ quan tâm tới biểu hiện
hành vi của mỗi cá nhân. Tiếp cận tổng thể quan tâm tới cả biểu hiện hành vi và kiến thức hay
nhận thức ẩn chứa đằng sau hành vi đó giúp giáo viên đưa ra quyết định đúng đắn trong những
hoàn cảnh khác nhau. Trong đào tạo giáo viên, nếu giáo sinh chỉ học cách làm theo những hành vi
(được coi là có hiệu quả) từ một giáo viên giỏi và có thể không hiểu vì sao người giáo viên đó lại
làm như vậy thì vấn đề sẽ nảy sinh khi giáo sinh đó được đặt trong một bối cảnh mới và những thử
thách mới. Không có kiến thức (knowledge base), giáo sinh sẽ gặp khó khăn để phát triển năng lực
nghề nghiệp.
Evans [6]; Preston & Walker [12]; Turner - Bisset [17] cho rằng việc đánh giá năng lực
giảng dạy của giáo viên (và giáo sinh sư phạm) cần phải quan tâm tới cả mặt hành vi (kĩ năng) và
193
Nguyễn Vũ Bích Hiền
cả nhận thức, giá trị, kinh nghiệm đã định hướng cho những hành vi đó. Những khía cạnh khác
nhau của năng lực cần phải được gắn kết với nhau thành một chuỗi hành động chứ không phải là
một danh sách các hành vi [6].
Các nghiên cứu của Jones, Voorhees, Paulson [10] cho thấy có những mối quan hệ đa tầng
bậc giữa các năng lực, kinh nghiệm học tập và đánh giá, trình bày trong Sơ đồ 1.
Sơ đồ 1. Mối quan hệ thứ bậc giữa năng lực, kinh nghiệm học tập và đánh giá
(Jones, Voorhees, Paulson, 2002) [10]
Theo Sơ đồ 1, tầng dưới cùng để chỉ năng lực tiềm tàng và đặc điểm nhân cách mà người
học đem theo vào quá trình giáo dục. Tầng thứ hai là những kiến thức, kĩ năng, thái độ mà người
học có được nhờ trải qua quá trình giáo dục. Tầng thứ 3 là năng lực người học hình thành nhờ sự
hợp nhất những kiến thức, kĩ năng, thái độ đã học được và những tố chất nhân cách khác, gắn với
những nhiệm vụ cần thực hiện trong khoá học. Tầng cao nhất là kết quả của việc thể hiện năng lực
vào giải quyết các nhiệm vụ thực tế.
Đặc biệt, khi quan tâm tới bối cảnh, năng lực giảng dạy được mô tả thành các mức độ năng
lực thực hiện gắn với một tập hợp các nhiệm vụ chuyên môn [5,7]. Tập hợp nhiệm vụ này được
xác định bởi giáo viên trong nhà trường, dưới sự tư vấn của cộng đồng địa phương để đảm bảo phù
hợp với bối cảnh [7]. Fish (1995) cũng chỉ ra rằng năng lực chỉ được đánh giá chính xác khi chúng
ta nghiên cứu kết quả thực hành trong những bối cảnh khác nhau và so sánh, tổng hợp, khái quát
hoá. Đối với giáo sinh trong trường sư phạm Fish [7;149] tin rằng một đánh giá mang tính tổng thể
về năng lực giảng dạy sẽ giúp giáo sinh học được nhiều hơn là một đánh giá chỉ dựa trên hành vi.
Theo tiếp cận tổng thể, Stake [15] cũng khẳng định, việc đánh giá giảng dạy là một phần không thể
tách rời của đánh giá nhà trường. Đánh giá năng lực của giáo viên cần được nghiên cứu đồng thời
với các mục tiêu của nhà trường, môi trường lớp học, tổ chức hành chính, nội dung chương trình
đào tạo, thành tích học tập của học sinh và tác động của các chương trình học đối với cộng đồng.
194
Tiếp cận năng lực trong đánh giá giáo viên, giáo sinh sư phạm
Đối với các cơ sở đào tạo giáo viên ở Việt Nam hiện nay, chúng ta cũng cần có một tiếp cận
tổng thể về năng lực trong đánh giá giáo viên và giáo sinh sư phạm. Chương trình đào tạo cần đổi
mới theo tiếp cận năng lực, nghĩa là việc đánh giá và thiết kế nội dung chương trình phải bám sát
chuẩn (năng lực) đầu ra. Người học không chỉ biết mà còn phải thực hiện được những nhiệm vụ
phức hợp trong những tình huống, bối cảnh khác nhau. Trong thực tập nghề nghiệp, giáo sinh cần
được tạo cơ hội để thực hành nghề trong nhiều thời điểm khác nhau của năm học và đa dạng các
loại công việc, gắn với vai trò trách nhiệm của người giáo viên trong nhà trường phổ thông. Nhờ
đó, việc đánh giá năng lực nghề nghiệp của giáo sinh sẽ chính xác và sát hơn với thực tế, với chuẩn
nghề nghiệp giáo viên mà chương trình đào tạo hướng tới.
3. Kết luận
Như vậy, tiếp cận năng lực trong đánh giá giáo viên và giáo sinh sư phạm bây giờ đã khác
với tiếp cận truyền thống theo thuyết hành vi trước đây. Đánh giá giáo sinh bằng cách đánh dấu
đơn giản vào một bảng liệt kê sẵn các hành vi mà người giáo sinh thực hiện được trong giảng dạy,
bị coi là cách đánh giá không chính xác. Theo tiếp cận mới, các tiêu chí đánh giá giáo sinh trong
giảng dạy (thực tập giảng dạy) cần phải đặt mức độ đòi hỏi cao về nhận thức và năng lực hành vi
[4], chia ra thành nhiều cấp độ năng lực, gắn bó chặt chẽ với chức năng, nhiệm vụ của người giáo
viên [16] và tính tới điều kiện, hoàn cảnh mà giáo sinh thực hiện hoạt động giảng dạy [7].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Adelman, C., 1989. Teacher appraisal, collaborative research and teacher consortia. In H.
Simons & J. Elliott (Eds.), Rethinking Appraisal and Assessment. England, Milton Keynes:
Open University Press.
[2] Bloom, B.S, Hastings, J.T, Madaus, G.G., 1971. Handbook on formative and summative
evaluation of student learning. New York: Mc Graw-Hill.
[3] Chappell, C., & Melville, B., 1995. Professional Competence and the Initial and Continuing
Education of NSW TAFE Teachers. A High Quality Teaching Workforce for TAFE NSW.
Report Part 1 (No. 1-86365-301-5; ISBN-1-86365-302-3). Sydney, New South Wales:
Research Centre for Vocational Education and Training (RCVET), University of Technology,
Sydney, Australia.
[4] Crebbin, W., 2004. Criteria, competencies and cleft sticks. Retrieved 7 July, 2004.
[5] Dunlop, R., 1992. Effective Teaching or Levels of Competency? (Issues in Education No. 12).
Brisbane, QLD: Ministerial Consultative Council on Curriculum.
[6] Evans, G., 1992. The Knowledge Base of Beginning Teachers: Competence and
Competencies. In K. Smith & P. Marland (Eds.), Knowledge and Competence for Beginning
Teaching: Report of a Policy Development Initiative, pp. 5-21. Toowong, QLD: Queensland
Board of Teacher Registration.
[7] Fish, D., 1995. Quality Mentoring for Student Teachers: A Principled Approach to Practice.
London: David Fulton.
[8] Hibbard, K. M. and others, 1996. Performance-Based Learning and Assessment. A
Teacher’s Guide. Association for Supervision and Curriculum Development, Alexandria,
VA.; Pomperaug Regional School District 15, Middlebury, CT.
195
Nguyễn Vũ Bích Hiền
[9] Hoko, J. A., 1988.Merit Pay: In Search of the Pedagogical Widget. The Clearing House, Vol.
61, No. 1, 29-31.
[10] Jones, E, Voorhees, R, Paulson, K., 2002. Defining and assessing learning: Exploring
competency-based initiatives. Washington, DC: Council of the National Postsecondary
Education Cooperative.
[11] Medley, D. M., 1977. Teacher Competence and Teacher Effectiveness - A Review of
Process-Product Research. Washington,D.C: American Association of Colleges for Teacher
Education.
[12] Preston, B., & Walker, J., 1993. Competency Standards in the Professions and Higher
Education: A Holistic Approach. In C. Collins (Ed.), Competencies - The competencies
debate in Australian education and training. Canberra: Australian College of Education.
[13] Simons, H., & Elliott, J. (Eds.), 1989. Rethinking Appraisal and Assessment. England, Milton
Keynes: Open University Press.
[14] Squires, G., 1999. Teaching as a Professional Discipline. London: Falmer Press.
[15] Stake, R. E., 1989. The evaluation of teaching. In H. Simons & J. Elliott (Eds.) Rethinking
Appraisal and Assessment. England, Milton Keynes: Open University Press.
[16] Tomlinson, P., 1995. Understanding mentoring - Reflective strategies for school-based
teacher preparation. Buckingham: Open University Press.
[17] Turner-Bisset, R., 2001. Expert Teaching - Knowledge and Pedagogy to Lead the Profession.
London: David Fulton Publishers.
ABSTRACT
The Competency Approach in assessing teachers and student teachers
The Competency approach was studied over a long period of time a long process of behavior
approach to holistic capacity. Using our new approach, the criteria for evaluating student teachers
in teaching (teaching practice) should be placed high demands on the level of cognitive and
behavioral capacities, divided into several levels of power, inextricably closely with the functions
and duties of teachers and the conditions and circumstances that student teachers implement
teaching activities. This is a scientific basis for further research on using the competency approach
in evaluating teachers and student teachers in Vietnam today.
196