Tiểu luận Tài chính tiền tệ

Từ thế kỷ thứ 7 trước công nguyên, tiền kim loại đã bắt đầu được sử dụng và phát triển rộng rãi trong suốt thời kỳ các triều đại phong kiến. Kim loại được chọn làm bản vị cho chế độ tiền tệ các nước cũng được thay thế từ những kim loại kém giá (sắt, đồng, kẽm.) đến những kim loại có giá trị cao (bạc, vàng). Để thuận tiện hơn trong quá trình sử dụng, một số thương nhân đã tự in đúc tiền và sau này nhà nước chính thức ban hành tiêu chuẩn giá cả cho đồng tiền quốc gia và thống nhất kỹ thuật in – đúc tiền để đảm bảo uy tín, tính chất pháp lý của đồng tiền, đồng thời chứng thực quyền lực nhà nước. Khi chủ nghĩa tư bản hình thành, nền sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển mạnh mẽ đòi hỏi vật trung gian trao đổi phải có giá trị cao, tồn tại như một hình thức được nhiều người chấp nhận và phải có độ bền để bảo tồn giá trị theo thời gian. Từ đó, vàng và bạc đã loại dần các kim loại kém giá, dễ rỉ sét để trở thành tiền tệ phổ biến trong khoảng thế kỷ 18 và 19. Trong giai đoạn này, có những nước đã thực hiện chế độ song bản vị, nghĩa là cùng thừa nhận vàng và bạc là tiền tệ trong lưu thông. Cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, người ta phát hiện ra nhiều mỏ bạc, năng suất khai thác bạc tăng lên, kim loại bạc được tạo ra nhiều hơn nên giá trị của nó đã bị suy giảm so với vàng. Khi đó, vai trò trung gian trong trao đổi hàng hóa của bạc đã bị sụt giảm rất nhiều so với vàng và kim loại vàng đã trở thành thước đo giá trị của bạc. Lúc này, hầu hết các nước phương Tây đã áp dụng chế độ bản vị vàng. Mối quan hệ giao thương bị phụ thuộc nhiều vào châu Âu nên các nước châu Á như Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, các nước Đông Dương,. sau đó cũng lần lượt chuyển sang chế độ bản vị vàng. Hoá tệ kim loại có ưu điểm là tính chất đồng nhất cao về chất lượng, giá trị ít biến đổi, dễ bảo quản, vận chuyển, chia nhỏ hay gộp lại. và đặc biệt là khi vàng được sử dụng làm tiền tệ thì các ưu điểm trên càng nổi trội hơn. Tuy nhiên vẫn có nhược điểm là nguồn khai thác có hạn. Khi quy mô sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển đòi hỏi sự gia tăng của phương tiện trao đổi thì nguồn hoá tệ kim loại không còn đủ khả năng đáp ứng, do đó, các nước dần chuyển sang sử dụng tín tệ.

doc64 trang | Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 4860 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tài chính tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TIỀN TỆ 1.1. LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TIỀN TỆ 1.1.1. Nguồn gốc ra đời và khái niệm tiền tệ 1.1.1.1. Nguồn gốc ra đời Sự ra đời của tiền tệ gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Trong thời kỳ đầu của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, với công cụ lao động thô sơ, năng suất lao động thấp, con người thường chỉ có một số sản phẩm ít ỏi thu về sau một ngày săn bắn, hái lượm. Khi đời sống cộng đồng phát triển, ý thức phân công lao động được hình thành và lượng sản phẩm dư thừa đã làm nảy sinh quan hệ trao đổi giữa các thị tộc. Trong giai đoạn này, trao đổi sản phẩm mang tính ngẫu nhiên và được thực hiện bằng phương thức trao đổi sản phẩm trực tiếp H – H’.Đây là bước tiến lớn để xã hội công xã thoát khỏi tình trạng tự cung tự cấp. Tuy nhiên, quá trình trao đổi hàng hoá ở giai đoạn này còn rất sơ khai và chủ yếu được thực hiện dựa trên nguyên tắc sự trùng khớp ngẫu nhiên về nhu cầu sử dụng.Tức là đòi hỏi các cá nhân tham gia vào quá trình trao đổi hàng hóa phải trực tiếp gặp nhau và đặc biệt là phải có sự phù hợp về nhu cầu trao đổi với nhau.Ví dụ như một người cần vải vóc và có thóc phải gặp được người cần thóc và có vải thì sự trao đổi hàng hoá mới có thể diễn ra.Như vậy, việc thực hiện giá trị của một hàng hoá này phụ thuộc vào giá trị sử dụng của một hàng hoá khác. Ngoài ra, trong hình thức trao đổi này người ta còn phải thoả thuận về tỷ lệ giá trị của hàng hoá, về số lượng hoá trao đổi,... Cùng với việc cải tiến công cụ lao động và quá trình phân công lao động xã hội ngày một sâu sắc hơn, nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh, do đó, hình thái biểu hiện giá trị của các hàng hóa không còn mang tính ngẫu nhiên nữa. Lúc này, hàng hoá trên thị trường đã phong phú đa dạng hơn, đòi hỏi phạm vi trao đổi phải được mở rộng hơn. Sự phát triển của quá trình trao đổi hàng hóa dẫn đến vật trung gian trong trao đổi hàng hoá đã ra đời.Quá trình trao đổi được thể hiện dưới phương trình H-vật trung gian-H’. Ban đầu vật trung gian hay vật ngang giá chung là những hàng hoá có thể trao đổi trực tiếp được với nhiều hàng hoá thông thường khác. Đặc điểm của chúng là có giá trị sử dụng thiết thực, quý hiếm, dễ bảo quản, vận chuyển và mang tính đặc thù địa phương. Về sau, với sự phát triển của trao đổi, vật ngang giá chung chỉ giới hạn ở một số hàng hoá quý hiếm và có ý nghĩa tượng trưng như da thú, vỏ sò, vòng đá,... Khi lực lượng sản xuất phát triển, phạm vi không gian trao đổi hàng hóa được mở rộng, đồng thời, khi trao đổi hàng hoá đã trở thành nhu cầu thường xuyên của con người thì tình trạng có nhiều vật ngang giá chung đã gây khó khăn cho sự lưu thông trao đổi hàng hoá, khi đó vật ngang giá chung bằng kim loại khẳng định được ưu thế và thay thế dần các vật ngang giá chung khác. Kim loại đầu tiên được sử dụng làm vật ngang giá chung là sắt và kẽm, sau đó là đồng và bạc. Đến đầu thế kỷ XIX, với những đặc điểm ưu việt của mình như tính quý hiếm, tính dễ dát mỏng, chia nhỏ, tính lâu bền và gọn nhẹ...vàng bắt đầu đóng vai trò vật ngang giá chung và hình thái tiền tệ được cố định ở vàng, gọi là “kim loại tiền tệ”. Như vậy, khi vàng độc chiếm vị trí vật ngang giá chung thì cái tên “vật ngang giá chung” được thay bằng “tiền tệ”. Có thể nói sự ra đời của vật ngang giá chung trong trao đổi đã đánh dấu giai đoạn mở đầu cho sự xuất hiện của tiền tệ, đồng thời là bước chuyển hoá từ nền kinh tế trao đổi trực tiếp sang nền kinh tế tiền tệ. Sự hoàn thiện từng bước của vật ngang giá chung mà kết quả là sự xuất hiện của tiền tệ ở đầu thế kỷ XIX, không những phản ánh số lượng và chủng loại hàng hoá đưa ra thị trường ngày càng phong phú, mà còn phản ánh trình độ sản xuất hàng hoá đã tiến bộ vượt bậc so với thời gian trước đây. Trải qua tiến trình phát triển, tiền tệ đã tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của đời sống kinh tế. Như vậy, có thể khẳng định rằng tiền tệ là một phạm trù kinh tế lịch sử. Sự xuất hiện của tiền tệ là một phát minh vĩ đại của loài người trong lĩnh vực kinh tế. Kể từ khi ra đời, tiền tệ đã trở thành tác nhân thúc đẩy nhanh chóng các hoạt động giao lưu kinh tế, làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế - xã hội. Theo K.Mark: “Tiền tệ ra đời là một sự tất yếu khách quan, tiền tệ là sản phẩm tất yếu của quá trình trao đổi, là hình thái giá trị phát triển cao nhất trong trao đổi”. 1.1.1.2. Khái niệm tiền tệ K.Mark (1818-1883) dưới cái nhìn của một nhà biện chứng duy vật đã nghiên cứu nguồn gốc ra đời của tiền tệ qua sự phát triển các hình thái giá trị và ông đã khẳng định: tiền tệ có nguồn gốc từ hàng hoá, từ thế giới hàng hoá tách ra.Theo quan điểm của K.Mark, tiền tệ được định nghĩa như sau: Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt, tách ra khỏi thế giới hàng hóa, được dùng làm vật ngang giá chung để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các hàng hóa khác và thực hiện trao đổi giữa chúng. Tiền tệ ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự phát sinh, tồn tại và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Quá trình này chứng minh rằng “...cùng với sự chuyển hoá chung của sản phẩm lao động thành hàng hoá, thì hàng hoá cũng chuyển hoá thành tiền tệ”. Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt. Do đó, cũng như các hàng hoá khác, tiền tệ có hai thuộc tính : giá trị và giá trị sử dụng. Để sáng tạo ra tiền tệ, cũng có lượng hao phí lao động sống của những người thợ khai thác vàng, thợ đúc tiền kết tinh trong đồng tiền vàng, và với vai trò là trung gian trong trao đổi hàng hóa, có thể trao đổi với tất cả các hàng hóa khác thì lúc này tiền tệ có khả năng giúp con người thỏa mãn mọi nhu cầu sử dụng . Như vậy, tiền tệ có giá trị sử dụng đặc biệt : giá trị sử dụng xã hội. K.Mark nhận xét: “ giá trị sử dụng của hàng hoá bắt đầu từ lúc nó rút ra khỏi lưu thông, còn giá trị sử dụng của tiền tệ với tư cách là phương tiện lưu thông lại chính là sự lưu thông của nó”. Lịch sử của sản xuất và trao đổi hàng hoá đã chứng minh rằng nền kinh tế hàng hoá là một thực thể đầy biến động. Nó tồn tại và phát triển theo một quy luật khách quan. Bước vào thế kỷ 20, cùng với sự phong phú của đời sống kinh tế, khi đề cập đến tiền tệ người ta không nhìn nó một cách hạn hẹp và giản đơn rằng tiền tệ chỉ là tiền kim loại hay tiền giấy mà đã xem xét trên giác độ rộng hơn kể cả các loại séc, số dư tiền gửi tại ngân hàng,... nếu chúng có thể chuyển đổi dễ dàng thành tiền mặt thì cũng có thể xem là tiền theo nghĩa rộng. Samuelson đã viết: “ Bản chất của tiền tệ ngày nay đã được phơi bày rõ ràng, người ta muốn có tiền tệ với danh nghĩa là tiền chứ không phải hàng hoá, không phải vì bản thân nó mà vì những thứ mà dùng nó sẽ mua được”... “bản chất của tiền tệ là để dùng làm phương tiện trao đổi”. Ngày nay, ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, tiền tệ không đơn thuần là phương tiện trao đổi mà người ta còn sử dụng tiền để đầu tư, để cho vay và xem như một dạng của cải, một đối tượng để sở hữu. Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại: Tiền tệ là bất cứ thứ gì được chấp nhận chung trong thanh toán để đổi lấy hàng hóa, dịch vụ và thực hiện các nghĩa vụ tài chính. 1.1.2. Các hình thái tiền tệ Với quan điểm về tiền tệ rất rộng mở của các nhà kinh tế học hiện đại, từ khi xuất hiện tới bây giờ, tiền tệ từ đã trải qua các hình thái sau đây. 1.1.2.1. Hoá tệ ( commodity money) - Hoá tệ phi kim loại Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển, hình thái biểu hiện của giá trị hàng hóa trong trao đổi không còn ngẫu nhiên. Phạm vi của trao đổi đã vượt khỏi cái khung nhỏ hẹp một vài hàng hoá, giới hạn trong một vài địa phương. Sự trao đổi ngày càng mở rộng giữa các hàng hoá, đòi hỏi phải có một hàng hoá có tính đồng nhất, tiện dụng trong vai trò của vật ngang giá, có thể tạo điều kiện thuận lợi trong trao đổi và bảo tồn giá trị. Khoảng 2000 năm trước công nguyên, vật ngang giá chung sử dụng trong trao đổi hàng hóa thường được chọn từ một loại hàng hoá có giá trị sử dụng cần thiết chung cho nhiều người, có thể bảo tồn lâu ngày đồng thời mang tính chất phổ biến, đặc trưng cho địa phương, khu vực nơi diễn ra quan hệ trao đổi. Thời cổ đại ở Trung Quốc, vật ngang giá chung rất đa dạng từ da cừu, vỏ trai đến thóc, vải... ; ở Hy Lạp, La Mã dùng súc vật; Tây Tạng, Mông Cổ dùng chè; Bắc Mỹ dùng thuốc lá,…. làm vật trung gian trong trao đổi. Và ngày nay, một số bộ lạc ở Châu Phi, Châu Úc còn dùng cá khô, thuốc lá làm vật trung gian trao đổi.Những hoá tệ dạng này có nhiều nhược điểm gây khó khăn cho quá trình trao đổi hàng hóa. Do mỗi vùng, mỗi địa phương chọn một hay một số loại hàng hóa làm vật ngang giá chung để trao đổi trong phạm vi địa phương mình nên đã dẫn đến tính không đồng nhất về hình thái và chất lượng của vật ngang giá chung. Bên cạnh đó, những vật ngang giá chung có ý nghĩa thiết thực đối với dân cư như gia súc, lương thực,…nhưng lại khó bảo quản trong thời gian dài; khó vận chuyển từ nơi này đến nơi khác do tính cồng kềnh; khó phân chia hay gộp lại nên không thuận tiện khi tham gia trao đổi với các hàng hóa có giá trị quá nhỏ hay quá lớn so với vật ngang giá chung. Mặt khác, theo đà phát triển của nền sản xuất, sự hình thành một thị trường rộng lớn đã đòi hỏi vật ngang giá chung mang tính phổ biến và đồng nhất hơn, do đó dẫn đến việc sử dụng tiền tệ kim loại. - Hoá tệ kim loại Từ thế kỷ thứ 7 trước công nguyên, tiền kim loại đã bắt đầu được sử dụng và phát triển rộng rãi trong suốt thời kỳ các triều đại phong kiến. Kim loại được chọn làm bản vị cho chế độ tiền tệ các nước cũng được thay thế từ những kim loại kém giá (sắt, đồng, kẽm...) đến những kim loại có giá trị cao (bạc, vàng). Để thuận tiện hơn trong quá trình sử dụng, một số thương nhân đã tự in đúc tiền và sau này nhà nước chính thức ban hành tiêu chuẩn giá cả cho đồng tiền quốc gia và thống nhất kỹ thuật in – đúc tiền để đảm bảo uy tín, tính chất pháp lý của đồng tiền, đồng thời chứng thực quyền lực nhà nước. Khi chủ nghĩa tư bản hình thành, nền sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển mạnh mẽ đòi hỏi vật trung gian trao đổi phải có giá trị cao, tồn tại như một hình thức được nhiều người chấp nhận và phải có độ bền để bảo tồn giá trị theo thời gian. Từ đó, vàng và bạc đã loại dần các kim loại kém giá, dễ rỉ sét để trở thành tiền tệ phổ biến trong khoảng thế kỷ 18 và 19. Trong giai đoạn này, có những nước đã thực hiện chế độ song bản vị, nghĩa là cùng thừa nhận vàng và bạc là tiền tệ trong lưu thông. Cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, người ta phát hiện ra nhiều mỏ bạc, năng suất khai thác bạc tăng lên, kim loại bạc được tạo ra nhiều hơn nên giá trị của nó đã bị suy giảm so với vàng. Khi đó, vai trò trung gian trong trao đổi hàng hóa của bạc đã bị sụt giảm rất nhiều so với vàng và kim loại vàng đã trở thành thước đo giá trị của bạc. Lúc này, hầu hết các nước phương Tây đã áp dụng chế độ bản vị vàng. Mối quan hệ giao thương bị phụ thuộc nhiều vào châu Âu nên các nước châu Á như Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc, các nước Đông Dương,... sau đó cũng lần lượt chuyển sang chế độ bản vị vàng. Hoá tệ kim loại có ưu điểm là tính chất đồng nhất cao về chất lượng, giá trị ít biến đổi, dễ bảo quản, vận chuyển, chia nhỏ hay gộp lại... và đặc biệt là khi vàng được sử dụng làm tiền tệ thì các ưu điểm trên càng nổi trội hơn. Tuy nhiên vẫn có nhược điểm là nguồn khai thác có hạn. Khi quy mô sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển đòi hỏi sự gia tăng của phương tiện trao đổi thì nguồn hoá tệ kim loại không còn đủ khả năng đáp ứng, do đó, các nước dần chuyển sang sử dụng tín tệ. 1.1.2.2. Tín tệ: Tín tệ là loại tiền tệ mà bản thân tự nó không có giá trị (hoặc giá trị nội tại không đáng kể so với giá trị danh nghĩa), song nhờ có sự tín nhiệm của mọi người mà có giá trị trao đổi và được sử dụng trong lưu thông. Có các dạng tín tệ cơ bản sau: - Tín tệ kim loại Tiền bằng kim loại thuộc hình thái tín tệ khác với kim loại tiền tệ thuộc hình thái hoá tệ. Ở hình thái này giá trị nội tại của kim loại thường không phù hợp với giá trị danh nghĩa. Ở thời kỳ đầu của tín tệ kim loại, các kim loại có giá trị cao như vàng, bạc được sử dụng làm tín tệ kim loại. Tuy nhiên, khi việc khai thác những kim loại này ngày càng khó khăn, giá trị những kim loại này ngày càng cao, dẫn đến việc phát hành và lưu hành đồng tín tệ là vàng và bạc cũng gặp phải những khó khăn nhất định. Vì thế, cần thiết phải có một loại tiền tệ khác thay thế cho phù hợp với yêu cầu trong trao đổi lưu thông và thanh toán hàng hóa dịch vụ. Ngày nay, tín tệ kim loại vẫn được sử dụng trong lưu thông dưới dạng các loại tiền đúc bằng kim loại kém giá (tiền xu của các quốc gia). - Tiền giấy Tiền giấy khả hoán Tiền giấy khả hoán là loại tiền giấy được ấn định tiêu chuẩn giá cả bằng vàng và có thể trực tiếp chuyển đổi ra vàng theo hàm lượng Nhà nước đã công bố.Tiền giấy khả hoán được lưu hành trong chế độ bản vị vàng hối đoái, khi số lượng tiền đúc bằng vàng trong lưu thông không đủ để làm phương tiện trao đổi, Nhà nước phát hành tiền giấy vào lưu thông và công bố hàm kim lượng của đồng tiền. Tiền giấy khả hoán là 1 mảnh giấy được in thành tiền để lưu hành, thay thế cho tiền bằng vàng hay tiền bằng bạc mà người ta kí gửi ở ngân hàng. Người có loại tiền giấy này có thể đến ngân hàng để đổi lấy 1 số lượng vàng hay một số lượng bạc tương đương với giá trị ghi trên tờ giấy được sử dụng làm tiền vào bất cứ lúc nào mà họ cần. Như vậy, bất cứ lúc nào mọi người cũng có thể đem tiền giấy khả hoán đó đổi lấy vàng hay bạc có giá trị tương đương với giá trị được ghi trên tiền giấy khả hoán đó. Ở Trung Hoa từ đời Tống đã xuất hiện tiền giấy. Vì những nhu cầu mua bán, các thương gia hình thành từng thương hội có nhiều chi nhánh ở khắp các thị trấn lớn. Các thương gia ký thác vàng hay bạc vào hội sở của thương hội rồi nhận giấy chứng nhận của hội sở thương hội, với giấy chứng nhận này các thương gia có thể mua hàng ở các thị trấn khác nhau có chi nhánh của thương hội, ngoài loại giấy chứng nhận trên triều đình nhà Tống còn phát hành tiền giấy và được dân chúng chấp nhận. Ở Việt Nam vào cuối đời Trần, Hồ Quý Ly đã thí nghiệm cho phát hành tiền giấy. Nhân dân ai cũng phải nộp tiền kim loại (vàng nén hoặc bạc nén) vào cho Nhà nước, cứ 1 quan tiền kim loại đổi được 2 quan tiền giấy, việc sử dụng tiền giấy của Hồ Quý Ly thất bại vì nhà Hồ sớm bị lật đổ, dân chưa quen sử dụng tiền giấy và sai lầm khi xác định quan hệ giữa tiền kim loại và tiền giấy (bao hàm ý nghĩa tiền giấy có giá trị thấp hơn). Nguồn gốc của tiền giấy chỉ có thể được hiểu rõ khi xem xét lịch sử tiền tệ các nước Châu Âu. Từ đầu thế kỷ thứ XVII, ở Hà Lan ngân hàng Amsterdam đã cung cấp cho những thân chủ gởi vàng vào ngân hàng những giấy chứng nhận bao gồm nhiều tờ nhỏ. Khi cần, có thể đem những tờ nhỏ này đổi lấy vàng hay bạc tại ngân hàng. Trong thanh toán cho người khác các giấy nhỏ này cũng được chấp nhận. Sau đó một ngân hàng Thụy Điển tên Palmstruch đã mạnh dạn phát hành tiền giấy để cho vay. Từ đó ngân hàng Palmstruch có khả năng cho vay nhiều hơn vốn tự có. Với nhiều loại tiền giấy được phát hành, lưu thông tiền tệ bị rối loại vì nhiều nhà ngân hàng lạm dụng gây nhiều thiệt hại cho dân chúng. Do đó, vua chúa các nước phải can thiệp vì cho rằng việc đúc tiền từ xưa là vương quyền và mặt khác việc phát hành tiền giấy là một nguồn lợi to lớn. Vương quyền các nước Châu Âu thừa nhận một ngân hàng tự có quyền phát hành tiền giấy với những điều kiện nhất định: + Điều kiện khả hoán: có thể đổi lấy bất cứ lúc nào tại ngân hàng phát hành + Điều kiện dự trữ vàng làm đảm bảo: ban đầu là 100% sau còn 40% + Điều kiện phải cho Nhà nước vay không tính lãi khi cần thiết. Tiền giấy bất khả hoán Tiền giấy bất khả hoán (tiền phù hiệu) là tiền giấy được ấn định tiêu chuẩn giá cả bằng pháp luật, bắt buộc lưu hành và không thể trực tiếp chuyển đổi ra vàng theo tiêu chuẩn Nhà nước quy định. Sự xuất hiện của tiền giấy bất khả hoán trong lịch sử đã được đánh dấu bởi hai hai mốc thời gian quan trọng là Đại chiến thế giới lần thứ nhất và khủng hoảng kinh tế thế giới 1929. Thế chiến thứ nhất đã làm cho các quốc gia tham chiến không còn đủ vàng để đổi cho dân chúng. Nước Anh từ năm 1931 đã cưỡng chế lưu hành tiền giấy bất khả hoán, nước Pháp năm 1936. Năm 1929, khủng hoảng kinh tế thế giới dẫn đến ở nước Đức mọi người đua nhau rút tiền, do đó Ngân hàng Trung ương Đức đã phải dùng vàng trả nợ nước ngoài và do đó số trữ kim gần như không còn. Tiến sĩ Schacht (1933 – 1936) đã áp dụng chính sách tiền tài trợ bằng cách phát hành trái phiếu, để tài trợ sản xuất và những chương trình kinh tế, xã hội lớn. Biện pháp này làm giảm 50% thất nghiệp, sản xuất tăng 41% (1934). Từ đó, nhiều nhà kinh tế cho rằng giá trị tiền tệ không phải dựa vào dự trữ vàng như các quan điểm trước đây. Ngày nay các nước đều áp dụng chế độ lưu thông tiền giấy. Tiền giấy do ngân hàng trung ương thống nhất phát hành là đồng tiền hợp pháp được lưu hành với giá trị bắt buộc và nhà nước không thực hiện chuyển đổi tiền giấy ra vàng. Tuy nhiên, vàng vẫn được thừa nhận là một trong những cơ sở đảm bảo của giấy bạc lưu hành cũng như là một tiêu chuẩn để xác định tính chất mạnh, yếu của các loại tiền giấy trên thị trường quốc tế. Tiền giấy được sử dụng làm phương tiện trao đổi ngày càng phổ biến vì những tiện lợi như dễ mang theo trong người, dễ cất giữ. Mặt khác, việc in tiền với nhiều mệnh giá khác nhau có thể đáp ứng cho nhu cầu trao đổi chi ly và chính xác. Dễ bị làm giả Chi phí lưu thông cao Có thể gây ra hiện tượng lạm phát nếu phát hành….. - Bút tệ ( bank money) Bút tệ hay còn gọi là tiền ghi sổ chỉ được tạo ra thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng, bút tệ không có hình thái vật chất và chỉ là những con số thể hiện số dư trên tài khoản ngân hàng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngân hàng, quá trình thanh toán ngày nay được tập trung đại bộ phận qua ngân hàng thông qua các bút toán chuyển khoản hoặc thanh toán bù trừ trên tài khoản ký thác. Sự ra đời của tiền ghi sổ cùng với các chứng từ thanh toán như séc, giấy chuyển ngân, giấy nhờ thu... đã làm đa dạng các phương tiện thanh toán bên cạnh hình thức thanh toán bằng tiền mặt, đồng thời còn tạo điều kiện giảm bớt những chi phí lưu hành tiền giấy như in ấn, bảo quản, kiểm điểm, vận chuyển. Vì vậy, việc sử dụng tiền ghi sổ được coi là xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế phát triển. Bút tệ có những ưu điểm hơn hẳn tiền giấy, có thể kể đến như: Sử dụng bút tệ an toàn hơn do tránh được rủi ro mất mát; quá trình sử dụng bút tệ để giao dịch qua hệ thống ngân hàng thuận tiện, tiết kiệm chi phí và thời gian giao dịch so với việc giao dịch bằng tiền mặt; việc chuyển đổi bút tệ sang tiền mặt được thực hiện một cách nhanh chóng, dễ dàng. Bên cạnh những ưu thế trên, bút tệ cũng có những hạn chế nhất định. Khi sử dụng bút tệ trong thanh toán thì người sử dụng phải chịu phí giao dịch, mức phí này do các tổ chức tín dụng ấn định, thường là ở một mức tối thiểu và một tỉ lệ % so với tổng số tiền giao dịch. Chính vì thế, khi giao dịch bút tệ với quy mô nhỏ lẻ thì người sử dụng có thể phải gánh chịu cho phí giao dịch rcao. Ngoài ra, muốn sử dụng được loại tiền này, đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải được đầu tư đầy đủ về mặt cơ sở vật chất kỹ thuật và phải tuân thủ những quy trình thủ tục nhất định. - Tiền điện tử (electronic money) Tiền điện tử là hình thức phát triển cao của tiền ghi sổ (bút tệ) được sử dụng qua hệ thống thanh toán tự động hay còn gọi là hộp ATM (Automated teller machine). Đây là một hệ thống máy tính điện tử nối mạng với hệ thống ngân hàng trung gian và kho chứa tiền mặt cũng như hệ thống thanh toán phục vụ cho việc thanh toán, chi trả của các chủ thể trong xã hội. Tiền điện tử tồn tại và được sử dụng thông qua các công cụ là các loại thẻ thanh toán như: thẻ tín dụng ( Credit cards), thẻ ghi nợ (Debit cards),… Tóm lại: Lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ luôn mang dấu ấn của nền văn minh nhân loại. Điều này đã được minh chứng qua quá trình phát triển các hình thức
Tài liệu liên quan