1. Lý do và mục đích chọn đề tài
Hàn Quốc là một quốc gia phát triển ở khu vực châu Á, đặc biệt là ở khu vực Đông
Bắc Á. Những năm gần đây, Hàn Quốc phát triển vƣợt bậc về mọi mặt, trong số đó không
thể không kể đến giáo dục. Chính phủ Hàn Quốc rất chú trọng đến vấn đề giáo dục và coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu. Chính sự đề cao vị trí đặc biệt của giáo dục trong xã hội,
tinh thần hiếu học cùng sự nhiệt tình cao trong giáo dục của ngƣời Hàn đã góp phần thúc
đẩy giáo dục Hàn Quốc phát triển mạnh mẽ nhƣ ngày nay. Trong bối cảnh nền kinh tế rất
phát triển, sự nhiệt tình cao trong giáo dục đã trở thành nguồn động lực lớn cho phát triển
kinh tế đất nƣớc, đƣa Hàn Quốc từ một đất nƣớc nhận viện trợ trở thành đất nƣớc viện trợ.
Cũng là một nƣớc nằm ở khu vực châu Á, Việt Nam có nhiều điểm tƣơng đồng với
Hàn Quốc. Trong bối cảnh hiện tại, Đảng và Nhà nƣớc đang xem giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Với tinh thần đó, giáo dục ngày càng đƣợc coi trọng và sự nhiệt tình trong giáo
dục của ngƣời Việt cũng dần tăng lên theo thời gian.
Với mục đích tìm hiểu sâu hơn về nhiệt tình trong giáo dục của ngƣời Hàn Quốc
chúng tôi đã chọn báo cáo này. Việc tìm ra những ƣu – nhƣợc điểm trong nhiệt tình giáo
dục của ngƣời Hàn Quốc sẽ giúp chúng tôi đƣa ra những bài học, kinh nghiệm cho Việt
Nam trong quá trình phát triển giáo dục trƣớc xu thế hội nhập và toàn cầu hóa.
13 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 104 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu cơ bản về ưu nhược điểm trong nhiệt tình giáo dục cao của người Hàn Quốc và liên hệ tìm ra bài học cho giáo dục Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC
232
TÌM HIỂU CƠ BẢN VỀ ƯU NHƯỢC ĐIỂM
TRONG NHIỆT TÌNH GIÁO DỤC CAO
CỦA NGƯỜI HÀN QUỐC VÀ LIÊN HỆ TÌM RA BÀI HỌC
CHO GIÁO DỤC VIỆT NAM
SVTH: Quách Hồng Hồng; Nguyễn Cẩm Vân 1H12
GVHD: ThS Phạm Thị Ngọc
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do và mục đích chọn đề tài
Hàn Quốc là một quốc gia phát triển ở khu vực châu Á, đặc biệt là ở khu vực Đông
Bắc Á. Những năm gần đây, Hàn Quốc phát triển vƣợt bậc về mọi mặt, trong số đó không
thể không kể đến giáo dục. Chính phủ Hàn Quốc rất chú trọng đến vấn đề giáo dục và coi
giáo dục là quốc sách hàng đầu. Chính sự đề cao vị trí đặc biệt của giáo dục trong xã hội,
tinh thần hiếu học cùng sự nhiệt tình cao trong giáo dục của ngƣời Hàn đã góp phần thúc
đẩy giáo dục Hàn Quốc phát triển mạnh mẽ nhƣ ngày nay. Trong bối cảnh nền kinh tế rất
phát triển, sự nhiệt tình cao trong giáo dục đã trở thành nguồn động lực lớn cho phát triển
kinh tế đất nƣớc, đƣa Hàn Quốc từ một đất nƣớc nhận viện trợ trở thành đất nƣớc viện trợ.
Cũng là một nƣớc nằm ở khu vực châu Á, Việt Nam có nhiều điểm tƣơng đồng với
Hàn Quốc. Trong bối cảnh hiện tại, Đảng và Nhà nƣớc đang xem giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Với tinh thần đó, giáo dục ngày càng đƣợc coi trọng và sự nhiệt tình trong giáo
dục của ngƣời Việt cũng dần tăng lên theo thời gian.
Với mục đích tìm hiểu sâu hơn về nhiệt tình trong giáo dục của ngƣời Hàn Quốc
chúng tôi đã chọn báo cáo này. Việc tìm ra những ƣu – nhƣợc điểm trong nhiệt tình giáo
dục của ngƣời Hàn Quốc sẽ giúp chúng tôi đƣa ra những bài học, kinh nghiệm cho Việt
Nam trong quá trình phát triển giáo dục trƣớc xu thế hội nhập và toàn cầu hóa.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong báo cáo này, chúng tôi chỉ khảo sát thực tế bối cảnh và ƣu – nhƣợc điểm trong
nhiệt tình giáo dục của ngƣời Hàn Quốc trong giai đoạn hiện nay. Từ đó tìm ra những bài
học bổ ích cho Việt Nam.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp phân tích, khảo sát, tổng hợp, đánh giá, thống kê số liệu.
4. Lịch sử nghiên cứu
Liên quan đến chủ đề này hiện đã có”Bài tiểu luận về thực trạng nền giáo dục Việt
Nam”(Nguyễn Minh Hải – 2012) và”Thực trạng giáo dục và những kiến nghị”(GS.
Nguyễn Lân Dũng – 2012). Dƣới góc độ là một sinh viên, mặc dù đã có những nghiên cứu
nhƣ đã kể trên nhƣng chúng tôi vẫn mạnh dạn chọn đề tài này với mục đích tìm hiểu và đề
3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC
233
ra một số giải pháp cho giáo dục Việt Nam dựa trên bài học từ giáo dục Hàn Quốc, để từ
đó có cái nhìn đa chiều hơn về giáo dục.
5. Bố cục của báo cáo
I. Phần mở đầu.
1. Lí do và mục đích chọn đề tài.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu.
4. Lịch sử nghiên cứu.
5. Mục lục
II. Phần nội dung.
1. Giải thích khái niệm.
1.1. Khái niệm chung về”nhiệt tình giáo dục”.
1.2. Khái niệm”nhiệt tình giáo dục”trong xã hội Hàn Quốc.
2. Ƣu, nhƣợc điểm trong nhiệt tình giáo dục cao của ngƣời Hàn Quốc và giải pháp
khắc phục nhƣợc điểm.
2.1. Thực trạng nhiệt tình giáo dục cao của ngƣời Hàn Quốc.
2.1.1. Lý do nhiệt tình trong giáo dục của ngƣời Hàn Quốc cao hơn so với các
nƣớc khác.
2.1.2. Thực trạng.
2.2. Ƣu nhƣợc điểm của sự nhiệt tình cao trong giáo dục của ngƣời Hàn Quốc.
2.2.1. Ƣu điểm.
2.2.2. Nhƣợc điểm.
2.3. Giải pháp khắc phục nhƣợc điểm.
3. Bài học cho giáo dục Việt Nam từ sự nhiệt tình cao trong giáo dục của ngƣời Hàn
Quốc.
3.1. Thực trạng giáo dục Việt Nam.
3.2. Sự nhiệt tình trong giáo dục của ngƣời Việt Nam.
3.3. Bài học cho Việt Nam từ nhiệt tình giáo dục mang lại cho Hàn Quốc.
III. Phần kết luận.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Giải thích khái niệm
3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC
234
1.1. Khái niệm chung về”nhiệt tình giáo dục”
Một ngọn lửa nếu nhƣ cháy ở trên cùng của một nhà cao tầng thì chắc chắn sẽ ít ngƣời
quan tâm chú ý đến; nhƣng nếu ngon lửa ấy bắt đầu từ tầng dƣới, sau đó lan lên những
tầng trên thì tất cả mọi ngƣời đều quan tâm. Nhiệt tình trong giáo dục cũng giống nhƣ ngọn
lửa bắt nguồn từ tầng dƣới của một tòa nhà. Trong xã hội đề cao bằng cấp, đề cao học vị
nhƣ hiện nay thì nhà nhà, ngƣời ngƣời đua nhau đầu tƣ cho con cái học hành đã trở thành
một trào lƣu, lan rộng khắp thế giới. Hiểu một cách đơn giản nhất,”nhiệt tình giáo
dục”chính là sự cạnh tranh trong học tập, là sự quan tâm, đầu tƣ cho giáo dục. Tuy nhiên,
nhiệt tình trong giáo dục cũng là con dao hai lƣỡi với sự phát triển của một quốc gia nếu
nhƣ nó trở nên quá mức.
1.2. Khái niệm”nhiệt tình giáo dục”trong xã hội Hàn Quốc
Trong xã hội Hàn Quốc, khái niệm”nhiệt tình giáo dục”là nhằm nói đến nhiệt huyết,
sự kỳ vọng vào giáo dục của các bậc phụ huynh. Theo 김용숙 (1986), khái niệm”nhiệt tình
giáo dục”để chỉ những căn bệnh nhƣ bệnh về học thêm, học lực hay điểm số, là sự mong
muốn cá nhân đối với việc con cái phải có đƣợc bằng cấp giỏi hay học vấn xuất sắc nhất
cần thiết để có thể thành đạt. 김영화 lại cho rằng”nhiệt tình giáo dục”có thể tạm coi là nhƣ
cầu mang tính xã hội về giáo dục. Còn 이돈희(1985) thì so sánh”nhiệt tình giáo dục”của
ngƣời Hàn Quốc với”bệnh sốt”, đồng thời bày tỏ quan ngại về những tác động tiêu cực của
chi phí học thêm do sự nhiệt tình trong giáo dục mang lại1. Tuy nhiên 이종각 cho rằng bản
chất của”nhiệt tình giáo dục”không có tiêu cực, mà chỉ có hiện tƣợng làm tiêu cực hóa
sự”nhiệt tình giáo dục”từ xã hội Hàn Quốc.
2. Ƣu, nhƣợc điểm trong nhiệt tình giáo dục cao của ngƣời Hàn Quốc và giải
pháp
2.1. Thực trạng nhiệt tình giáo dục cao của ngƣời Hàn Quốc
2.1.1 Lý do nhiệt tình trong giáo dục của ngƣời Hàn Quốc cao hơn so với các
nƣớc khác
Xã hội Hàn Quốc rất coi trọng học hàm, học vị và coi sự thành công về mặt học vấn
chính là điều kiện thiết yếu cho sự thành công về mặt xã hội. Ngƣời Hàn cho rằng ngƣời có
học vị cao, tốt nghiệp từ trƣờng đại học danh tiếng sẽ dễ xin việc và có cơ hội thăng tiến
cao. Đồng thời học vị chính là sự minh chứng cho địa vị xã hội. Tuy nhiên số lƣợng ngƣời
học thì nhiều mà số lƣợng các trƣờng đại học uy tín nhƣ đại học quốc gia Seoul, đại học
Korea, đại học Yonsei, lại có hạn nên sự cạnh tranh để vào một trong số những trƣờng
này thực sự khốc liệt. Bản thân những ngƣời làm cha làm mẹ luôn mong mỏi con cái
không bị tụt lại và có thể phát triển cả về mặt kinh tế cũng nhƣ địa vị trong xã hội nên
không còn cách nào khác ngoài việc ép buộc con cái họ vào việc học một cách quá mức.
Hơn nữa, một đất nƣớc nghèo tài nguyên thiên nhiên nhƣ Hàn Quốc thì nguồn lực con
1
Theo 이종각, 한국의 교육열, 세계의 교육열, 하우, 2005 년 p.18.
3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC
235
ngƣời hết sức quan trọng. Để có thể phát triển đƣợc con ngƣời tài giỏi phục vụ cho đất
nƣớc thì trƣớc hết phải nằm ở giáo dục. Giáo dục cung cấp nguồn nhân lực chất lƣợng cao
cho sự phát triển kinh tế. Tăng trƣởng kinh tế tạo ra thị trƣờng lao động cho học sinh - sinh
viên, cung cấp vốn cho Nhà nƣớc đầu tƣ vào giáo dục, đáp ứng nhu cầu cung cấp nhân tài
cho việc phát triển nền kinh tế, đẩy mạnh giáo dục học đƣờng. Hai yếu tố này có tác động
qua lại với nhau và không thể tách rời. Vì vậy giáo dục luôn đƣợc nhiều quốc gia xem là
quốc sách hàng đầu.
2.1.2. Thực trạng
Nhƣ đã trình bày ở trên, Hàn Quốc là đất nƣớc đƣợc biết đến với sự nhiệt tình trong
giáo dục cao hơn so với các nƣớc khác. Tuy nhiên trong xã hội Hàn Quốc, rất khó để nhìn
nhận sự nhiệt tình này một cách tích cực. Đó chính là bởi sự kỳ vọng quá mức vào việc con
cái phải đƣợc học trong trƣờng học danh tiếng, có đƣợc công việc theo mong muốn và vị
trí xã hội cao của các bậc phụ huynh ở đất nƣớc này. Những bậc phụ huynh thay vì là
ngƣời hƣớng dẫn để con cái trƣởng thành và thành công thì vai trò của họ ngày một bị bóp
méo bởi sự kỳ vọng quá mức ấy đã trở thành áp lực nặng nề cho chính con cái cũng nhƣ
bản thân họ. Theo báo cáo của chƣơng trình đánh giá sinh viên quốc tế Pisa của OECD (Tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế) vào năm 2012, sự kỳ vọng của cha mẹ vào việc con cái
có bằng đại học của Hàn Quốc là cao nhất trong các nƣớc OECD với gần 90% (biểu đồ 1).
Biểu đồ 1. Sự kỳ vọng của cha mẹ với việc con cái có bằng đại học
Nguồn: OECD, PISA 2012 Database; Table III.6.1c.
Cũng bởi sự kỳ vọng quá lớn vào tƣơng lai của con cái mà ngay khi con còn nhỏ, các
bậc phụ huynh Hàn Quốc đã tự nguyện đầu tƣ rất nhiều thời gian và tiền bạc. Cựu tổng
thống Hàn Quốc 이명박 đã từng nói rằng thách thức lớn nhất đối với ông trong ngành giáo
dục chính là sự đòi hỏi của các bậc phụ huynh. Dù gia đình không có điều kiện nhƣng họ
vẫn luôn cố gắng để con mình có thể nhận đƣợc sự giáo dục tốt nhất. Vì vậy để đáp ứng
mong muốn của phụ huynh rằng con họ phải đƣợc học tiếng Anh một cách tốt nhất ở
trƣờng tiểu học, ông đã phải mời hàng nghìn giáo viên nƣớc ngoài về Hàn Quốc2. Đúng
nhƣ vậy, thống kê của OECD năm 2010 cho thấy chi phí dành cho giáo dục của Hàn Quốc
2
Theo phát biểu của tổng thống Mỹ Barack Obama trong chiến dịch “Đổi mới giáo dục” năm 2009
3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC
236
chiếm đến 7,6% tổng thu nhập quốc dân, thuộc top cao nhất trong khối các nƣớc OECD.
Đặc biệt năm 2013 theo số liệu của cục thống kê Hàn Quốc tổng chi phí dành cho việc học
thêm ở cấp tiểu học, trung học cơ sở và phổ thông ở nƣớc này là 18,6 nghìn tỉ won, giảm
2,3% so với năm 2012 (khoảng 19 nghìn tỉ won) nhƣng vẫn là một con số rất lớn. Điều đó
cho thấy sự đầu tƣ rất lớn của cả chính phủ cũng nhƣ các gia đình trong giáo dục..
Không chỉ dừng lại ở đó, để đáp ứng nhu cầu của các bậc phụ huynh có sự nhiệt tình
trong giáo dục cao nhƣ vậy, các trung tâm đƣợc gọi là”자물쇠 학원”đã xuất hiện và đặc
biệt thu hút trong kỳ nghỉ đông của học sinh.”자물쇠 학원”trở thành tên gọi chung cho
các trung tâm mà ở đó giờ học bắt đầu lúc 10 giờ sáng và chỉ kết thúc khi đã quá 10 giờ
đêm. Ở đây, giờ nghỉ giải lao học sinh không đƣợc phép ra khỏi lớp học, trong giờ học
không đƣợc phép đùa nghịch hay lơ đãng, nếu không sẽ phải chịu bị đánh. Sự ra đời của
các trung tâm nhƣ vậy thực sự là một cú sốc nhƣng còn ngạc nhiên hơn nữa khi biết đƣợc
rằng chính các bậc phụ huynh cũng đồng tình và hài lòng với cách giáo dục nhƣ vậy. Có
thể nói chính áp lực học hành, sự kỳ vọng quá mức của cha mẹ đã đẩy học sinh Hàn Quốc
vào một cuộc chiến học hành mệt mỏi.
2.2. Ƣu nhƣợc điểm của sự nhiệt tình cao trong giáo dục của ngƣời Hàn Quốc
2.2.1. Ƣu điểm
Hàn Quốc là một ví dụ điển hình chứng minh số phận thay đổi thông qua giáo dục.
Tổng thống Mỹ Barack Obama đã từng phát biểu: “Một đất nƣớc từng nghèo hơn cả Kenya
- quê hƣơng của ông tôi là Hàn Quốc thời nay đang gia nhập các nƣớc phát triển. Lý do
chính là nhờ nhiệt huyết giáo dục cháy bỏng của Hàn Quốc”. Những năm 1950 và đầu
những năm 1960, Hàn Quốc là một trong các quốc gia nghèo nhất trên thế giới. Tuy nhiên,
từ xuất phát điểm cực thấp trong đống tro tàn của cuộc chiến tranh Triều Tiên, Hàn Quốc
đã vƣơn lên mạnh mẽ trở thành một trong những quốc gia có nền kinh tế lớn ở châu Á.
Chính sự nhiệt tình trong giáo dục đã giúp tăng cƣờng khả năng cạnh tranh, tạo ra nhiều
nhân tài cho đất nƣớc, trở thành nguồn động lực lớn trong việc phát triển kinh tế Hàn Quốc.
Ngoài ra, một đất nƣớc có sự nhiệt tình với giáo dục thì chắc chắn là tiêu chuẩn giáo
dục cũng sẽ cao. Tiêu chuẩn giáo dục cao sẽ đào tạo ra đƣợc nhiều con ngƣời có trình độ
cao để phục vụ cho đất nƣớc. Đồng thời, trong thế kỉ 21 đầy sự cạnh tranh, một đất nƣớc
có nhiều con ngƣời có trình độ, có học thức thì nền kinh tế cũng sẽ phát triển. Theo ấn bản
thƣờng niên The World Factbook của CIA, thu nhập bình quân đầu ngƣời của Hàn Quốc từ
năm 2004 liên tục tăng và đến năm 2012 đạt 32800 USD. Kinh tế phát triển tạo điều kiện
để chính phủ đầu tƣ đƣợc nhiều hơn cho giáo dục, nâng cấp trang thiết bị cơ sở vật chất,
mở ra nhiều cơ hội học tập cho ngƣời dân.
Tỷ lệ xóa nạn mù chữ hiện nay ở Hàn Quốc là 97,8% trong khi đó vào năm 1945 là
22%. Thành tựu này cũng có sự đóng góp rất lớn từ sự nhiệt tình trong giáo dục của ngƣời
Hàn Quốc.
2.2.2. Nhƣợc điểm
Không thể phủ nhận những thành tựu mà Hàn Quốc có đƣợc nhƣ ngày nay là nhờ một
3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC
237
phần rất lớn ở sự nhiệt tình cao trong giáo dục của họ nhƣng cũng chính điều này đã dẫn
đến những hiện tƣợng bất cập ở xã hội Hàn Quốc. Một hiện tƣợng điển hình phát sinh từ sự
nhiệt tình giáo dục quá mức chính là”기러기 아빠”.”기러기 아빠”là một từ mới xuất hiện
dùng để chỉ những ông bố vì việc học của con cái mà đƣa vợ và con ra nƣớc ngoài còn bản
thân ở lại Hàn Quốc một mình làm việc kiếm tiền nuôi vợ con. Theo một kết quả điều tra
về hiện tƣợng du học sớm (조기유학) của Bộ giáo dục Hàn Quốc từ năm 2004 đến năm
2011 thì mỗi năm tại đất nƣớc này xuất hiện thêm khoảng 22 nghìn 기러기 아빠. Đây là
một thực trạng đáng báo động bởi nó có thể gây ảnh hƣởng lớn đến hạnh phúc gia đình
cũng nhƣ những ông bố ngày đêm nỗ lực làm việc để chăm lo đƣợc cuộc sống cho cả vợ và
con ở nƣớc ngoài. Những vấn đề mà một ông bố 기러기 dễ dàng gặp phải chính là sự cô
đơn, giảm sút sức khỏe do uống rƣợu thƣờng xuyên, cảm thấy chán chƣờng, có suy nghĩ tự
sát hoặc muốn ly hôn Điều này tất yếu sẽ dẫn đến sự tan vỡ hạnh phúc gia đình.
Hơn nữa, việc giáo dục trƣớc lúc vào học đƣợc gọi là”조기교육”gây áp lực cho trẻ
em khi còn chƣa đến độ tuổi đi học, ảnh hƣởng rất lớn đến sự phát triển về thể chất cũng
nhƣ tinh thần.”조기교육”đƣợc định nghĩa là việc giáo dục con trẻ trƣớc khi đi học tiểu
học các môn nhƣ ngoại ngữ, âm nhạc, thể thao,... dựa trên ý muốn của các bậc phụ huynh.
Đây không phải một hiện tƣợng xấu nhƣng chính sự hối thúc con cái học hành phát từ sự
nhiệt tình quá cao trong giáo dục đã bóp méo bản chất của việc giáo dục sớm và dẫn đến
những hệ quả tiêu cực. Trẻ em phải đi học quá sớm và quá nhiều dễ dẫn đến căng thẳng
quá độ, sự tƣơng tác với xã hội kém, quan hệ giữa bố mẹ và con cái dần xa cách và mất
hứng thú trong việc học tập, tìm tòi.
Không chỉ có vậy, nhƣ đã trình bày ở phần thực trạng, các bậc phụ huynh Hàn Quốc
luôn tha thiết con mình có đƣợc sự giáo dục tốt nhất, vì vậy họ đã chi rất nhiều cho việc
học thêm của con cái. Điều này đã gây ra áp lực về mặt kinh tế rất nặng nề cho họ khi mà
chi phí học thêm cũng nhƣ chi phí học đại học quá tốn kém so với kết quả đạt đƣợc. Theo
một cuộc khảo sát đƣợc thực hiện tháng 11/2012, 56,6% số ngƣời đƣợc hỏi cho biết họ xếp
mình vào nhóm”nhà nghèo đi học”. Khoảng một phần tƣ cho biết họ tiêu từ 500.000 đến
600.000 won, 19,1% cho biết họ phải trả từ 400.000 đến 500.000 won chi phí giáo dục cho
mỗi đứa trẻ một tháng. Chính phủ thậm chí còn tin”nỗi ám ảnh giáo dục”đang phá hủy xã
hội, mức chi tiêu gia đình cho học hành đã đẩy tỷ lệ nợ hộ gia đình lên các mức cao kỷ lục.
Theo Viện nghiên cứu kinh tế LG, 28% hộ gia đình Hàn Quốc không đủ khả năng hoàn trả
các khoản nợ hàng tháng, và khó có thể sống nhờ thu nhập của họ. Trong khi đó, 70% thu
nhập của một gia đình ở nƣớc này lại đƣợc dồn vào việc đầu tƣ cho con em ăn học, đặc
biệt là ở những trƣờng tƣ, theo thống kê của Viện Nghiên cứu Kinh tế Samsung.
Hơn thế việc phải ngồi học hơn 12 tiếng đồng hồ một ngày ngay cả trong kỳ nghỉ ở
các trung tâm dạy thêm, áp lực từ việc thi cử, sự cạnh tranh khốc liệt để vào đƣợc những
ngôi trƣờng uy tín khiến học sinh Hàn Quốc tỏ ra không mấy hứng thú với việc học cũng
nhƣ trƣờng học. Theo thống kê của OECD năm 2012, mức độ hạnh phúc của học sinh Hàn
Quốc thấp nhất trong các nƣớc OECD (Biểu đồ 2). Không có gì bí mật về việc học sinh
3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC
238
Hàn Quốc tỏ ra đau khổ, đặc biệt ở cấp trung học phổ thông – cấp học chuẩn bị cho đại học.
Học sinh sẽ phải chiến đấu với một cuộc kiểm tra có tính cạnh tranh cao để tìm đƣợc một
vị trí tại các trƣờng đại học uy tín ở trong nƣớc (Đại học quốc gia Seoul, Đại học
Yonsei). Họ kỳ vọng rằng sau khi đỗ đạt vào các trƣờng này, lúc ra trƣờng, họ sẽ có lợi
thế lớn trong quá trình tìm việc của mình. Áp lực này càng trở nên trầm trọng hơn khi bị đè
nặng bởi kỳ vọng của các bậc cha mẹ ở Hàn Quốc.
Biểu đồ 2. Mức độ hạnh phúc
của học sinh khi ở trƣờng học.
Nguồn: OECD, PISA 2012 Database; Figure III.1.2.
Việc học đè nặng liên miên dễ dẫn đến những hệ lụy nhƣ phát sinh bệnh tâm lý nhƣ
thần kinh, trầm cảm và xuất hiện ý muốn tự sát. Thống kê của cục thống kê Hàn Quốc về
thanh thiếu niên trong khoảng từ 15 đến 24 tuổi năm 2010 đã chỉ ra rằng tự sát chính là
nguyên nhân khiến thanh thiếu niên của đất nƣớc này tử vong nhiều nhất. Trong khi đó vào
năm 2000 thì nguyên nhân do tai nạn giao thông mới là chủ yếu.
Bảng 1. Nguyên nhân tử vong của thanh thiếu niên (15-24 tuổi)
(Đơn vị: ngƣời/100 nghìn ngƣời)
Thứ 1 Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5
Năm 1999
Tai nạn giao
thông (19,8)
Tự sát (10,1)
Ung thƣ
(5,1)
Chết đuối
(3,2)
Bệnh tim
(2,3)
Năm 2000
Tai nạn giao
thông (19,3)
Tự sát (8,7)
Ung thƣ
(4,9)
Chết đuối
(3,5)
Bệnh tim
(1,8)
Năm 2008
Tự sát
(13,5)
Tai nạn giao
thông (9,2)
Ung thƣ
(3,7)
Chết đuối
(1,3)
Bệnh tim
(0,9)
Năm 2010
Tự sát
(13,0)
Tai nạn giao
thông (8,3)
Ung thƣ
(3,6)
Bệnh tim
(1,2)
Chết đuối
(1,0)
Nguồn: 2012 청소년통계‧통계청
3/2014 HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC
239
Từ bảng trên có thể thấy đƣợc nguyên nhân tử vong của thanh thiếu niên Hàn Quốc
phần lớn là do tự sát. Nhƣng còn đáng báo động hơn nữa cho tình trạng học quá tải đó
chính là nguyên nhân tự sát chủ yếu là do vấn đề học hành và áp lực điểm số (37,8%).
Không chỉ có vậy,”một ngƣời phụ nữ càng đƣợc giáo dục thì càng sinh ít con. Giáo
dục ảnh hƣởng đến mức độ sinh sản do làm tăng tuổi lập gia đình của phụ nữ và tăng việc
sử dụng các biện pháp tránh thai”3. Tỷ lệ sinh ở Hàn Quốc đã giảm đến mức thấp nhất
trong các nƣớc có thu nhập cao thuộc khối OECD (tính đến năm 2011), trong đó, nguyên
nhân một phần cũng là bởi gánh nặng chi phí cho giáo dục ở Hàn Quốc quá nặng nề và
thời gian dành cho việc học quá nhiều. Theo dữ liệu từ Ngân hàng thế giới về số trẻ em
bình quân đƣợc sinh bởi 1 ngƣời phụ nữ trong độ tuổi từ 15-49, Hàn Quốc đã giảm mạnh
từ 6,16 ngƣời (năm 1960) xuống 1,24 ngƣời (năm 2011). Tỷ lệ sinh thấp đã làm cho Hàn
Quốc trở thành một trong những xã hội già hóa nhanh nhất trên trái đất, có nguy cơ làm
chậm tăng trƣởng kinh tế của nƣớc này trong những thập kỷ tới.
Việc ngƣời ngƣời nhà nhà học đại học đã phát sinh hiện tƣợng”thừa thầy thiếu thợ”,
có nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học, cao học nhƣng vẫn thất nghiệp. Trong khi đó công
nhân làm việc trong các nhà máy thiếu trầm trọng, khiến Hàn Quốc phải nhập khẩu lao
động nƣớc ngoài. Sự nhiệt tình quá mức trong giáo dục còn dẫn đến vấn đề mất cân bằng
về mặt dân số vì tất cả những ngƣời đi học tập trung ở thủ đô, ở nông thôn chỉ còn những
ngƣời làm nông nghiệp. Điều này dẫn đến hiện tƣợng kết hôn quốc tế và gia đình đa văn
hóa ngày một tăng tại Hàn Quốc do những ngƣời đàn ông ở nông thôn không lấy đƣợc vợ.
2.3. Giải pháp khắc phục nhƣợc điểm
Để hạ đƣợc nhiệt của cơn sốt trong giáo dục này cần có sự chuyển hóa trong tƣ duy
của các bậc phụ huynh trong việc học hành của con cái. Bậc phụ huynh thay vì ép con cái
học thật nhiều, chỉ có học hay phải học thật giỏi thì nên có giải pháp khuyến khích con trẻ
tự nguyện học tập. Vai trò của những ngƣời làm cha mẹ phải giúp con cái nhận thức đƣợc
tầm quan trọng của việc học để chúng cảm thấy hứng thú thì sẽ tự tạo cho mình thói quen
học tập một cách chủ động, không cần đến sự thúc giục hay quản lý của bố mẹ. Đồng thời
cha mẹ cần có thời gian để nói chuyện với con cái, nghe con mình tâm sự, gỡ bỏ những
khúc mắc và đƣa ra lời khuyên thích đáng. Nói một cách khác, vai trò của bậc làm cha mẹ
đó là giúp đỡ con cái trong việc học chứ không phải đặt áp lực lên con trẻ.
Đồng thời, gia đình, nhà trƣờng, xã hội cũng nên