Khi biên soạn bộ thư mục trên, Trần Văn Giáp đã sử dụng phương pháp thư mục học
đặc biệt, đó là phương pháp thư mục học Việt Nam.
Trần Văn Giáp vốn được học nhiều về Hán học, sử học Trung Hoa nên ông rất am
tường về phương pháp thư mục học phương Đông. Ông lại được học khoa thư mục ở
Pháp và nắm được phương pháp thư mục học của phương Tây. Song khi vận dụng vào
thực tiễn biên soạn thư mục, Trần Văn Giáp đã trở về với cội nguồn dân tộc để kế
thừa và phát triển nền học thuật của nước nhà.
Nói về tính kế thừa, chính Trần Văn Giáp đã ghi trong bài tựa thư mục của
mình: “Soạn tập sách này, chúng tôi lấy hai thiên kinh tịch chí của Lê Quý Đôn và
Phan Huy Chú làm gốc”.
Trong thực tế, Trần Văn Giáp đã nghiên cứu, xử lý toàn bộ số tên sách của hai thư
mục cổ cùng với số sách đáng kể ông sưu tầm thêm được. Mặt khác ông đã lọc lấy tất
cả các thông tin mà các vị tiền bối đã cung cấp về sách trong thư mục. Đó là những
thông tin về tên sách, số tập, số quyển, số tờ, tên tác giả, tiểu sử tác giả, nội dung
chính và giá trị của tác phẩm, tình hình biên soạn, công bố tác phẩm Những thông
tin đó thật là quý giá, đặc biệt đối với những sách đã ra đời cách đây hàng mấy trăm
năm, giúp ích cho các nhà nghiên cứu ngày nay. Sự kế thừa còn thể hiện rõ ở chỗ:
dưới các yếu tố mô tả tác phẩm, Trần Văn Giáp đã chú thích thêm tác phẩm nằm ở
mục nào trong thư mục của Lê Quý Đôn và ở mục nào trong thư mục của Phan Huy
Chú để tiện cho người đọc tra cứu, so sánh.
7 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1633 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu kho sách Hán - Nôm - Một bộ thư mục có giá trị cao, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“Tìm hiểu kho sách
Hán - Nôm” - Một bộ
thư mục có giá trị cao
Lời tác giả: Trần Văn Giáp (1898-1973) là một nhà khoa học xã hội và nhân văn
đồng thời là nhà thư tịch học, thư mục học xuất sắc của Việt Nam. Ông đã để lại
nhiều tác phẩm nghiên cứu về sử học, ngôn ngữ học, thư tịch học mà một trong
những tác phẩm lớn của ông là bộ thư mục “Tìm hiểu kho sách Hán Nôm”.
Nhân dịp kỷ niệm 40 năm ra đời (1971- 2011) của tác phẩm trên, chúng tôi muốn giới
thiệu cùng bạn đọc đôi nét về giá trị của bộ sách này như một lời tri ân đối với tác
giả, học giả Trần Văn Giáp.
Bộ thư mục “Tìm hiểu kho sách Hán Nôm” của Trần Văn Giáp gồm 2 tập: Tập I xuất
bản lần 1, 1971, lần 2, 1984. Tập II xuất bản năm 1990. Bộ thư mục này giới thiệu
cho chúng ta trên 300 tác giả Việt Nam với tiểu sử rõ ràng và 470 bộ sách Hán Nôm
được chọn lọc, có phân tích kỹ lưỡng.
Giá trị trước hết của bộ thư mục “Tìm hiểu kho sách Hán Nôm” ở chỗ nó là một bộ
thư mục dân tộc, tổng hợp, hồi cố, như một tấm gương phản ánh kho tàng sách phong
phú của dân tộc ta.
Nhiều nước trên thế giới người ta đã biên soạn những thư mục hồi cố tương tự như
vậy.
Ví dụ:
Ở Anh có “Sách chỉ nam thư mục về tài liệu Anh” của William Thomas Lowders xuất
bản năm 1883 gồm các sách hiếm, quý, hữu dụng được xuất bản ở Anh liên quan đến
nước Anh và Ai-rơ- lan từ khi phát minh ra nghề in.
Mỹ có “Thư mục Mỹ” của Charles Evans xuất bản năm 1941 tập hơp tất cả các ấn
phẩm của Mỹ từ 1839 đến 1920.
Tại Pháp có thư mục “Tài liệu Pháp thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX” của Joseph
Marie Querand xuất bản năm 1827- 1864.
Nga có thư mục “Trong rừng sách” của N. A. Rubakin phản ánh tất cả các xuất bản
phẩm ở Nga trước Cách mạng tháng Mười 1917.
Trung Quốc có bộ thư mục “Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu” được biên soạn năm
1795 (đời Thanh) thâu tóm toàn bộ sách của Trung Quốc có từ trước đó.
Ở Việt Nam, những thư mục dân tộc đầu tiên là “Nghệ văn chí” của Lê Quý Đôn và
“Văn tịch chí” của Phan Huy Chú. Sau đó không kể những thư mục của người Pháp
biên soạn về Việt Nam thì Trần Văn Giáp là người thứ ba biên soạn thư mục dân tộc
tổng hợp với một quy mô lớn và với tác phẩm “Tìm hiểu kho sách Hán Nôm” xuất
bản năm 1971 bao gồm những tác phẩm tiêu biểu của Việt Nam từ thế kỷ XI đến đầu
thế kỷ XX bằng chữ Hán và chữ Nôm.
Khi biên soạn bộ thư mục trên, Trần Văn Giáp đã sử dụng phương pháp thư mục học
đặc biệt, đó là phương pháp thư mục học Việt Nam.
Trần Văn Giáp vốn được học nhiều về Hán học, sử học Trung Hoa nên ông rất am
tường về phương pháp thư mục học phương Đông. Ông lại được học khoa thư mục ở
Pháp và nắm được phương pháp thư mục học của phương Tây. Song khi vận dụng vào
thực tiễn biên soạn thư mục, Trần Văn Giáp đã trở về với cội nguồn dân tộc để kế
thừa và phát triển nền học thuật của nước nhà.
Nói về tính kế thừa, chính Trần Văn Giáp đã ghi trong bài tựa thư mục của
mình: “Soạn tập sách này, chúng tôi lấy hai thiên kinh tịch chí của Lê Quý Đôn và
Phan Huy Chú làm gốc”.
Trong thực tế, Trần Văn Giáp đã nghiên cứu, xử lý toàn bộ số tên sách của hai thư
mục cổ cùng với số sách đáng kể ông sưu tầm thêm được. Mặt khác ông đã lọc lấy tất
cả các thông tin mà các vị tiền bối đã cung cấp về sách trong thư mục. Đó là những
thông tin về tên sách, số tập, số quyển, số tờ, tên tác giả, tiểu sử tác giả, nội dung
chính và giá trị của tác phẩm, tình hình biên soạn, công bố tác phẩm Những thông
tin đó thật là quý giá, đặc biệt đối với những sách đã ra đời cách đây hàng mấy trăm
năm, giúp ích cho các nhà nghiên cứu ngày nay. Sự kế thừa còn thể hiện rõ ở chỗ:
dưới các yếu tố mô tả tác phẩm, Trần Văn Giáp đã chú thích thêm tác phẩm nằm ở
mục nào trong thư mục của Lê Quý Đôn và ở mục nào trong thư mục của Phan Huy
Chú để tiện cho người đọc tra cứu, so sánh.
Về việc phân loại sắp xếp sách trong thư mục, Trần Văn Giáp đã sử dụng phương
pháp sắp xếp theo nội dung tác phẩm, đó là phương pháp khoa học mà Lê Quý Đôn và
Phan Huy Chú đã làm. Từ đó ông đã xây dựng nên một bộ thư mục có giá trị và độ tin
cậy cao.
Cùng với sự kế thừa là sự sáng tạo trong phương pháp thư mục học của Trần Văn
Giáp. Chỉ xem xét một số mặt như việc giám định văn bản và phân loại, sắp xếp tài
liệu ta cũng thấy rõ điều này.
Trần Văn Giáp coi mỗi tác phẩm là đối tượng của một bài nghiên cứu, do đó ông đã
làm việc hết sức tỉ mỉ, cẩn trọng, tìm thấy sự chính xác cao nhất cho các văn bản. Điều
này quả là khó khăn bởi vì sách Hán Nôm có đặc tính chung là cũ nát, được nhân bản
bằng chép tay hoặc in bằng thủ công, nhiều khi bị “tam sao thất bản”, thật giả lẫn lộn,
đúng sai khó phân biệt. Để khắc phục điều này, Trần Văn Giáp đã nghiên cứu sâu
nhiều văn bản khác nhau cùng những tài liệu liên quan đến mỗi tác phẩm, tìm ra
những sở cứ cho sự khẳng định của mình. Trong nhiều trường hợp ông đã chính xác
hóa được nhiều yếu tố (tác giả, tác phẩm, sự kiện).
Thí dụ: Qua phân tích nhiều sử liệu ông khẳng định:
- Bộ “Đại Việt sử ký” của Lê Văn Hưu là bộ chính sử đầu tiên của nước ta còn lại,
không như một số người cho sách này “trùng tu” từ tác phẩm trước đó.
- “Lam sơn thực lục” do Lê Thái Tổ làm, còn Nguyễn Trãi, Phan Phu Tiên, Lý Tử
Cấu là những người được Lê Lợi giao cho việc biên sửa từ “Lam sơn ký” để hoàn
chỉnh tác phẩm này.
- “Lê triều thông sử” là tên đúng của bộ sử do Lê Quý Đôn biên soạn, không phải là
“Đại Việt thông sử” vì Lê Quý Đôn chỉ soạn sử triều Lê, hơn nữa Phan Huy Chú cũng
đã giới thiệu tên sách này trong “Nghệ văn chí”.
Trần Văn Giáp cũng phân biệt rõ những tác phẩm dễ nhầm lẫn để đồng nhất hóa văn
bản cho từng bộ sách. Thí dụ:
- Phân biệt bộ “Đại Nam thực lục chính biên” không rõ tác giả với “Đại Nam thực
lục” (tiền biên và chính biên) do Sử quán triều Nguyễn soạn.
- “Hoàng triều đại điển” của Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn soạn, có sách
lại ghi là “Trần triều đại điển”.
Có những tác phẩm lại có nhiều bản khác nhau, Trần Văn Giáp đã giới thiệu từng bản
đó.
Thí dụ: “Ức Trai tập” của Nguyễn Trãi có tới 4 bản, mỗi bản có những chi tiết khác
nhau. “Đại Việt sử ký toàn thư” có 3 bản, mỗi bản có những phần đúng sai thêm bớt.
Hầu hết các tác phẩm còn được Trần Văn Giáp giới thiệu cấu trúc của nó, nội dung
chính của từng phần, các bài bạt, bài tựa và nhiều tài liệu, sự kiện liên quan.
Từ đó việc ghi chép, giới thiệu sách của thư mục được Trần Văn Giáp phân thành 3
mảng:
1) Miêu tả sách
2) Nội dung sách
3) Tiểu truyện các tác giả.
Các mảng này Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú cũng có làm, song Trần Văn Giáp đã đi
sâu, phát triển hơn nhiều. Điều đó khiến người đọc tra cứu được kỹ lưỡng về tác phẩm
như đi vào một khu rừng đại ngàn mà được hướng dẫn đầy đủ, chi tiết đến từng thân
cây, ngọn cỏ.
Về mặt phân loại, sắp xếp tác phẩm chúng ta càng thấy sự độc lập, sáng tạo của Trần
Văn Giáp. Như trên đã nói, ông phân loại, sắp xếp tài liệu theo nội dung khoa học của
chúng. Và theo cách gọi các môn khoa học hiện nay, các sách trong thư mục được
phân thành 8 môn loại:
I - Lịch sử V - Văn học
II - Địa lý VI - Tôn giáo
III - Kỹ thuật VII - Triết học
IV- Ngôn ngữ VIII - Sách tổng hợp
Trong mỗi loại lại chia thành các đề mục nhỏ, thí dụ:
Lịch sử có: 1. Lịch sử nói chung
2. Khảo cổ
3. Tổ chức nhà nước
4. Giáo dục
5. Truyện ký
6. Phả lục
Với cách phân loại trên, Trần Văn Giáp đã xây dựng một bảng phân loại mới cho thư
mục. Ông không phân chia sách thành 4 môn loại như Lê Quý Đôn. (“Nghệ văn chí”
chia sách thành 4 mục: 1. Hiến chương loại 2. Thi văn loại 3. truyện ký loại 4. Phương
kỹ loại) và Phan Huy Chú cũng vậy (“Văn tịch chí” chia sách thành 4 mục: 1. Hiến
chương loại 2. Kinh sử loại 3. Thi văn loại. Truyện ký loại (phụ lục: Phương kỹ loại).
Cách chia thành 4 mục tuy có thích hợp với số lượng sách thời đó, song không có các
phần chi tiết làm hạn chế độ chính xác khi sắp xếp tài liệu).
Ông cũng không phân chia sách theo cách phân loại của “Tứ khố toàn thư” (Trung
Quốc cổ) với: 1. Kinh 2. Sử 3. Tử 4. Tập, hoặc tứ bộ có mở rộng như “Tụ khuê thư
viện tổng mục sách” của thư viện Tụ Khuê triều Nguyễn với: 1. Kinh 2. Sử 3. Tử 4.
Tập và Tây thư, “Lê thị tích thư ký” của Lê Nguyên Trung với: 1. Kinh 2. Thư 3. Sử
4. Tử 5. Tập 6. Cử nghệ 7. Tạp trứ. Những cách này không phù hợp với nội dung sách
của Việt Nam. Cách phân chia theo khu vực địa lý như “Hoàng Nguyễn tứ khố thư
mục” cũng không thích hợp với thư mục dân tộc tổng hợp.
Trần Văn Giáp cũng không làm như các thư mục của người Pháp biên soạn về Việt
Nam. Họ chủ yếu phân loại sắp xếp tài liệu theo hình thức của tài liệu và thứ tự chữ
cái. Có một vài thư mục sắp xếp tài liệu theo chủ đề song sự xác định chủ đề cũng
không thích hợp với các tài liệu Hán Nôm và thư mục dân tộc.
Ngoài ra Trần Văn Giáp còn xây dựng bảng tra bổ trợ (bảng tra tên tác giả và tác
phẩm). Đây là điều mà các thư mục trước ông đã không làm. Các bảng tra giúp độc
giả sử dụng thư mục dễ dàng đồng thời thể hiện tính khoa học cao của thư mục.
Tóm lại, cách trình bày và cấu trúc thư mục “Tìm hiểu kho sách Hán Nôm” của Trần
Văn Giáp không những phát huy được phương pháp thư mục của dân tộc mà còn tiếp
cận được với phương pháp thư mục hiện đại.
Giáo sư Trần Nghĩa (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) đã viết: “Tìm hiểu kho sách Hán
Nôm” là chiếc cầu nối giữa hai nền thư tịch cũ và mới. Nhận định này quả là rất chính
xác.
Trong bối cảnh những năm 60 của thế kỷ trước, hoạt động thư mục ở nước ta chưa
phát triển mạnh thì công trình thư mục của Trần Văn Giáp là một bước tiến có ý
nghĩa, tạo tiền đề cho những thư mục ra đời phong phú, đa dạng từ những năm 70 trở
đi.
Ngày nay nhiều thư mục đã ra đời sau thư mục của Trần Văn Giáp với dung lượng tài
liệu lớn hơn, song thư mục “Tìm hiểu kho sách Hán Nôm” vẫn là một cái mốc quan
trọng trong lịch sử thư mục học Việt Nam, có giá trị như một nguồn tài liệu văn học,
sử học Việt Nam đồng thời có giá trị đặc biệt về phương pháp thư mục học khoa học
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Nghĩa. Những đóng góp của “Tìm hiểu kho sách Hán Nôm” trên lĩnh vực thư
tịch học // Trần Văn Giáp với sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. - H.: Văn hóa-
thông tin, 1997. - 377 tr.
2. Trần Văn Giáp. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm: Nguồn tư liệu văn học sử học Việt
Nam.
T1: H.: Văn hóa, 1984. - 431 tr. T2: H.: Khoa học xã hội, 1990. - 279 tr.
3. Trịnh Kim Chi. Tính kế thừa và sáng tạo trong phương pháp thư mục học của Trần
Văn Giáp // Trần Văn Giáp với sự nghiệp bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. - H.: Văn
hóa - thông tin, 1997. - 377 tr.
____________________
Trịnh Kim Chi
Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam số 5(31) – 2011 (tr.13-16)